Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Xu hướng biến đổi cơ cấu của Việt Nam hiện nay. Xã hội học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.49 KB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển, mỗi khi chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác,
không chỉ các yêu tố khác nhau của cơ cấu xã hội đều có sự biến đổi, mà mỗi sự biến
đổi cịn đặt ra khơng ít vẫn đề có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phát triển của xã
hội Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, vì một xã hội thực sự dân chủ, cơng bằng, văn minh. Điều đó cũng có
nghĩa là xã hội chúng ta cũng có những biến đổi sâu sắc trên tất cả các phương diện:
giai cấp, nghề nghiệp, dân số, dân tộc, tôn giáo... Sự biến đổi này đương nhiên là một
nhân tố tích cực, nó đã góp phần làm thay đổi một cách căn bản mọi mặt đời sống của
người dân trên mọi miền đất nước. Nhưng cùng với những biến đổi tích cực này, hàng
loạt vấn đề kinh tế - xã hội cũng đã đặt ra: đó là khoảng cách giàu - nghèo ngày càng
gia tăng; sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị, giữa miền xuôi và miền núi, sự mất cân
bằng giới giữa nam và nữ, sự bất bình đẳng giữa lao động chân tay và lao động trí óc,
vấn đề di dân tự do từ Bắc vào Nam, từ nông thôn ra đô thị, rồi các vấn đề về dân tộc,
tôn giáo và nhiều vấn đề khác nữa. Đây là những chủ đề mà trong dư luận xã hội, cũng
như trên các phương tiện truyền thông hàng ngày người ta vẫn thường nói đến. Tuy
nhiên, trong thực tế, sự biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời đổi mới diễn ra như
thế nào? Lý do xã hội nào quy định sự biến đổi đó? Các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra
theo đó là gì? Tần số và cường độ của chúng ra sao? Những ảnh hưởng - kể cả tích cực
và tiêu cực - của chúng đến đâu?... Đó là những câu hỏi đặt ra, đòi hỏi phải được nghiên
cứu và trả lời một cách thấu đáo trên phương diện khoa học. Để trả lời cho những câu
hỏi trên nhóm chúng em đã thực hiện đề tài thảo luận “ Xu hướng biến đổi cơ cấu của
Việt Nam hiện nay “. Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận
của nhóm em khơng tránh khỏi những sai sót. Chúng em mong nhận được ý kiến đóng
góp của cơ giáo để bài tiểu luận hoàn thiện hơn!
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN I: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Cơ cấu xã hội.
1.1.1. Khái niệm


- Cơ cấu xã hội là là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã
hội. các cộng đồng xã hội ( dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội,… ) là những thành tố cơ
bản. về phần mình mỗi cộng xã hội lại có cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên
trong và những mối liên hệ giữa chúng. Một số nhà thuyết lý xã hội còn đưa ra định
nghĩa : “ Cơ cấu xã hội là mơ hình của các mối liên hệ giữ các thành phần cơ bản
trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tại nên bộ khung cho tất cả các xã
hội lồi người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các mối quan hệ giữa chúng
biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu
xã hội là vị trí, vai trị, nhóm và các thiết chế,...".
- Cơ cấu xã hội là một khái niệm rộng không chỉ liên quan tới hành vi xã hội mà
còn là mối tương tác giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống xã hội. Cơ cấu xã hội
cũng bao gồm cả các thiết chế gia đình, dịng họ, tơn giáo, kinh tế, chính trị, văn hóa,
hệ thống chuẩn mực giá trị, cũng như hệ thống các vị trí, vai trị xã hội, v.v... Xã hội
là một tổ chức phức tạp, đa dạng của các mối liên hệ cá nhân, tổ chức xã hội và xã
hội. Cơ cấu xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với các quan hệ xã hội. Cơ cấu xã
hội là nội dung có tính chất bản thể luận của các quan hệ xã hội, là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển của các quan hệ xã hội.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành
 Nhóm xã hội: Đó là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trị,
nhu cầu, lợi ích và những định hướng xã hội nhất định. Nhóm xã hội thường được
chia thành 2 loại: Nhóm nhỏ và nhóm lớn. Nhóm nhỏ là một tập hợp gồm ít người,
các thành viên quan hệ với nhau trực tiếp và ổn định với tư cách cá nhân. Nhóm lớn
là tập hợp các cộng đồng nhóm, được hình thành bởi những dấu hiệu xã hội chung có
liên quan đến đời sống trên cơ sở của một hệ thống quan niệm xã hội hiện có. Bên
cạnh đó, người ta cịn phân chia thành các cặp nhóm khác nhau như: nhóm chính
nhóm phụ, nhóm chủ yếu nhóm thứ yếu, nhóm căn bản nhóm khơng căn bản…
Trong các lý thuyết xã hội học về nhóm ta cịn bắt gặp sự phân chia nhóm thành
nhóm quy ước và nhóm tự nhiên. Nhóm quy ước là loại nhóm do con người tạo lập vì
những mục đích nhất định. Nhóm tự nhiên là những nhóm tồn tại thực một cách
không tuân theo một chủ ý riêng trong đời sống xã hội. Nhóm quy ước mang tính ước

lệ, tạm thời khơng bền vững và phục thuộc vào ý muốn của người tạo ra nó. Nhóm tự
nhiên tồn tại, vận động và phát triển theo những qui luật khách quan. Nghiên cứu cơ


cấu xã hội cần nhận thức đúng hai loại nhóm này bởi lẽ cơ cấu xã hội được tạo nên
chỉ bởi các nhóm tự nhiên.
 Vị thế xã hội: Vị thế hay cịn được gọi là vị trí trong cấu trúc xã hội. Tuy
nhiên, vị thế cịn nói lên thế và lực của chủ thể. Vị thế quyết định chỗ đứng và
phương thức ứng xử của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Tùy theo các góc độ khác
nhau mà mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có những vị thế khác nhau. Trong quan hệ xã
hội, thường vị thế nghề nghiệp mang ý nghĩa quan trọng hơn cả, nó qui định những
đặc trưng riêng của cá nhân hay nhóm xã hội.
Vị thế xã hội có các đặc điểm: Khơng nhất thiết gắn với người có uy tín và địa vị
cao; Không phụ thuộc vào ý kiến của mỗi người về bản thân; Vị thế của mỗi người
cần đối chiếu hay gắn với những tiêu chuẩn khách quan của xã hội; Vị thế của mỗi
người là vị trí xã hội của người đó được xã hội thừa nhận và suy tơn; Vị thế mang
tính ổn định tương đối…
Vị thế xã hội có các nguồn gốc: Dịng dõi, của cải, nghề nghiệp, chức vụ và quyền
lực; trình độ học vấn và các cấp bậc, chức sắc tôn giao, thân tộc… Vị thế xã hội
thường được chia làm 4 loại: Vị thế tự nhiên là những đặc trưng, thiên chức mang
tính chất mặc định khó có thể thay thế như chủng tộc, giới tính, tuổi; Vị thế xã hội là
những đặc trưng, vai trị, nghĩa vụ thuộc về đời sống văn hóa xã hội, con người ta đạt
được trong quá trình sản xuất và sinh sống của mình; Vị thế then chốt có thể do chính
bản thân tạo ra nhưng cũng có thể do sự ưu tiên nào đó (như đẳng cấp, dịng dõi, thừa
kế…) của xã hội; Vị thế khơng then chốt đó là những vị thế khơng đóng vai trị quyết
định đặc điểm hay hành vi ứng xử xã hội của chủ thể.
 Vai trị xã hội: đó là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền
lợi gắn với một vị thế cụ thể. Vai trò là sự thể hiện một cách sinh động của vị thế
trong những quan hệ nhất định. Một vị thế, có thể có nhiều vai trị khác nhau và vai
trị sẽ thay đổi trong các quan hệ khác nhau cũng như vai trò sẽ thay đổi khi vị thế

thay đổi.
Xã hội học về vai trò thường tập trung nghiên cứu các nội dung: Một vai trị xã hội
có thể có nhiều mức độ biểu hiện hay sắc thái khác nhau; Vai trị khơng chỉ biểu hiện
thành hành vi bên ngồi mà còn thể hiện những nội dung tinh thần bên trong; Bất kỳ
vai trò nào cũng tồn tại trong sự gắn bó với các vai trị khác; Vai trị bao giờ cũng
trong một khn khổ giới hạn nhất định, ngồi giới hạn đó nó khơng cịn là vai trị
nữa; Sự khơng phù hợp vai trò của chủ thể dẫn đến căng thẳng và xung đột xã hội;
Vai trò và nhân cách gắn bó mật thiết và quy định nhau trong quan hệ xã hội; Mỗi
chủ thể bao giờ cũng có nhiều vai trò khác nhau;...


