Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
TỔNG QUAN VỀ CÁC THANG ĐO GÂY HẤN TRÊN THẾ GIỚI VÀ PHÁT
TRIỂN THANG ĐO TÍNH GÂY HẤN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI VIỆT NAM
Trần Văn Công, Nguyễn Thị Hồng, Lý Ngọc Huyền*
Trường Đại học Giáo Dục, ĐHQGHN
*Tác giả liên lạc:
(Ngày nhận bài: 09/8/2017; Ngày duyệt đăng: 30/9/2017)
TĨM TẮT
Bài viết trình bày về việc tổng quan các thang đo gây hấn trên thế giới, từ đó xây dựng
thang đo tính gây hấn cho học sinh Việt Nam lứa tuổi Trung học cơ sở (từ 11 đến 15
tuổi). Sau q trình tổng hợp, dịch, thích nghi về ngơn ngữ từ 3 thang đo tính gây hấn
trên thế giới, chúng tôi đã xây dựng được một thang đo gồm 53 câu. Sau khi thử nghiệm
trên 371 học sinh từ 3 trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội, một thang đo tính
gây hấn gồm 36 câu với 2 nhân tố: gây hấn hành vi (hệ số tin cậy α = 0.799) và gây hấn
thái độ (hệ số tin cậy α= 0.892) đã được xây dựng. Khuyến nghị về việc sử dụng thang
đo cũng như đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này trong tương lai cũng
được đưa ra.
Từ khóa: Thang đo, xây dựng thang đo, tính gây hấn, Việt Nam.
OVERVIEW OF THE SCALE OF AGGRESSION IN THE WORLD AND
SCALE DEVELOPMENT OF AGGRESSION FOR SECONDARY SCHOOL
IN VIETNAM
Tran Van Cong, Nguyen Thi Hong, Ly Ngoc Huyen*
University of Education Hanoi – Vietnam National University, Hanoi
*Corresponding Author:
ABSTRACT
The current paper presents an overview of aggression measurement in the world,
thereby establishing an aggression scale Vietnam for students in junior high schools
(from 11 to 15 years old). After literature review, translation, and language adaptation
from 3 aggression scales, a new scale of 53 items was built. After the survey on 371
students from 3 secondary schools in Hanoi city, an aggression cale of 36 items with
two factors: aggressive behavior (α = 0.799) and aggressive attitude (α = 0.892) was
established. Recommendations for the usage of the scale as well as suggestions for
futher research on this issue in the future was also given.
Keywords: Scale, scale establishment, aggression, Vietnam.
MỞ ĐẦU
Tính gây hấn là hiện tượng phổ biến ở trẻ
em đang ở độ tuổi đến trường và có thể để
lại những hệ quả tiêu cực ở cả người gây
hấn và nạn nhân [5]. Phần lớn các mâu
thuẫn ấy đều được châm ngịi từ những
xích mích rất nhỏ. Điển hình là trường hợp
của học sinh lớp 11, vì mâu thuẫn nhỏ trên
Facebook đã bị một nhóm bạn đánh khiến
em khơng thể cất lên tiếng nói22 hay vụ
việc học sinh lớp 7 bị đánh hội đồng vì
22
tho-bi-ban-danh-cam-khau-da-noi-duoc1428363351.htm
M.C, Nữ sinh Phú Thọ bị bạn đánh cấm khẩu đã nói
được, />
76
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
không nghe lệnh của bạn khác23v.v. Thực
tế cho thấy gây hấn học đường đã để lại
nhiều hậu quả vơ cùng đau lịng. Sau khi
bị gây hấn, nhiều em đã khơng kiểm sốt
được suy nghĩ, khơng vượt qua được nỗi
tuyệt vọng của bản thân và lựa chọn cái
chết như một sự tự giải thốt. Điển hình là
vụ việc của nam sinh 17 tuổi tại Hàn
Quốc24 và sự ra đi của nữ sinh loại ưu tại
Mỹ25, đã gióng một hồi chuông cảnh tỉnh
tới các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục.