Có 4 loại vai trị xã hội: Vai trị chỉ định là vai trò được qui định một cách mặc
định, chủ thể dù muốn hay khơng cũng khơng có quyền từ chối; Vai trị lựa chọn là
vai trị có được do nỗ lực của chủ thể, chủ thể dành được nó trong đời sống xã hội;
Vai trị then chốt là vai trị quan trọng nhất trong nhóm các vai trị của chủ thể tại một
thời điểm cụ thể nào đó; Vai trị tổng qt đó là sự phối hợp các vai trò khác nhau của
chủ thể tạo nên một vai trị chung bao hàm trong đó ý nghĩa của nhiều vai trò khác.
 Mạng lưới xã hội: Xã hội là tổng hợp của các mối quan hệ. Mạng lưới là phức
hợp các mối quan hệ của cá nhân, nhóm, cộng đồng, các tổ chức. Tất cả các mối quan
hệ của xã hội tạo nên mạng lưới xã hội. Không cá nhân, nhóm, cộng đồng, tổ chức
hay đồn thể nào có thể đứng ngoài mạng lưới xã hội. Trong đời sống xã hội, con
người phải xử lý một phức hợp quan hệ xã hội tồn tại một cách chằng chịt với tư cách
là mạng lưới xã hội, trong các mối quan hệ đó có những quan hệ đóng vai trị đặc biệt
quan trọng đối với vị thế và vài trò của chủ thể buộc họ phải thực hiện; tuy nhiên,
trong đó cũng có rất nhiều mối quan hệ khơng mang tính bắt buộc và đòi hỏi con
người phải thực hiện.
Mạng lưới xã hội là một thành tố cơ bản cấu tạo nên cơ cấu xã hội. Chính thơng
qua các mối quan hệ phức hợp của mạng lưới xã hội mà cơ thể xã hội vận hành và
biến đổi. Đặc biệt, qua mạng lưới xã hội, các thành viên xã hội có thể chia sẻ, trao
đổi thông tin, kiến thức, nguồn lực để tăng cường thêm sức mạnh cho mình, tổ chức

và cho cả xã hội. Chính tính hài hịa hay rối loạn của mạng lưới xã hội quyết định sự
phát triển hay đình trệ của xã hội.
 Thiết chế xã hội: Thiết chế xã hội là một tổ chức nhất định của hoạt động xã
hội và các quan hệ xã hội được thực hiện bằng sự thống nhất hài hòa giữa các hành vi
của con người và các chuẩn mực, quy phạm xã hội. Trong nghiên cứu cơ cấu xã hội,
thiết chế xã hội được xem là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai
trò và nhóm hoạt động hướng tới một mục đích cơ bản của xã hội tại một thời điểm
nhất định. Khi nói tới thiết chế xã hội nghĩa là nói tới một xã hội vận động và phát
triển tuân theo kỷ cương và qui tắc.
Thiết chế xã hội có thể được xem xét theo cơ cấu bên trong và cơ cấu bên ngồi.
Theo đó, với cơ cấu bên trong thiết chế biểu hiện là tổng thể con người, cơ quan được
trang bị những phương tiện vật chất nhất định và thực hiện các chức năng xã hội cụ
thể; với cơ chế bên ngoài, thiết chế xã hội là tập hợp những tiêu chuẩn được định
hướng theo mục tiêu về hành vi của con người nhất định trong một hoàn cảnh cụ thể.
Thiết chế xã hội có 2 chức năng chủ yếu là: Khuyến khích, điều chính, điều hịa
hành vi của con người sao cho phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của xã hội; và,
Chế định, kiểm soát, giám sát nhu cầu và hoạt động của các hành vi lệch chuẩn. Sự


tồn tại, ổn định và phát triển của mọi xã hội có được là do có sự quản lý và kiểm sốt
xã hội, chính thiết chế xã hội thực hiện các chức năng quản lý và kiểm soát xã hội.
Thiết chế xã hội có những đặc điểm cơ bản là: Thiết chế có tính bền vững tương
đối và thường biến đổi chậm; Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc lẫn nhau; Những
thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Có nhiều
loại thiết chế xã hội khác nhau cùng tồn tại nhưng trong đó các thiết chế cơ bản là các
thiết chế: chính trị, kinh tế, pháp luật, gia đình, giáo dục, y tế, khoa học, quân đội,
đạo đức, dư luận xã hội…
1.1.3. Các phân hệ cơ cấu xã hội
 Cơ cấu XH giai cấp: Cơ cấu xã hội giai cấp là cơ cấu xã hội mà trong đó các
nhóm xã hội được xem xét dưới góc độ giai tầng, tầng lớp.Theo quan điểm xã hội

học Mác xít cơ cấu xã hội - giai cấp có thể được xem xét ở 2 phương diện sau:
Một là: Đòi hỏi phải được xem xét khơng chỉ các giai cấp xã hội mà cịn tất cả các
tầng lớp các tập đoàn xã hội khác. Vai trò của chế độ sở hữu tư liệu sản xuất được coi
trọng đặc biệt khi xem xét cơ cấu giai cấp xã hội.
Hai là: Nhấn mạnh đến việc nghiên cứu những tập đoàn người hợp thành những
giai cấp cơ bản, chiếm vị trí quyết định đến sự phát triển và biến đồi của xã hội, quan
hệ giai cấp, mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp được coi là động lực vận động và
biến đổi xã hội.
 Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp: Hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực
lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu xã hội được hình dung là
một hệ thống gồm các nhóm người, các tầng lớp khác nhau về nghề nghiệp. Cơ cấu
xã hội nghề nghiệp được xem xét theo các ngành nghề trong xã hội.
 Cơ cấu xã hội - dân số: Nghiên cứu cơ cấu xã hội dân số, xã hội học chủ yếu
tập trung phân tích các biến số cơ bản như mức sinh, mức từ, di dân, tỷ lệ giới tính
v.v...thơng qua đó đề dự báo được quy mơ biến đổi và những đặc trưng xu hướng xã
hội, sự tác động của cơ cấu xã hội dân số đến số lượng và chất lượng cuộc sống con
người.
 Cơ cấu xã hội - lãnh thổ: Được nhận diện chủ yếu thông qua đường phân ranh
giới về lãnh thổ. Đó là những khác biệt về điều kiện sống, trình độ sản xuất, đặc
trưng văn hoá, mật độ dân cư, thiết chế xã hội và các đặc trưng khác như thói quen
sinh hoạt, thị hiếu nghệ thuật….
 Cơ cấu xã hội - dân tộc: Hình thành chủ yếu dựa trên sự khác biệt dấu hiệu dân
tộc quy định, nội dung nghiên cứu là quy mô, tỷ trọng và sự biến đổi Cơ cấu xã hội
dân tộc: Hình thành chủ yếu dựa trên sự khác biệt dấu hiệu dân tộc quy định, nội
dung nghiên cứu là quy mô, tỷ trọng và sự biến đổi về số lượng, chất lượng cũng như


các đặc trưng, xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội trong nội bộ mỗi dân tộc và tương
quan giữa chúng trong cộng đồng, sự tương tác và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của sự
biến đổi về cơ cấu giữa các dân tộc và các mặt khác của đời sống xã hội. Cơ cấu xã

hội dân tộc được xem xét là sự phân chia các tộc người trong hệ thống xã hội.
Các phân hệ cơ cấu xã hội phản ánh tính đa dạng, phong phú của cơ cấu xã hội.
Trong hệ thống xã hội, mỗi phân hệ đều có vị trí, vai trị và giữa chúng có mối quan
hệ lệ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trị của các phân hệ cơ cấu không ngang bằng
nhau. Trong các phân hệ cơ cấu xã hội thì phân hệ cơ cấu xã hội - giai cấp là quan
trọng nhất giữ vị trí then chốt nhất.
Tính đa dạng, đa chiều nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ của cơ cấu xã hội một mặt
thể hiện sự phong phú, đa dạng của các phân hệ cơ cấu xã hội, mặt khác mỗi phân hệ
lại chính là một hệ thống trong đó chứa đựng các yếu tố cấu thành nó.
Nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta hiện nay, chúng ta phải chỉ ra được
những nguyên nhân của sự biến đổi cơ cấu xã hội, điều này chỉ có thể thấy được khi
chúng ta phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu xã hội và cơ cấu kinh tế, có quan hệ biện
chứng với nhau. Cơ cấu xã hội được hình thành trên cơ sở của sản xuất, cơ cấu kinh
tế. Sự biến đổi của cơ cấu xã hội có nguyên nhân sâu xa từ những biến đổi trong sản
xuất, trong cơ cấu kinh tế. Sản xuất phát triển dẫn đến cơ cấu kinh tế biến bổi, sẽ kéo
theo sự biến đổi của cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội cũng có sự tác động trở lại đến cơ
cấu kinh tế, đến sản xuất cũng như cơ cấu quyền lực chính trị và các yếu tố khác của
thượng tầng kiến trúc. Cơ cấu xã hội có thể tham gia tích cực vào q trình phân bố
lại kinh tế, kích thích tính tích cực của người lao động, điều hịa các quan hệ lợi ích,
tạo ra sự liên doanh liên kết và sự thống nhất, đồng bộ trong lao động, thúc đẩy việc
nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới cơ chế quản lý và vận hành
kinh tế. Nó cũng có thể góp phần hình thành nên một cơ cấu quyền lực chính trị mới,
hướng tới sự công bằng, tiến bộ, văn minh xã hội. Ngược lại, nó có thể kìm hãm sự
phát triển của sản xuất, làm méo mó cơ chế kinh tế, quan liêu hóa, xơ cứng bộ máy,
ni dưỡng sự bất bình, xung đột, tích tụ nguy cơ rối loại, đổ vỡ xã hội.
Sự phát triển hay thoái bộ của xã hội có nguồn gốc nội sinh từ những biến đổi của
cơ cấu xã hội mà nguyên nhân sâu xa suy cho cùng là những biến đổi trong sản xuất,
trong kinh tế, sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập, xung đột lợi ích giữa
các giai cấp, tầng lớp, tập đoàn xã hội.
1.2. Biến đổi cơ cấu xã hội:

1.2.1. Khái niệm


- Biến đổi xã hội: là một đặc trưng chung của mọi xã hội, là một q trình mà qua
đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội
và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian.
- Trong đó, biến đổi cơ cấu xã hội hay biến đổi cấu trúc xã hội là một phần của
biến đổi xã hội. Thuật ngữ biến đổi cơ cấu xã hội được dùng để xem xét sự thay đổi
của các vị thế, các vai trò, các mạng lưới, các thiết chế xã hội, tóm lại là các phương
diện của đời sống xã hội dọc theo trục thời gian. Biến đổi cơ cấu xã hội chính là sự
thay đổi về số lượng và chất lượng của các nhóm xã hội chủ yếu trong xã hội và là sự
thay đổi của mối quan hệ qua lại giữa các nhóm cơ bản này. Chính sự thay đổi trên
hai phương diện này đã phản ánh cơ hội phát triển, nhất là trong vấn đề nguồn nhân
lực, nguồn vốn con người (cơ sở quan trọng nhất của phát triển kinh tế - xã hội đất
nước).
1.2.2. Đặc điểm
- Biến đổi cơ cấu xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra khơng giống
nhau giữa các xã hội.
- Biến đổi cơ cấu xã hội khác biệt về thời gian và hậu quả.
- Biến đổi cơ cấu xã hội vừa có tính kế hoạch, vừa có tính phi kế hoạch.
- Biến đổi cơ cấu xã hội luôn gắn liền với biến đổi xã hội, văn hóa.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng:
- Nhân tố bên trong: xuất phát từ bên trong một cơ thể xã hội cụ thể và bao giờ
cũng diễn ra những biến đổi quan trọng trong chính cấu trúc xã hội đó.
- Nhân tố bên ngồi: có nguồn gốc từ mơi trường tự nhiên và văn hóa xã hội cụ thể
mà xã hội đó tồn tại. Chính sự tương tác giữa hệ thống xã hội cụ thể với môi trường
tự nhiên - xã hội bên ngoài mà cả hai cùng biến đổi. Một nhân tố bên ngoài của sự
biến đổi thể hiện rõ nhất là quá trình truyền bá trong tương tác lẫn nhau giữa hai hệ
thống bên trong và bên ngồi.
- Ví dụ: mơi trường, khí hậu, tiến bộ khoa học - kĩ thật - công nghiệp, sự nghiệp

đổi mới,...
1.4. Cách nghiên cứu:
Khi nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội, ta có thể áp dụng một số phương pháp
như sau:
- Sử dụng các con số, dữ liệu đã được công bố.
- Khi tiếp cận nghiên cứu, cần tiếp cận dưới nhiều góc độ phù hợp và khách quan.
Một số cách tiếp cận cơ bản có thể áp dụng:
+ Tiếp cận theo thuyết hệ thống: thuyết hệ thống (cấu trúc - chức năng) một mặt
giúp các nhà nghiên cứu thấy được toàn bộ hệ thống cơ cấu xã hội của đất nước, song


mặt khác lại không quên các bộ phận, các chi tiết, cũng như sự tương tác giữa chúng
trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
+ Tiếp cận theo thuyết xung đột: thuyết xung đột khác với lý thuyết hệ thống,
chúng ta không chỉ cần hướng tới việc giải quyết các mâu thuẫn và xung đột của các
cá nhân và nhóm thuộc các yếu tố, các bộ phận trong hệ thống cơ cấu xã hội (như cơ
cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân tộc...), mà còn
cần nhận biết các nguyên nhân, các động cơ chi phối sự xung đột giữa nhóm người
này với nhóm người kia (như nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân văn hóa và lối sống,
nguyên nhân chính trị...).
+ Tiếp cận phân tích văn hóa: có thể dựa vào quan điểm phân tích văn hóa của nhà
xã hội học M. Weber để tìm ra cách thức mà các nền văn hóa chi phối hành vi của
con người, trong đó có những hành vi làm biến đổi cơ cấu xã hội.


PHẦN II: XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các phân hệ cơ cấu xã hội
2.1.1. Cơ cấu xã hội – giai cấp
Trước đổi mới, ở nước ta tồn tại nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với hai thành phần kinh tế chủ yếu: kinh tế nhà

nước và kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể rất không đáng kể và được coi là đối tượng cần
cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng kinh tế đó, hình thành cơ cấu xã hội giản đơn
- "hai giai, một tầng” ("hai giai": chỉ có giai cấp cơng nhân và giai cấp nơng dân;
"một tầng": tầng lớp trí thức). Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta đã và đang chuyển
dần nền kinh tế đó sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh
tế này ở nước ta được dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân. Từ đó,
xuất hiện 3 hình thức sở hữu tương ứng là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân. Tương ứng với 6 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi. Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới sự biến đồi của
cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp.
Sau đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng
tiến bộ, cả từ giác độ nhận thức lẫn giác độ thực tế. Về nhận thức, cùng với quan
niệm truyền thống thường chỉ quy giản cơ cấu xã hội vào cơ cấu xã hội - giai cấp,
dần dần đã hình thành quan niệm mới, theo đó, xã hội được hiểu và thừa nhận là một
hệ thống đa cơ cấu. Cơ cấu xã hội - giai cấp tuy vẫn được coi là giữ vị trí then chốt,
song các phân hệ cơ cấu xã hội khác cũng đã được chú trọng. Trên thực tế, cơ cấu xã
hội mới đang hình thành và bắt đầu phát huy tác dụng, kích thích tính tích cực xã hội
của người lao động, góp phần tạo ra sự liên kết và thống nhất trong hoạt động kinh tế
- xã hội, thúc đẩy việc nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới cơ
chế quản lý và vận hành kinh tế.
Nếu trong cơ chế bao cấp, Cơ cấu xã hội – giai cấp chỉ gồm 2 giai cấp cơ bản (giai
cấp công nhân công nghiệp quốc doanh và giai cấp nông dân tập thể ) và thành phần
trí thức XHCN thì trong cơ chế mới CCXH – giai cấp đã được bổ xung thêm một loạt
các giai cấp và thành phần xã hội mới hay nói chính xác hơn là sự xuất hiện trở lại
của một số giai cấp và thành phần xã hội với những đặc điểm và chất lượng mới khác
trước (đó là giai cấp tư sản gồm TS cơng nghiệp, tư sản thương nghiệp và cả tư sản
nông nghiệp trong nước). Ngồi ra cịn phải kể đến sự xuất hiện các giai cấp xã hội
và thành phần xã hội với qui mô lớn hơn trước rất nhiều như : giai cấp tiểu tư sản,
tiểu thương, tiểu chủ, dịch vụ XH ...



Cho đến nay nước ta xuất hiện nhiều nhóm xã hội mới như: các hội có tính chất
nghề nghiệp ngày càng gia tăng, sự xuất hiện của đội ngũ những người thất nghiệp,
những người lao động tự do, những người vơ gia cư lang thang đường phố ....
Ngun nhân chính đưa đến sự xuất hiện trở lại các giai cấp và tầng lớp xã hội
mới là do sự thừa nhận nhiều loại hình sở hữu và hình thức sở hữu khác nhau đối với
tư liệu sản xuất, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Đó là quá trình
phát triển hợp quy luật và phù hợp với đặc điểm và các điều kiện đặc thù của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp còn được biểu hiện ở sự thay đổi số lượng
trong nội bộ mỗi giai cấp và mỗi thành phần xã hội.
Đầu tiên phải kể đến là giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng , chất lượng (kể
cả số lượng tuyệt đối cũng như tỷ trọng trong dân cư). Hàm lượng lao động có trình
độ cơng nghệ cao, tay nghề cao gia tăng một cách đáng kể. Giai cấp nông dân vẫn
tăng mạnh về mặt số lượng song tỷ trọng trong dân cư giảm. Lao động dịch vụ tăng
và sẽ còn tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới
Đặc biệt sự gia tăng nhanh chóng thành phần kinh tế tư nhân trong đó có sự lớn
mạnh đáng kể của tầng lớp doanh nhân. Cho đến nay, cả nước đã có hàng trăm ngàn
doanh nghiệp, có trên 3 triệu hộ sản xuất kinh doanh, trên 500000 doanh nghiệp với
hàng trệu doanh nhân. Sự lớn mạnh không ngừng của tầng lớp doanh nhân cũng như
sự đa dạng, phong phú của nó (nguồn gốc xuất thân, tuổi tác, các đặc trưng theo giới,
trình độ học vấn, quy mơ, loại hình, vốn đầu tư hoạt động, liên kết tổ chức, vùng
miền sản xuất đầu tư, kinh doanh...) sẽ tạo ra một cục diện mới cho nền kinh tế cũng
như đặt ra những yêu cầu bức bách hơn đối với những thay đổi trong chính sách, thể
chế pháp luật cho phù hợp. Sự lớn mạnh này diễn ra không chỉ ở các địa bàn đô thị,
trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ tài chính, kỹ thuật, cơng nghệ cao mà cả ở
các địa bàn nông thôn, rừng núi, biên cương, hải đảo, cả các lĩnh vực nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản, cả những nơi chưa địi hỏi nhiều đến cơng nghệ cao, kỹ thuật
cao, nguồn nhân lực chất lượng cao. Một số tác giả của các bài báo gọi họ là "tầng