Rõ ràng, hậu quả của hành vi gây hấn
không chỉ để lại nỗi đau cho riêng một cá
nhân mà cịn ảnh hưởng tới cả cộng đồng.
Tại Việt Nam, tính gây hấn đã thu hút được
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên
nhiều phương diện, như thực trạng, mối
quan hệ về giới, sự tác động của game bạo
lực, v.v. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới
chỉ dừng lại ở việc mơ tả thực trạng bắt nạt
nói chung, chưa đi sâu yếu tố khả năng tự
kiểm soát cũng như mối quan hệ với khả
năng tự kiểm sốt, v.v. Chúng tơi tiến
hành xây dựng thang đo tính gây hấn dành
cho học sinh THCS Việt Nam nhằm hỗ trợ
công cụ cho những nghiên cứu tiếp theo về
vấn đề này trong tương lai.
Tuy nhiên, về thuật ngữ, hành vi gây hấn
lại không đồng nhất với bạo lực.
Hành vi bạo lực là hậu quả của hành động
thì hành vi gây hấn lại là bản chất của hành
động [4]. Về mức độ gây hấn, theo kết quả
nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức và
cộng sự (2008 - 2010), chỉ có 0,1% học
sinh khơng bao giờ gây hấn, 95,3% học
sinh thỉnh thoảng có gây hấn và 4,5% học
sinh gây hấn thường xuyên. Về mức độ bị
gây hấn của học sinh bởi những bạn cùng
học, số liệu nghiên cứu cho thấy 2,6% học
sinh thường xuyên bị gây hấn và 97,4%
học sinh thỉnh thoảng bị gây hấn trong
phạm vi học đường [5]. Về sự khác biệt về
giới, tác giả Hoàng Xuân Dung (2010)
thuộc Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ Đại học Quốc gia Hà Nội có bài nghiên
cứu “Khác biệt giới trong hành vi gây hấn
của học sinh Trung học phổ thơng” [4].
Dựa trên số liệu phân tích điều tra của tác
giả Trần Thị Minh Đức và mở rộng, tác giả
chỉ ra rằng ở một mức độ nhất định như sự
khiêu khích thấp thì học sinh nam có xu
hướng hành vi gây hấn nhiều hơn học sinh
nữ [4, tr.196]. Nhưng trong những hoàn
cảnh nghiêm trọng như bị xúc phạm, dù là
học sinh nam hay nữ thì đều có những
hành vi gấy hấn để đáp trả. Điểm khác biệt
là so với nam thì các em nữ thường chọn
cách gây hấn gián tiếp làm nạn nhân tổn
thương về tinh thần hơn là về mặt thể xác,
trái lại, các em nam lại gây hấn công khai
phổ biến hơn [4].
Đo đạc về tính gây hấn
Trên thế giới, nhiều cơng cụ đo đạc tính
gây hấn đã được xây dựng và sử dụng
trong các nghiên cứu. Những bảng hỏi,
thang đo tiêu biểu được trình bày dưới
bảng sau:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Tính gây hấn
Trong các nghiên cứu, tính gây hấn được
định nghĩa khác nhau. Sau khi đọc và tổng
hợp tài liệu, chúng tôi rút ra một khái niệm
chung và khái quát về tính gây hấn như
sau, tính gây hấn là những biểu hiện
mang tính chất xâm hại, nhằm làm tổn
thương người khác, chính bản thân mình
hoặc các vật thể xung quanh một cách có
chủ đích mặc dù có đạt được hay khơng.