lớp trung lưu” và họ nhận định rằng: Sự lớn mạnh của tầng lớp này sẽ góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước; tạo ra được
nhiều việc làm, hạn chế thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, giảm thiểu những căng
thẳng xã hội, nhất là áp lực về việc làm; thúc đẩy cải cách kinh tế, đổi mới thể chế,
thủ tục hành chính, hồn thiện các chính sách, thúc đẩy sự liên kết 4 nhà: nhà nông,
nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học; đóng góp to lớn vào nguồn thu ngân sách
nhà nước thông qua việc nộp thuế cũng như nhiều hoạt động phúc lợi xã hội, cứu trợ
xã hội, từ thiện xã hội... Phải thấy rằng, tầng lớp doanh nhân đang trở thành một lực


lượng chủ cơng, đội qn xung kích trong cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội nước
ta.
Đội quân này cùng với những người lao động ưu tú khác đang “nổi lên", trội vượt
lên từ khắp các giai cấp, tầng lớp xã hội hợp thành một tầng lớp xã hội "ưu trội"- tầng
lớp bao gồm những phần tử năng động nhất, tài hoa, xuất sắc nhất. Họ trở thành
những mạnh thường quân, những đầu tàu thật sự sung mãn, khoẻ mạnh, đi tiên phong
trong tất cả các hoạt động xã hội. Họ sẽ là người lôi kéo, dẫn dắt mỗi nhóm xã hội
cũng như tồn xã hội đi lên.
Sự hình thành tầng lớp xã hội "ưu trội" gắn chặt với quá trình hình thành cấu trúc
phân tầng xã hội hợp thức. Tầng lớp ưu tú này cần phải được Đảng, Nhà nước và các
đồn thể xã hội nhìn nhận một cách đúng đắn, đánh giá đúng tài năng, công lao và
những giá trị đóng góp của họ, tơn vinh họ, vinh danh họ. Đồng thời, cần phải chú ý
theo dõi, thu hút, đào tạo, sắp xếp, bổ nhiệm họ vào các vị trí then chốt trong bộ máy
của Đảng và Nhà nước. Nếu họ là doanh nhân, nhà khoa học, chúng ta cần có các
chính sách an tồn, thơng thống, tạo điều kiện để họ có thể phát huy cao nhất năng
lực kinh doanh và sáng tạo của mình. Cần phải tạo ra cho họ những hành lang, môi
trường rộng rãi, những ưu đãi về thuế, vốn, những tư vấn và hỗ trợ pháp lý và những
chế tài bảo vệ họ khi lợi ích của họ bị đe dọa, xâm hại.
Song hành với sự hình thành nhóm xã hội "vượt trội", tầng lớp xã hội "ưu trội" là
sự xuất hiện một cách tất yếu, khơng tránh khỏi các nhóm xã hội "yếu thế", tầng lớp

xã hội "yếu thế”. Những nhóm xã hội này được hình thành từ khắp các giai cấp, tầng
lớp, tổ chức, nghề nghiệp như công nhân, nông dân, tri thức, công chức, thợ thủ
công, tiểu thương, tiểu chủ... Đó là những người khơng có nghề nghiệp ổn định, học
vấn, tay nghề thấp, khơng có tay nghề hoặc có nghề rồi song chưa kiếm được việc
làm... Đó là những người sống trong các gia đình đơng con, ít nhân lực lao động,
đông nhân khẩu phụ thuộc, sức khoẻ yếu, hay ốm đau, hoặc gia đình có nhiều người
đau bệnh, tàn tật, gặp nhiều rủi ro, thiên tai, địch họa... Đó là những người sống ở
vùng sâu, vùng xa, đất đai cằn cỗi, thời tiết khắc nghiệt, đia hình chia cắt, giao thơng
đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém, phong tục làm ăn lạc hậu... Họ có thể là
những người dân ở diện "giải toả" đất đai, nhà ở..., sang môi trường sống mới họ
chưa được đào tạo nghề nghiệp, chưa được chuẩn bị về mặt tâm lý để thích nghi và
hội nhập với nơi ở mới.
Họ có thể là những doanh nhân, những tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công làm ăn
thua lỗ, tụt hậu về mặt kỹ thuật, công nghệ, không theo kịp hoặc không đủ năng lực
cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Họ cũng có thể là những người thuộc diện chính
sách xã hội như thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có cơng với cách mạng...,
nay thiếu sức khoẻ, học vấn, chuyên môn nghề nghiệp...


Những người thuộc các nhóm xã hội, tầng lớp xã hội "yếu thế” này khá đông đảo
và đang là một hiện tượng xã hội nhức nhối, là nỗi băn khoăn, lo lắng và mối quan
ngại cho nhiều nhà lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức, địa phương cũng như Đảng Nhà
nước và các tổ chức xã hội.
Tầng lớp trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng có những biến đổi quan
trọng. Trí thức Việt Nam tăng nhanh về số lượng, đa dạng hóa trong cơ cấu nghề
nghiệp và lĩnh vực hoạt động. Tầng lớp trí thức phát triển mạnh trong cơng nghệ
thơng tin, lĩnh vực dầu khí, điện tử, bưu chính viễn thơng. Đánh chú ý là đã có một
lực lượng lớn trí thức làm việc trong các khu vực kinh tế tư nhân, với nước ngoài và
làm việc ở ngồi nước. Trí thức khơng chỉ làm việc gián tiếp mà ngày càng tăng lên
nhiều hơn lực lượng tham gia lao động trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm

hang hóa, dịch vụ, khơng chỉ làm việc trong lĩnh vực văn hóa, tinh thần, giáo dục,
đào tạo mà còn trực tiếp tham gia sản xuất vật chất, tham gia rộng rãi trong các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quan sự, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp cũng như các hoạt động lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Đã có nhiều tri thức trở
thành các doanh nhân, cùng đồng hành “ bốn nhà” với doanh nhân, người lao động
và đang dần lớn mạnh trở thành một lực lượng xã hội quan trọng thời đổi mới.
Vậy do đâu mà có sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu giai cấp ở Việt Nam. Thực tế
cho thấy nguyên nhân tự nhiên là do mức tăng lên trong các bộ phận dân cư theo đà
tăng dân số và mức thu nạp lao động tăng lên hàng năm do nhu cầu nội tại của nền
kinh tế thì cịn một ngun nhân đặc biệt quan trọng khác đó là do sự dịch chuyển
hàng ngang ngay càng nhiều hơn với quy mô và tốc độ ngày càng lớn và nhanh hơn.
Đó là sự dịch chuyển của người lao động từ nhóm xã hội này sang nhóm xã hội khác,
từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác, từ giai cấp này sang giai cấp
khác, từ tầng lớp này sang tầng lớp khác. Sự dịch chuyển làm tăng lên hay giảm đi về
số lượng thực tế ở mỗi thành phần xã hội và giai cấp.
Song hành với những biến đổi trong cơ cấu giai cấp hiểu theo nghĩa truyền thống
nói trên là sự vận động theo “chiều dọc”, “đi lên”, “đi xuống” trong cấu trúc của xã
hội. Đó là q trình phân hóa, phân tầng xã hội mạnh mẽ. Từ một cấu trúc về cơ bản
và phổ biến là ngang hang nhau trước đổi mới thì cho đến nay đã xuất hiện một xã
hội có “cấu trúc tầng bậc” ngày càng rõ ràng, thay vì cho một mặt bằng xã hội nhìn
chung là sang sàn bằng nhau thì nay đã hình thành những giai tầng xã hộ khác nhau
về thu nhập, mức sống, địa vị kinh tế, hưởng thụ văn hóa, quyền lực kinh tế, uy tín xã
hội. Những giai tầng xã hội này chưa có tên gọi và cũng khơng đồng nhất với các giai
cấp hay tầng lớn xã hội hiện có, nó cũng không phải một phép cộng cơ học, giản đơn
của hai giai cấp và tầng lớn mà là sự hình thành phức tạp “đan kết” nhiều chiều thông


qua những cơ động “ngang”,”dọc”, “vào” , “ra” của những cá nhân nhóm từ khắp các
giai cấp, tầng lớp, tổ chức, đoàn thể xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay đang hình thành một mơ hình cấu trúc cơ cấu xã hội- giai

tầng xã hội. Cấu trúc giai tầng xã hội ở nước ta không phải là một cấu trúc đơn giản
theo nghĩa là một giai cấp tầng lớp đó ở vị trí cao nhất, cịn các giai cấp tầng lớp
khác có thứ tự thấp dần xuống dưới mà đây là một cấu trúc tầng bậc “đan kết”.
Cùng với quá trình đổi mới, đặc biệt là sau đại hội Đảng XI bắt đầu đi vào cuộc
sống, cấu trúc “tầng bậc”sẽ còn tiếp tục diễn tiến. Tuy nhiên, q trình đó diễn ra
khơng đơn giản, đơn tuyến mà có sự đan xen phức tạp giữa hai cấu trúc phân tầng xã
hội “hợp thức” và phân tầng xã hội “không hợp thức” - một cấu trúc xã hội phù hợp
với công bằng, đạo lý, pháp lý và một cấu trúc xã hội bất công, bất đạo lý và không
phù hợp với pháp luật. Chúng ta có nhiều cơ sở để kỳ vọng vào cấu trúc phân tầng
xã hội hợp thức sẽ ngự trị bởi con đường đổi mới của chúng ta là phát triển kinh tế
thị trường, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, Nhà nước Pháp quyền xã hộ chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân điều hành quản
lý. Song cũng khơng bì vậy mà chúng ta bng lỏng kỷ cương pháp luật,chủ quan
mất cảnh giác, xem nhẹ cuộc dấu tranh đối với những thói hư, tật xấu, những kẻ tha
hóa, tham lam, trục lợi, biến chất, tham nhũng sâu mọt đang hình thành cũng như
những qn tính xấu, phi đạo lý của q khứ khơng dễ gì nhổ gốc, bứt rễ trong ngày
một, ngày hai được.
Ngoài những biến đổi lớn như phân tích ở trên, cũng diễn ra những biến đổi hết
sức quan trọng trong các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản của xã hội Việt Nam từ khi đổi
mới đến nay như sự biến đổi cơ cấu dân số, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu tôn giáo, cơ cấu
nghề nghiệp.
2.1.2. Cơ cấu xã hội – nghề nghiệp
Nếu xem xét cơ cấu nghề nghiệp theo nhóm ngành kinh tế, thì sự biến đổi cơ cấu
đó trong giai đoạn đang có sự chuyển dịch tích cực từ nơng, lâm, ngư nghiệp sang
cơng nghiệp và dịch vụ, từ các ngành có năng suất thấp sang ngành có năng suất cao
hơn. Cịn xem xét cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế thì tỷ lệ lao động thuộc
kinh tế nhà nước giảm xuống, trong khi tỷ lệ lao động ngoài nhà nước và khu vực
đầu tư nước ngoài tăng lên; theo khu vực thì tỷ lệ lao động ở thành thị tăng lên, trong
khi lao động ở nông thôn giảm xuống, v.v...
 Biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo cơ cấu ngành kinh tế

Trong những năm qua, nhất là giai đoạn 2010 - 2017, chuyển dịch lao động theo
ngành ở nước ta đang diễn ra theo hướng hợp lý và tiến bộ: giảm tỷ trọng lao động
nông nghiệp (từ 49,5% năm 2010 xuống còn 40,3% năm 2017); tăng tỷ trọng lao


động trong khu vực công nghiệp (từ 21% lên 25,7%) và dịch vụ (từ 29,5% lên 34%).
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đã từng bước phù hợp với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Sự
chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ đã làm tăng năng
suất lao động: ngành nông, lâm, thủy sản giảm 1% lao động thì năng suất tăng 2,1%;
ngành công nghiệp - xây dựng tăng 1% lao động làm tăng 8,89% năng suất lao động;
tương tự, ngành dịch vụ tăng 1% lao động thì năng suất lao động tăng 16,1%
 Biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo trình độ học vấn
Nhìn chung trong những năm gần đây ở nước ta lực lượng lao động có những biến
đổi theo chiều hướng tích cực. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo và khơng có bằng cấp
chun mơn có xu hướng giảm. Tỷ lệ lao động được đào tạo từ sơ cấp nghề trở lên
tăng, trong đó lao động có trình độ đại học trở lên tăng khá nhanh. Trình độ đào tạo
sau đại học được cải thiện rõ rệt, ngày càng có nhiều thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư với trình
độ và chun mơn cao.
Một ví dụ cụ thể như tại đồng bằng song Cửu Long trong những năm gần đây
(2009-2016), lực lượng lao động được đào tạo đã có những biến đổi theo thời gian.
Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo và không có bằng cấp chun mơn có xu hướng
giảm, từ 96,4% (2009) xuống cịn 87,9% (2016). Tỷ lệ lao động có trình độ đại học
trở lên tăng khá nhanh từ 0,4% (2009) lên 5,5% (2016). Sự tăng lên của đội ngũ lao
động có trình độ đại học trở lên là sự thay đổi tích cực đối với chất lượng nguồn nhân
lực của vùng đồng bằng song Cửu Long. Tuy nhiên, sự tăng lên này khá nhanh sẽ
khiến tạo ra một thị trường lao động thừa thầy, thiếu thợ như các thị trường lao động
lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Do đó đã tác động khơng nhỏ đến cơ hội
tìm kiếm việc làm cũng như thu nhập ổn định của lực lượng lao động của vùng.
 Biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo ngành nghề

Theo như nội dung phần bên trên đã đề cập thì trong lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn có đến 70,4% trí thức có trình độ cao đẳng, đại học trở lên; lĩnh vực kinh
doanh, quản lý có khoảng 24,7%; lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật có khoảng
25,8%. Sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất công nghiệp trong điều kiện cách mạng
khoa học cơng nghệ địi hỏi cần một số lượng lớn đội ngũ trí thức ở các ngành kỹ
thuật. Tuy nhiên, số trí thức có trình độ chun mơn về khối các ngành khoa học kỹ
thuật là rất ít.
Tuy hiện nay số người lao động trong các khối ngành khoa học và kỹ thuật còn ít,
nhưng đây đã là một sự phát triển, thay đổi mạnh mẽ của cơ cấu xã hội về nghề
nghiệp ở Việt Nam. Vì trước đây nước ta vốn chỉ tập trung vào nông nghiệp và làm


trong các ngành về xã hội, nhưng hiện nay với ảnh hưởng của cuộc cách mạng 4.0
mà sự đầu tư vào khoa học và kĩ thuật của nước ta đã được cải thiện rõ rệt.
 Biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo thành phần kinh tế
Hiện nay, cơ cấu xã hội – nghề nghiệp theo thành phần kinh tế được chuyển biến
theo chiều hướng tích cực, phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần:
- Khu vực kinh tế Nhà nước giảm tỉ trọng nhưng vẫn giữ vai trị chủ đạo.
- Kinh tế ngồi nhà nước (kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân) nhìn
chung có xu hướng giảm. Tuy nhiên, tỉ trọng của kinh tế tư nhân ngày càng tăng.
- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đặc biệt từ khi nước ta
gia nhập WTO.
Theo số liệu nghiên cứu cho thấy, sự chuyển dịch cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo
thành phần kinh tế của vùng đồng bằng sơng Cửu Long (ĐBSCL) cịn khá chậm và
chưa ổn định. Loại hình kinh tế cá nhân/ hộ sản xuất kinh doanh cá thể còn chiếm
hơn 2/3 tổng số lao động có việc làm. Điều này phản ánh trình độ phát triển kinh tế
của vùng cịn mang tính cá thể chưa có nhiều sự liên kết với nhau. Loại hình kinh tế
tập thể có xu hướng giảm từ 0,6% (2010) xuống còn 0,2% (2011-2012) và 0,1%
(2016). Loại hình kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi giảm nhẹ, 0,1 điểm phần trăm

qua các năm 2011, 2012; song lại tăng mạnh từ năm 2013 đến 2016. Có tình trạng
này là do khả năng thu hút đầu tư của vùng trong những năm trước năm 2013 còn
hạn chế. Bằng chứng về thu hút vốn FDI cho thấy, năm 2012, toàn vùng chỉ thu hút
được 538 triệu USD từ nguồn vốn đăng ký đầu tư nước ngoài, chiếm 7,4% so với
tổng FDI cả nước. Tuy nhiên, từ năm 2013 trở lại đây, ĐBSCL đã phát triển ngành
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đã tạo sức thu hút đầu tư mới đối với các
doanh nghiệp nước ngoài. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 6 tháng
đầu năm 2018, vùng ĐBSCL có 4.600 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 8,7% so với
cùng kỳ năm 2017; vốn đăng ký 44.900 tỷ đồng, tăng 45,8% so với cùng kỳ. Bên
cạnh thu hút đầu tư trong nước, 6 tháng đầu năm 2018, tồn vùng có 7/13 tỉnh, thành
phố có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới với 47 dự án, có vốn đăng ký hơn
800 triệu USD. Do đó, lực lượng lao động tham gia loại hình kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi tăng mạnh trong thời gian gần đây.
2.1.3. Biến đổi cơ cấu - dân số
Sự biến đổi cơ cấu dân số ở nước ta trong vài thập kỷ qua biểu hiện rõ nhất và
đáng chú ý nhất là trong cơ cấu tuổi, cùng với đó là những biến đổi nhẹ trong cơ cấu
giới tính, sau nữa và gắn với nó là sự biến đổi trong mức sinh, mức tử.