23
24
Cứu Long, Nữ sinh bị đánh hội đồng vì khơng tn
lệnh lớp trưởng, />
Phương Anh, Nạn tự sát nhức đầu chính phủ Hàn
Quốc, />25
Trang Anh, Nữ sinh tự tử vì bị bạn bè bắt nạt,
/>
77
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
Bảng 1. Tổng hợp một số thang đo về tính gây hấn đã được cơng bố trên thế giới
Tên thang
Tên tác
Hình thức
Cấu trúc
Đối
Nhận xét
đo
giả năm
của thang
của thang
tượng
thang đo
xuất bản
đo
đo
sử dụng
thang
đo
The
Overt Yudofsky 16 câu, được Thang
đo Cả
Tác giả đã xây
Aggression
và cộng thiết kế dưới gồm 4 nhân người
dựng thang đo
Scale
sự (1986) hình
thức tố: gây hấn lớn và dựa trên sự
tích chọn
với bản thân, trẻ em
phân loại biểu
gây hấn với
hiện tác động
đến chủ thể nạn
đồ vật, gây
nhân của tính
hấn với bản
gây hấn. Mỗi
thân,
gây
đối tượng đều
hấn
với
có 4 mức độ bị
người khác
tác động từ nhẹ
đến
nặng,
tương ứng với 4
mức độ nghiêm
trọng của tính
gây hấn
The
Buss và 29 câu, thiết Thang
đo Từ 18 Tác giả đã xây
Aggression
cộng sự kế
theo gồm 4 nhân đến 20 dựng thang đo
Questionnaire (1992)
Likert
5 tố: gây hấn tuổi
dựa trên sự
điểm
thể chất, gây
phân loại hình
hấn bằng lời
thức biểu hiện
nói, tức giận,
của tính gây
thù địch
hấn
The
Orpinas
11 câu, thiết Thang
đo Học sinh Tác giả xây
Aggression
và cộng kế
theo gồm 2 nhân THCS
dựng thang đo
Scale
sự (2001) Likert
3 tố: gây hấn (cụ thể cũng dựa trên
điểm
thể chất và khối 6, sự phân loại
lời nói, tức khối 7, hình thức biểu
giận
khối 8)
hiện của tính
gây hấn.
Trong thang đo
gây hấn này, 11
câu đại diện
cho ba nhân tố
đã được phân
tích. Hai nhân
tố đầu tiên, gây
hấn thể chất và
gây hấn bằng
lời, là những
hành vi trực
78
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
Pictorial
Cecil và Bảng
báo
Measure of cộng sự cáo tự tóm
Caregiver
(2016)
tắt được thiết
Aggression
kế dưới dạng
sử dụng các
hình
ảnh
minh họa
Bảng hỏi đã
đánh giá:
- Mục đích
xác nhận.
- Lịch sử
chấn
thương.
- Mức độ của
các
triệu
chứng tâm
thần sau bạo
hành.
tiếp gây hấn với
người
khác. Nhân tố
thứ ba, sự tức
giận, đại diện
cho kích thích
tình cảm có thể
dẫn đến gây
hấn (Berkowitz
&
Heimer,
1989). Ba nhân
tố này đã được
bao gồm cũng
được bắt gặp ở
thang đo khác
(Buss & Perry,
1992)
Bảng hỏi có
Thanh
niên từ mối tương quan
16 đến đáng kể với các
báo cáo về triệu
24 tuổi
chứng
tâm
thần. Các phát
hiện ban đầu đã
cung cấp độ tin
cậy và độ hiệu
lực của bảng
hỏi như một
cơng cụ sàng
lọc ngắn cho
những người
chăm sóc xâm
lược.
The
Brief Webster
12 câu, thiết Thang
đo Độ tuổi Trong nghiên
Aggression
và cộng kế
theo gồm 4 nhân từ 17 đến cứu này, các tác
giả đã phát triển
Questionnaire sự (2014) Likert
10 tố: gây hấn 36 tuổi
và xây dựng
điểm
thể chất, gây
một bảng hỏi
hấn bằng lời
ngắn thay thế
nói, tức giận,
bảng hỏi của
thù địch
Buss và cộng
sự (1992) để
phù hợp khảo
sát nhanh, ngắn
gọn.
79
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
cộng sự (1992) [1]; The Aggression Scale
của Orpinas và cộng sự (2001) [7]; The
Overt Aggression Scale của Yudofsky và
cộng sự (1986) [9].