Do thành quả của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình trên phạm vi tồn xã
hội, đặc biệt rõ nét là từ sau Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII (năm 1993), mức
sinh giảm liên tục, mức tử cũng giảm, đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện, tuổi thọ bình quân của người dân tăng đáng kể... đã dẫn đến sự thay đổi lớn
trong cơ cấu tuổi của dân số nước ta.
Đáng chú ý là tỷ lệ trẻ em trong các nhóm tuổi (từ 0 đến 14 tuổi) giảm mạnh, trong
khi các nhóm tuổi từ 25 đến 49 và 65 trở lên đang tăng lên khá rõ ràng - điều góp
phần vào sự chuyển đổi từ tỷ số phụ thuộc sang “cơ cấu dân số vàng”. Cơ cấu dân số
theo giới tính thì dần cân bằng nhưng tình trạng mất cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh
tăng lên; tỷ lệ dân số đô thị thấp nhưng đang tăng lên, báo hiệu tích tụ dân số vào đô
thị ngày càng mạnh, v.v...

Tỷ trọng dân số thuộc độ tuổi lao động ở nước ta năm 2009 chiếm 66,1%. Tỷ trọng
này đang luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của cơ cấu dân số ở nước ta trong thời
kỳ quá độ dân số hiện nay. Nước ta đang ở trong thời điểm mà tỷ trọng dân số lao
động ở mức cao nhất trong lịch sử. Tỷ trọng dân số lao động năm 2010 chiếm 66,2
%. Việt nam đang ở trong thời kỳ mà các nhà Nhân khẩu học gọi là thời kỳ cơ cấu
dân số “vàng” . Từ sau năm 2010, sau khi đạt ngưỡng dân số “vàng”, tỷ trọng dân số
của nước ta bắt dầu có xu hướng giảm. Đồng thời, tỷ trọng dân số phụ thuộc bao gồm
dân số trong độ tuổi từ 0-14 tuổi, và 60 tuổi trở lên có xu hướng tăng lên, đặc biệt là
tỷ trọng dân số từ 60 tuổi trở lên tăng rất nhanh.
Với cơ cấu dân số này đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế xã
hội nước ta. Đó có thể sẽ là cơ hội để chúng ta cất cánh tăng khoảng 1/3 mức tăng
trưởng kinh tế hàng năm và kéo dài khoảng 30 năm như những con hổ châu Á (Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) mấy thập kỷ trước đây nhờ nguồn lao động dồi dào,
đơng đảo, lại "mang vác” nhóm dân số phụ thuộc ít nhất.
Một số nhà khoa học cho rằng, thời kỳ vận hội do dư lợi dân số ở Việt Nam mang
lại sẽ kéo dài khoảng 30 năm: từ năm 2010 đến năm 2040. Với vận hội này, nếu
Chính phủ có chính sách tốt trên cả 3 lĩnh vực: giáo đức - đào tạo, kinh tế - xã hội và
quản lý thì ước mơ hố rồng của nước ta khơng cịn chỉ là mong muốn mà có thể sẽ
trở thành hiện thực. Chính sách giáo dục, đào tạo tốt nhằm sớm đưa nhóm dân số trẻ
nước ta trở thành một lực lượng lao động có trình độ học vấn, tay nghề cao, chuyên
môn giỏi, năng động thị trường, lao động có năng suất cao. Chính sách kinh tế và
chính sách xã hội tốt để khuyến khích các doanh nghiệp mở mang đầu tư và tạo ra
nhiều việc làm; tạo mơi trường thơng thống, linh hoạt để lực lượng lao động trẻ tìm
được việc làm, cơ động, linh hoạt trong thị trường việc làm. Chính sách quản lý vĩ
mơ và vi mô tốt nhằm tăng cường pháp luật, đổi mới thể chế, tăng hiệu lực quản lý,
giảm thiểu sự phiền hà, tham nhũng, kết hợp tốt giữa các nhà (nhà nước, nhà doanh


nghiệp, nhà khoa học), kết hợp tốt giữa các chủ doanh nghiệp với chính quyền sở tại
và người lao động...

Nhưng "cơ cấu dân số vàng" của chúng ta cũng có thể sẽ là một thách thức lớn,
nếu chúng ta không làm tốt ba vấn đề nói trên. Bởi lực lượng lao động đạt mức tối đa
(ước tính mỗi năm tăng thêm khoảng 1,6 triệu lao động), song Nhà nước, các tổ chức
đồn thể xã hội khơng tạo đủ việc làm cho người lao động hoặc chỉ tạo ra những việc
làm nhàm chán, thu nhập thấp, điều kiện làm việc yếu kém, tham nhũng tràn lan... thì
nguy cơ khủng hoảng, đổ vỡ, rối loạn xã hội sẽ là điều bất khả kháng.
2.1.4. Biến đổi cơ cấu xã hội – lãnh thổ
Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ðịnh hướng phát triển hệ thống đô
thị Việt Nam đến năm 2020, trong đó vai trị của các đơ thị được xác định là những
động lực phát triển chính trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thực hiện mục tiêu phát triển đất nước cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Nhìn lại chặng đường 10 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà
nước, sự nỗ lực vận động của toàn xã hội, chúng ta có thể tự hào với những thành tựu
quan trọng đã đạt được của công tác phát triển đô thị tồn quốc. Hệ thống đơ thị quốc
gia đã có sự chuyển biến tích cực cả về lượng cũng như về chất. Mạng lưới đô thị
quốc gia đã và đang được phát triển, mở rộng từ 629 đô thị năm 1999 đến nay đã
tăng lên 754 đô thị. Về dân cư đơ thị, tỷ lệ đơ thị hóa đã tăng từ 20,7% năm 1999 đến
nay đạt gần 30% nếu tính dân số nội thị. Trong đó, có hai đơ thị loại đặc biệt là Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh, đô thị loại I tăng thêm năm đô thị, trong khi đó loại V tăng
thêm 99 đơ thị. Ðiều này đã chứng tỏ mức độ đơ thị hóa đã phát triển mạnh ở khu
vực các đô thị nhỏ, lan tỏa trên diện rộng và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả
nước.
Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị trung bình đạt từ 12 đến 15%, cao gấp 1,5
đến 2 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Năm 2007-2009 đạt khoảng từ 8 đến
10%(H). Hiện nay nguồn thu đô thị, nhất là của các thành phố lớn chiếm tỷ lệ 70%
trong cơ cấu GDP cả nước. Tại một số đơ thị lớn, GDP bình qn đầu người đạt hơn
1.500 USD như Hà Nội khoảng 1.500 USD/năm, Nha Trang 1.779 USD/năm... Sự
phát triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động,
góp phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển chung của xã hội.
Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại những nguồn lực quan trọng

cho việc xây dựng và cải tạo chỉnh trang diện mạo của các đô thị. Kiến trúc và cảnh
quan đô thị đã được các chính quyền đơ thị quan tâm đầu tư phát triển với sự xuất
hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị hiện đại, ứng dụng công
nghệ thiết kế, xây dựng tiên tiến của thế giới. Tại nhiều đô thị đã và đang xuất hiện


các cơng trình kiến trúc cao tầng là những điểm nhấn kiến trúc đơ thị có chất lượng
cao. Ði đơi với việc đầu tư xây dựng các khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ thì cơng
tác cải tạo, chỉnh trang đô thị và bảo tồn các giá trị di sản kiến trúc đơ thị đã được coi
trọng, góp phần duy trì và tạo dựng bản sắc của từng đơ thị.
Ngoài 3 vùng kinh tế trọng điểm, hàng chục khu kinh tế với hàng trăm các đô thị
lớn, nhỏ mọc lên và được mở rộng, kéo theo là sự phát triển cơ sở hạ tầng nhà xưởng,
khu công nghiệp... đã làm cho cơ cấu lãnh thổ nước ta có sự thay đổi khá mạnh mẽ.
Cư dân nông thôn giảm, cư dân đô thị, lối sống đô thị tăng. Đây là thời kỳ đơ thị hố
mạnh mẽ nhất ở nước ta. Nó sẽ cịn mang lại nhiều thay đổi căn bản (cả những cơ
hội, cũng như thách thức) cho con người Việt Nam, xã hội Việt Nam. Nó sẽ là dấu
hiệu tốt, triển vọng tốt nếu q trình đơ thị hố được gắn kết chặt chẽ với q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phản ánh tính tất yếu kinh tế - chính trị, xã hội và được
quy hoạch, điều hành, quản lý một cách bài bản, khoa học, không "nhảy cóc". Nếu
khơng, nó sẽ là nguy cơ của những vấn nạn về ô nhiễm môi trường, ách tắc giao
thông, tệ nạn xã hội, tình trạng thiếu việc làm, thiếu điện, thiếu nước, lai căng văn
hoá và những vấn đề bức xúc đáng cảnh báo khác... Biến đổi cơ cấu xã hội lãnh thổ
là một trong những chỉ báo hết sức quan trọng để có thể xem xét và dự báo bao giờ
Việt Nam sẽ trở thành con rồng, con hổ của khu vực. Đó cũng là chỉ báo đánh giá
trình độ văn minh mà chúng ta sẽ đạt được ở mức độ nào sau nhiều năm tìm tịi, đổi
mới.
2.1.5. Biến đổi cơ cấu xã hội – dân tộc
Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội trong nội bộ mỗi dân tộc và mối tương quan
giữa chúng với cộng đồng, sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong sự biến đổi về
cơ cấu giữa các dân tộc:

+ Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới, thành phần tộc người có xu hướng tăng
lên (có thể vượt qua con số 54 dân tộc - do ý thức tộc người tăng lên, do chính sách
ưu đãi của Nhà nước...), sự phân bố về địa lý giữa các dân tộc thay đổi mạnh (do di
dân tự do từ Bắc và Nam, do phát triển các khu công nghiệp...), đặc biệt là sự biến
đổi cơ cấu dân số giữa các tộc người (tỷ lệ sinh ở các dân tộc thiểu số miền núi cao
hơn ở người Kinh và ở đồng bằng).
+ Mối quan hệ tác động qua lại giữa cơ cấu xã hội dân tộc và các phân hệ cơ cấu
xã hội khác và các vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội : Nhận thức mới về
dân tộc địi hỏi phải tính tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi với số lượng
đơng đảo hơn 3 triệu người, có mặt ở nhiều nước, trong đó có khơng ít những tài
năng khoa học, nghệ thuật, quản lý và quản trị doanh nghiệp, những người có trình
độ cao, có tiềm lực mạnh, lại có tinh thần dân tộc, muốn đầu tư vào trong nước, đóng
góp vào cơng cuộc phát triển kinh tế và chấn hưng dân tộc.


+ Các tầng lớp, các nhóm xã hội đó, trong hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội và
tham gia vào đời sống chính trị (tham chính) lại thường đan xen và giao thoa lẫn
nhau, nhất là giới - lứa tuổi - thế hệ.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội dân tộc góp phần tạo ra những cơ sở khoa học giúp cho
Đảng, nhà nước hoạch định các chính sách trong việc phân bổ, điều tiết lại dân cư, tổ
chức lại lực lượng lao động, việc làm cho phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc;
Tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hố, củng cố quốc phịng an ninh, xây dựng mặt
trận đoàn kết dân tộc…
2.2. Tác động của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội đến sự phát triển ở Việt
Nam hiện nay
Trên thực tế, cơ cấu xã hội mới đang hình thành và bắt đầu phát huy tác dụng, kích
thích tính tích cực xã hội của người lao động, góp phần tạo ra sự liên kết và thống
nhất trong hoạt động kinh tế - xã hội, thúc đẩy việc nghiên cứu và áp dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, đổi mới cơ chế quản lý và vận hành kinh tế. Khơng khí dân chủ,
phấn khởi, đồn kết nhất trí trong các bộ phận cấu thành cơ cấu xã hội ngày càng

được nâng cao. Lòng tin của các bộ phận cấu thành đó đối với Đảng, đối với chế độ
ngày càng vững chắc hơn:
Trong 34 năm vừa qua sự biến đổi cơ cấu xã hội cũng cho thấy phân tầng xã hội có
sự thay đổi to lớn. Dưới một góc nhìn nhất định, phân tầng xã hội là cơ cấu xã hội
dựa trên việc phân hạng các cá nhân vào những lớp xã hội, những giai tầng xã hội
nhất định. Có nhiều định nghĩa khác nhau về phân tầng xã hội, tuy nhiên nhìn một
cách khái quát phân tầng xã hội là việc phân chia các cá nhân hay các nhóm xã hội
thành các tầng, lớp khác nhau dựa trên một hay một số tiêu chí nhất định, trong
những khoảng thời gian và không gian xác định. Những tiêu chí thường được đưa ra
để phân chia các cá nhân, các nhóm trong xã hội thành những tầng/lớp khác nhau là:
địa vị/tiềm lực kinh tế, quyền lực/ảnh hưởng chính trị, và uy tín xã hội. Như vậy, về
cơ bản, phân tầng xã hội là một sự phân chia xã hội ra thành các tầng lớp dựa trên
những đặc trưng về vị thế kinh tế - xã hội của các cá nhân. Ở Việt Nam, trước đổi
mới, trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp phân tầng xã hội chưa được đề cập
đến nhiều bởi lúc đó sự chênh lệch giàu nghèo, hay những biểu hiện cụ thể khác của
phân tầng xã hội chưa rạch ròi và rõ nét. Trong bối cảnh trước đổi mới, vấn đề phân
tầng xã hội bị che khuất bởi chủ nghĩa bình qn và chế độ cơng hữu, trong đó mơ
thức thường được đề cập đến là "hai giai một tầng" (giai cấp công nhân liên minh với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức). Trong thời kỳ đổi mới, cơ chế quản lý cũ
được dỡ bỏ cùng với việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phân tầng xã hội mới bộc lộ rõ ràng và
ngày càng trở nên sâu sắc. Có thể nói rằng, sau 34 năm đổi mới, xã hội Việt Nam đã


chuyển biến từ một xã hội mà sự phân tầng (nhất là sự phân tầng xét dưới góc độ
kinh tế) chưa rõ nét thành một xã hội có cấu trúc tầng bậc rõ ràng. Nói cách khác, xã
hội Việt Nam đã chuyển đổi từ một xã hội mà mọi người sàn sàn ngang bằng nhau
sang một xã hội có nhiều tầng lớp khác nhau về thu nhập, mức sống, địa vị kinh tế,
hưởng thụ văn hóa, quyền lực chính trị và uy tín xã hội.
Trong q trình chuyển biến xã hội đó, điểm rất đáng lưu ý là sự xuất hiện của

tầng lớp trung lưu ở Việt Nam. Theo một báo cáo được công bố vào cuối năm 2013
của Tập đoàn tư vấn Boston (The Boston Consulting Group - BCG) của Hoa Kỳ thì
giai cấp trung lưu ở Việt Nam đang tăng mạnh. Dự báo, đến năm 2020, tầng lớp trung
lưu và giàu có ở Việt Nam sẽ tăng gấp đôi so với năm 2012, tức là sẽ tăng từ 12 triệu
người năm 2012 lên 33 triệu người vào năm 2020(20). Dưới một góc nhìn nhất định,
có thể nói, để có một nền kinh tế vững mạnh nói riêng và một xã hội phát triển bền
vững nói chung thì đất nước ta cần phải có một cơ chế quản lý hiện đại, một hệ thống
giáo dục khai phóng và thực tiễn, một hệ thống tài chính liên thơng, hội nhập với thế
giới, và nhất là một tầng lớp trung lưu đủ lớn làm bệ đỡ cho sự phát triển kinh tế và
xã hội. Tầm quan trọng của tầng lớp trung lưu đối với sự phát triển kinh tế và xã hội
được thể hiện trên nhiều phương diện, trong đó phải kể đến những chiều cạnh quan
trọng sau đây: Thứ nhất, đây là tầng lớp tạo ra sản phẩm có số lượng lớn, chất lượng
cao của nền kinh tế. Thứ hai, do nắm giữ phần tài sản và tạo ra thu nhập lớn nên
chính họ là những người đóng thuế nhiều nhất cho ngân sách quốc gia. Thứ ba, tầng
lớp trung lưu cũng chính là nhóm xã hội tiêu dùng nhiều, gửi tiền tiết kiệm nhiều, sử
dụng tín dụng nhiều. Như vậy, có thể nói rằng tầng lớp trung lưu là nhóm xã hội đóng
vai trị bệ đỡ và ni dưỡng nền kinh tế. Ngồi ra, cũng phải nói thêm rằng, tầng lớp
trung lưu là lực lượng xã hội năng động nhất so với các nhóm xã hội khác. Bởi vì,
muốn duy trì được địa vị kinh tế họ phải ln nỗ lực, sáng tạo để kiếm tiền và giữ gìn
tài sản. Vì vậy, có thể nói, sự phát triển nhanh chóng của tầng lớp trung lưu ở Việt
Nam hiện nay là một trong những điều kiện tiên quyết/quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội Việt Nam. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách, cơ chế phù hợp để xây
dựng, phát triển tầng lớp trung lưu làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của Việt
Nam.
Sự biến đổi phân tầng xã hội, trong đó sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu là một
điểm sáng của quá trình biến đổi xã hội ở Việt Nam trong ba thập vừa qua. Cũng cần
nhấn mạnh thêm rằng, sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
những thành tựu lớn. Minh chứng cụ thể cho điều này là mức thu nhập bình quân đầu
người (GDP per capital) liên tục tăng trong phạm vi cả nước, và cơng cuộc xóa đói
giảm nghèo có nhiều tiến bộ. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, vào năm 1986 thu