Từng câu trong mỗi thang đo đều được
dịch, thích nghi Tiếng Việt, chọn lọc và bổ
sung hợp từ các thang đo, bảng hỏi khác
nhau từ các nhà khoa học. Trước khi đưa
vào thực hiện khảo sát trên tồn bộ khách
thể nghiên cứu, chúng tơi thử nghiệm trên
9 em học sinh THCS ở cả 4 khối lớp (3 em
lớp 6, 2 em lớp 7, 2 em lớp 8 và 2 em lớp
9), giải thích những thắc mắc liên quan đến
những phần các em chưa hiểu đúng nghĩa,
nét nghĩa cịn mờ nhạt, ghi chép lại những
khó khăn trong q trình thực hiện. Dựa
trên những phản hồi của các em chúng tơi
đã chỉnh thang đo phù hợp từ đó xây dựng
được 2 thang đo sử dụng cho nghiên cứu
này.
Thang đo tính gây hấn bao gồm 53 câu
miêu tả tính gây hấn với 4 mức độ để cá
nhân học sinh tự đánh giá như 1 = Không
bao giờ, 2 = Hiếm khi, 3 = Thỉnh thoảng,
4 = Thường xuyên.
Sau khi tham khảo các thang đo đã có,
chúng tơi xây dựng bảng hỏi về tính gây
hấn phù hợp cho nghiên cứu này, đồng thời
khảo sát các yếu tố liên quan bao gồm: yếu
tố nhân khẩu học, môi trường sống, sự ảnh
hưởng của game bạo lực, phim ảnh.
Số liệu được nhập theo phương án trả lời
tương ứng với các số 1, 2, 3, 4 vào Excel,
sau đó được nhập lại, kiểm tra và sửa chữa
những chỗ nhập sai. Cuối cùng số liệu
được chuyển sang SPSS để phân tích.
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Tổ chức nghiên cứu
Để thu thập số liệu sử dụng cho nghiên cứu
này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát học
sinh từ lớp 6 đến lớp 9 tại 3 trường THCS
trên địa bàn Hà Nội. Trong số 412 phiếu
phát ra, chúng tơi thu lại được 410 phiếu
và có 371 phiếu hợp lệ, được sử dụng trong
nghiên cứu. Về giới tính, lượng khách thể
phân bố tương đối đồng đều với 198 học
sinh nữ (chiếm 53.95%) và 169 học sinh
nam (chiếm 46.05%).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn
học sinh THCS làm khách thể nghiên cứu
cũng bởi nhiều lý do. Trước hết, các kết
quả nghiên cứu đã cho thấy rằng, biểu hiện
của tính gây hấn đang là một vấn nạn hiện
nay, đặc biệt là dưới hình thức bạo lực học
đường mà sự tự kiểm soát kém là một
nguyên nhân dẫn đến thực trạng này.
Học sinh THCS là lứa tuổi thiếu niên tình
từ 11 đến 15 tuổi. Sự thay đổi về sinh lý
cũng dẫn ảnh hưởng rõ rệt tới sự thay đổi
về tâm lý trong giai đoạn này, quá trình
hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, sự ức chế
bị kém đi dẫn đến nhiều khi thiếu niên
khơng làm chủ được mình, dễ bực tức, cáu
gắt nên dễ vi phạm kỉ luật [3, tr.178]. Các
em dễ có phản ứng mãnh liệt trước sự đánh
giá, nhất là sự đánh giá thiếu cơng bằng từ
phía người lớn [3, tr.191], dễ xúc động,
biểu lộ tình cảm một cách dễ dàng, tình
cảm dễ chuyển hố và mang tính chất bồng
bột hăng say [3, tr.191, tr.192]. Đặc điểm
này cho thấy, khả năng kiểm soát bản thân
ở lứa tuổi này là khá kém, các em dễ dàng
bị kích động, khó kìm chế bản thân và tạo
điều kiện để hành vi gây hấn dễ dàng bộc
lộ.
Phương pháp nghiên cứu
Thang đo tính gây hấn được xây dựng
nhằm khảo sát thực trạng tính gây hấn và
mối quan hệ với những yếu tố liên quan ở
học sinh THCS hiện nay. Thang đo tính
gây hấn được chúng tôi tham khảo và tổng
hợp từ các thang đo gây hấn, cụ thể là The
aggression questionnaire của Buss và
KẾT QUẢ
Q trình phân tích nhân tố
Nhằm mục đích là xây dựng thang đo bảng
hỏi nên chúng tôi sử dụng chủ yếu chiến
lược phân tích nhân tố nhân tố (Factor
Analysis) với bảng hỏi tính gây hấn. Để
lựa chọn ra số nhân tố tối ưu và lựa chọn
câu nào về nhân tố nào, sự kết hợp các yêu
tố sau được áp dụng: giá trị riêng
(Eigenvalue), được biểu thị qua biểu đồ
chân đồi (Scree-plot), hệ số tải (Item80
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
Factor loading) sự phù hợp của nội dung
câu với nhân tố, và số lượng câu trong mỗi
nhân tố. Khi tiến hành phân tích nhân tố
trên phần mềm SPSS, chúng tơi chọn
phương pháp Principal Axis Factoring
(Phân tích nhân tố cấu trúc trục chính),
chọn chế dộ xoay Direct Oblimin với Delta
= 0.
Các con số trong bảng là hệ số tải sau khi
đã xoay theo Oblimin với Delta = 0 để tìm
ra phương án tối ưu ghép câu vào nhân tố
phù hợp nhất. Như vậy, nhân tố 1 (gây hấn
hành vi) có 22 câu với hệ số tin cậy bên
trong Cronbach alpha là α = 0.892 và nhân
tố 2 (gây hấn thái độ) có 14 câu với hệ số
tin cậy bên trong Cronbach alpha là α =
0.799. Thang đo có hệ số tin cậy khá cao,
hồn tồn có thể sử dụng để đo hành vi gây
hấn. Một số câu không phù hợp về nội
dung với nhân tố chúng tải vào, dù hệ số
tải > 0.3, tức là ở mức độ chấp nhận được.
Vì vậy chúng tơi loại bỏ những câu này ra
khỏi thang đo cuối cùng. Tổng hợp lại,
Biểu đồ 1. Biểu đồ chân đồi Gây hấn
chúng tơi có thang đo tính gây hấn gồm 36
(Scree plot)
câu.
Bảng 2. Ma trận xu hướng của thang đo tính gây hấn
Nhân tố
1
2
Câu
Tự làm đau bản thân: gây ra những vết cắt sâu, tự cắn chảy máu,
0.796 -0.188
gây ra những vết thương nặng, gẫy xương, mất ý thức, gẫy răng...
Cố ý đập vỡ đồ vật
0.704 -0.090
Gây ra các vết cắt, vết bầm hoặc vết nỏng nhỏ cho bản thân
0.696 -0.078
Đưa ra các mối đe dọa bạo lực rõ ràng ví dụ như sẽ làm hại người
0.685 0.024
khác
Tấn công những người khác, gây ra các tổn thương nhẹ, trung bình
0.683 -0.016
(vết bầm tím, bong gân,..)
Lấy trộm quần áo, đồ dùng của bạn khác
0.677 -0.190
Đập đầu, đấm tay vào các đồ vật, tự quăng mình xuống sàn hoặc
vào các vật nào đó (chỉ đau đớn chứ khơng gây ra các tổn thương
0.677 0.002
nguy hiểm cho bản thân)
Đập mạnh cửa, vứt quần áo lung tung, tạo thành một mớ hỗn độn
0.648 0.075
Tấn công người khác, gây ra những tổn thương thân thể nghiêm
0.632 -0.160
trọng (gãy xương, gây ra những vết thương nặng, vết rách sâu..)
Tấn công, đá, đẩy, kéo tóc người khác nhưng khơng gây trấn
0.609 0.138
thương cho họ
Tự cào xước da, tự đánh bản thân và giật tóc mình (khơng có hoặc
0.602 0.059
chỉ gây ra các vết thương nhẹ)
Em khuyến khích những bạn khác đánh nhau
0.591 -0.090
Em đánh nhau nhiều hơn những người khác một chút
0.558 0.046
Đốt, ném các đồ vật
0.531 -0.045
Đôi khi em ném thứ đang cầm trong tay đi vì một lý do khơng tốt
0.517 0.215
nào đó
81
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
Vẽ bậy, nẽm đá đồ vật nhưng không làm hỏng
Em gọi các bạn khác bằng những biệt danh khơng hay
Em đã đánh nhau vì khơng kiềm chế được sự tức giận
Làm cử chỉ đe dọa,huých vào người các bạn khác
Em đánh nhau vì bị gây sự trước
Nói bậy, nói tục, chửi rủa ác ý đe dọa người khác hoặc bản thân (ở
mức độ vừa phải)
Em từng trêu chọc các bạn khác khiến cho họ tức giận
Em trở nên cáu giận bực mình khi làm đổ vỡ hoặc gặp thất bại
Đơi khi em cảm thấy mình rất dễ bị kích động
Em rất dễ tức giận với ai đó
Khi gặp thất bại, em thường bộc lộ sự tức giận ra bên ngồi
Đơi khi em cảm thấy rằng mọi người đang cười nhạo sau lưng
mình
0.514
0.511
0.503
0.488
0.346
0.172
0.153
0.289
0.141
0.230
0.329
0.313
0.328
0.110
-0.059
0.233
0.072
0.316
0.659
0.644
0.559
0.548
-0.125
0.519
Khi đã xác định được các nhân tố, chúng nghĩa thống kê với p=0.00 (t=-24.73). Khi
tôi tiến hành so sánh ANOVA điểm trung nói đến hành vi gây hấn, người ta sẽ nghĩ
bình, gây hấn hành vi và gây hấn thái độ, ngay đến gây hấn bằng bạo lực, tuy nhiên,
để thấy được sự khác biệt về giới tính, về hình thức này lại khơng phổ biến bằng
học lực và các yếu tố liên quan. Chúng tôi hình thức gây hấn bằng thái độ. Kết quả
tính tương quan Correlation để xem xét sự này cũng là minh chứng cho thấy gây hấn
tương quan giữa điểm trung bình của các hành vi hay tên gọi khác là bạo lực, nó chỉ
nhân tố tính gây hấn, giữa nhân tố tính gây là một phần nhỏ của biểu hiện tính gây
hấn.
hấn với các yếu tố liên quan.
Chúng tôi cũng tiến hành so sánh cặp đơi Dùng ANOVA để tìm ra sự khác biệt giới
T-test để so sánh các nhân tố biểu hiện của của gây hấn hành vi và gây hấn thái độ.
tính gây hấn. Các em có xu hướng gây hấn Chỉ số p đều nhỏ hơn 0.05, có sự khác biệt
thái độ (M=2.45) nhiều hơn gây hấn hành rõ ràng về giới về mức hộ gây hấn hành vi
vi (M=1.69) và sự khác biệt này là có ý và gây hấn thái độ.
Bảng 3. So sánh sự khác biệt về giới của các nhân tố biểu hiện của tính gây hấn
Nhân tố
Gây hấn hành vi
Gây hấn thái độ
Giới tính
Nam
Nữ
Nam
Điểm
trung bình
1.81
1.60
2.37
Nữ
2.52
82
F
p
15.33
0.00
6.99
0.01
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
Gây hấn hành vi là một loại gây hấn trực
tiếp, sử dụng hành vi để thỏa mãn sự bực
tức, sự mất kiểm sốt, thể hiện bằng hành
động, cịn gây hấn gián tiếp gây ra những
tổn thương về tâm lý đối phương thơng
qua những lời nói xúc phạm, tung tin đồn
nhảm, v.v. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở
nam giới có xu hướng thực hiện gây hấn
hành vi nhiều hơn nữ giới. Và ngược lại,
nữ giới lại có xu hướng thực hiện hành vi
gây hấn thái độ nhiều hơn nam giới, kết
quả này có ý nghĩa thống kê.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu cịn cho thấy
rằng có sự tương quan thuận ở mức độ
trung bình (r26 = 0.42**) giữa gây hấn thái
độ và gây hấn hành vi. Sự tương quan này
cho thấy, ở một số học sinh có biểu hiện
gây hấn thái độ cũng sẽ có xu hướng thực
hiện gây hấn hành vi.
yếu đo trên hung thủ.
So sánh với nghiên cứu trước đây, trong
khi Buss, Perry và Mark (1992) đã xây
dựng một bảng câu hỏi gây hấn với 4 nhân
tố mở rộng: gây hấn thể chất, gây hấn bằng
lời, tức giận, và thù địch [1]; Yudofsky và
cộng sự (1986) cũng xây dựng thang đo
gây hấn với 4 loại: gây hấn bằng lời nói,
gây hấn thể chất đối với các đối tượng, gây
hấn thể chất với bản thân, và gây hấn thể
chất với những người khác [4] thì trong
nghiên cứu này thang đo gây hấn của
chúng tôi chỉ ra 2 nhân tố chính là gây hấn
hành vi và gây hấn thái độ, đó là sự tích
hợp từ những thang đo trên cũng như căn
cứ vào nghiên cứu mà chúng tôi rút ra
được.
Khi sử dụng thang đo này, chúng tôi đề
xuất nhà nghiên cứu thay đổi ngôn ngữ cho
phù hợp với văn hóa, ngơn ngữ của khách
thể được điều tra.
Với hướng nghiên cứu tương lai chúng tôi
đề xuất xây dựng thang đo khả tính cho
từng đối tượng vì mỗi lứa tuổi, nhóm
người sẽ có biểu hiện tính gây hấn cơ bản
khác nhau; đồng thời mở rộng thang đo, để
có thể khảo sát tổng thể cả về hung thủ lẫn
nạn nhân của sự tự kiểm sốt kém.
KẾT LUẬN
Thang đo tính gây hấn có hệ số tin cậy bên
trong cao cho thấy thang đo hồn tồn khả
thi khi sử dụng để đo tính gây hấn của đối
tượng học sinh THCS trong các nghiên
cứu về vấn đề này. Hạn chế của thang đo
này là tính gây hấn được thể hiện ở cả hung
thủ và nạn nhân nhưng thang đo này chủ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BUSS, A. H., & PERRY, M. (1992). The aggression questionnaire. Journal of
personality and social psychology, 63(3), 452.
CECIL, C. A., MCCRORY, E. J., VIDING, E., HOLDEN, G. W., & BARKER, E. D.
(2016). Initial validation of a brief pictorial measure of caregiver aggression: the
Family Aggression Screening Tool. Assessment, 23(3), 307-320.
ĐINH THỊ KIM THOA, NGUYỄN THỊ MỸ LỘC, TRẦN VĂN TÍNH (2009), Tâm lý
học phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
HOÀNG XUÂN DUNG, 2010, Khác biệt về giới trong hành vi gây hấn của học sinh
THPT, Nghiên cứu gia đình và giới. Quyển 20-số 3, trang 68-77.
TRẦN THỊ MINH ĐỨC, Hành vi gây hấn của học sinh phổ thông trung học, Năm
2008-2010, Trung tâm hỗ trợ nghiên cứu Châu Á và Quỹ cao học Hàn Quốc,
ĐHQGHN.
TRẦN THỊ MINH ĐỨC (2013), Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm lý học xã hội,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
26
r: Hệ số tương quan
83
Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (2), 2017
ORPINAS, P., & FRANKOWSKI, R. (2001). The Aggression Scale: A self-report
measure of aggressive behavior for young adolescents. The Journal of Early
Adolescence, 21(1), 50-67.
WEBSTER, G. D., DEWALL, C. N., POND, R. S., DECKMAN, T., JONASON, P. K.,
LE, B. M.,... & SMITH, C. V. (2014). The brief aggression questionnaire:
Psychometric and behavioral evidence for an efficient measure of trait
aggression. Aggressive behavior, 40(2), 120-139.
YUDOFSKY, S. C., SILVER, J. M., JACKSON, W., ENDICOTT, J., & WILLIAMS,
D. (1986). The Overt Aggression Scale for the objective rating of verbal and
physical aggression. The American journal of psychiatry.
84