nhập bình quân đầu người/năm ở Việt Nam là 437 USD, năm 2010 là 1.334 USD, và


năm 2012 là 1.755 USD(21). Về xóa đói giảm nghèo, theo số liệu điều tra năm 2012
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được thực hiện tại 63/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương của cả nước, tỷ lệ hộ nghèo tại 62 huyện nghèo (theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo) giảm từ 58,33% (năm 2010)
xuống còn 50,97% (năm 2011) và 43,89% (năm 2012), bình quân giảm trên
7%/năm(22).
Mặc dù có những tiến bộ vượt bậc về thu nhập bình quân đầu người và xóa đói
giảm nghèo, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội vẫn là một vấn
đề rất đáng lo ngại. Nói cách khác, đi liền với tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo,
phân tầng xã hội diễn ra trong gần 30 năm đổi mới vừa qua đã làm gia tăng bất bình
đẳng xã hội. Có nhiều quan niệm khác nhau về bất bình đẳng xã hội. Tuy nhiên, nói
một cách khái qt, bất bình đẳng xã hội là sự khơng ngang băng nhau về cơ hội xã
hội của các cá nhân, các nhóm trong xã hội trong khoảng thời gian và khơng gian xác
định. Sự không ngang bằng nhau về cơ hội xã hội của các cá nhân, các nhóm trong xã
hội có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là do sự không ngang bằng nhau về
cơ hội xã hội giữa các cá nhân, các nhóm thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau.
Nhiều số liệu thực tế chứng minh rằng bất bình đẳng xã hội, trước hết là trên bình
diện thu nhập, đã gia tăng một cách đáng lo ngại trong gần 30 năm đổi mới vừa qua.
Thu nhập bình qn của nhóm 20% người giàu nhất so với thu nhập của nhóm 20%
người nghèo nhất đã tăng từ 7 lần lên 8,5 lần trong giai đoạn 2004-2010(23). Năm
2012, nhóm hộ nghèo nhất có mức thu nhập bình qn là 512.000 đồng/tháng/người,
trong khi đó, nhóm hộ giàu nhất có mức thu nhập bình quân là 4,8 triệu
đồng/người/tháng(24). Một điều đáng lưu ý nữa là bất bình đẳng về thu nhập giữa
các nhóm dân cư ở giữa các khu vực địa lý. Năm 2012, trong khi tỷ lệ hộ nghèo ở
thành phố Hồ Chí Minh chỉ là 0,00033%; Đồng Nai là 0,91%; Đà Nẵng là 0,97%; Hà
Nội là 1,52% thì tỷ lệ hộ nghèo ở Điện Biên là 38,25%; Lai Châu là 31,82%; Hà

Giang là 30,13%; Cao Bằng là 28,22%; và YênBái là 29,23%(25). Năm 2012, thu
nhập bình quân đầu người ở khu vực đô thị là 3 triệu đồng/tháng; ở nông thôn là 1,6
triệu đồng/tháng(26). Khoảng cách thu nhập giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu
nhất, và sự khác biệt về tỷ lệ người nghèo ở các địa phương như trên cho thấy một
bức tranh rõ nét về bất bình đẳng xã hội trên bình diện thu nhập. Theo đánh giá của
Ngân hàng Thế giới thì tình trạng phân hóa giàu nghèo tại Việt Nam đang chuyển dần
từ mức tương đối bình đẳng (năm 2002) sang mức chênh lệch thu nhập ngày càng
tăng, và đang đạt mức độ nguy hiểm(27). Những con số này cho thấy khoảng cách
giàu nghèo, hay bất bình đẳng về thu nhập, hiện nay vẫn là một điều cần đặc biệt chú
ý.


Hệ quả của bất bình đẳng về thu nhập, là sự khác biệt rõ ràng về chất lượng sống
giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê về mức
sống dân cư năm 2010 cho thấy, tỷ lệ khơng có bằng cấp hoặc chưa bao giờ đến
trường của người từ 15 tuổi trở lên ở nhóm hộ nghèo nhất là 38,1%, cao hơn 4,6 lần
so với nhóm hộ giàu nhất(28). Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có bằng cao đẳng trở lên
thuộc nhóm hộ giàu nhất gấp 121 lần nhóm hộ nghèo nhất. Chi tiêu cho y tế, chăm
sóc sức khỏe bình quân 1 người/tháng của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 3,6 lần so với
nhóm hộ nghèo nhất, của hộ thành thị cao gấp 1,4 lần so với hộ nông thôn. Chi tiêu
cho đời sống sinh hoạt của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 4,6 lần so với nhóm hộ nghèo
nhất. Cùng với các số liệu điều tra được công bố chính thức, quan sát thực tế cũng
thấy rõ nhiều yếu tố phản ánh sự bất bình đẳng trong đời sống thường ngày giữa
nhóm giàu và nhóm nghèo. Chẳng hạn, như nhóm nghèo thường sống trong những
căn nhà tồi tàn, thiếu tiện nghi, thiếu thiết bị hiện đại phục vụ cuộc sống, đồng thời ít
có cơ hội sử dụng các dịch vụ văn hóa tinh thần. Thực trạng này dẫn đến hàng loạt hệ
quả xã hội tiềm tàng. Thứ nhất, người nghèo/nhóm nghèo cảm thấy bị thiệt thịi và do
vậy dễ có tâm lý bất mãn đối với thực trạng bất bình đẳng xã hội và suy giảm lịng tin
đối với chế độ. Thứ hai, bất bình đẳng xã hội cũng làm gia tăng khoảng cách xã hội
giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, dẫn đến liên hệ lỏng lẻo hay thiếu đồn kết giữa các

nhóm xã hội. Thứ ba, bất bình đẳng xã hội và khoảng cách giàu nghèo gia tăng trở
thành môi trường thuận lợi cho tệ nạn và tội phạm phát triển.
Dưới một góc nhìn nhất định, những hệ quả của bất bình xã hội đã nêu trên là
những nhân tố tiềm tàng tạo nên mất ổn định xã hội, ngăn trở sự phát triển kinh tế xã hội. Trước thực trạng này, để phát triển bền vững xã hội Việt Nam, bên cạnh việc
tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống cho nhóm hộ
nghèo, cận nghèo chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cần được quan tâm
phát triển phù hợp nhằm hóa giải những nhân tố tiềm tàng tạo nên mất ổn định và cản
trở sự phát triển xã hội. Đó là yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra khơng chỉ đối với các nhà
hoạch định chính sách và thực thi chính sách xã hội, mà trước hết là ở trong bộ máy
nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động vào tăng trưởng năng suất lao động
ngành phần lớn là do tác động của sự di chuyển lao động từ ngành có năng suất thấp
sang các ngành có năng suất cao hơn. Trong giai đoạn 2001-2012, tốc độ tăng năng
suất lao động bình quân là 5,28%/ năm, trong đó đóng góp từ thay đổi năng suất
trong nội bộ ngành là 2,8 điểm phần trăm và từ chuyển dịch cơ cấu lao động là 2,48
điểm phần trăm. Như vậy, có thể thấy là chuyển dịch cơ cấu lao động đã có vai trị
tích cực trong việc phân bổ lại nguồn lực hợp lý, thúc đẩy tăng năng suất lao động.


“Dư lợi dân số” ở Việt Nam.1 Nghiên cứu sử dụng phương pháp NTA để ước
lượng thu nhập từ lao động và tiêu dùng của người Việt Nam, cho thấy, theo vịng
đời, người Việt Nam bắt đầu có thu nhập từ lao động khi 14 tuổi. Thu nhập từ lao
động sẽ tăng nhanh trong độ tuổi từ 14 đến 31, sau đó bắt đầu giảm dần tới tuổi 51
tuổi và tiếp tục giảm nhanh đến 70 tuổi và tiệm cận về 0 khi tới tuổi 90. Có sự khác
biệt trong chi tiêu giữa các nhóm tuổi, đặc biệt chi tiêu cho y tế cho nhóm tuổi 55-77
gấp hơn hai lần cho nhóm trẻ em (0-15 tuổi). Chi tiêu cho giáo dục tăng liên tục và
đạt cao nhất ở tuổi 22 và sau đó giảm dần cho đến tuổi 34. Chi tiêu của hộ gia đình
cho y tế và giáo dục chiếm tỷ trọng lớn, trong khi chi tiêu Chính phủ trong các lĩnh
vực này vẫn còn rất khiêm tốn dù đã tăng lên trong những năm qua.
Dân số trong độ tuổi 23-53 có mức thu nhập từ lao động lớn hơn mức tiêu dùng

nên họ tạo ra nguồn tiết kiệm cóthể được tái đầu tư cho nền kinh tế và từ đó kích
thích tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, số liệu VHLSS năm 2012 cho thấy dân số trong độ
tuổi 23-53 tạo ra thặng dư khoảng 632.000 tỷ đồng, trong khi dân số trong độ tuổi 023 và từ 54 tuổi trở lên tương ứng tạo thâm hụt khoảng 552.000 tỷ đồng và 189.000
tỷ đồng. Tổng cộng cho toàn bộ dân số thì mức thâm hụt là khoảng 109.000 tỷ đồng.
Để bù đắp cho phần thâm hụt này thì một phần được chia sẻ từ nguồn thặng dư do
nhóm dân số tuổi từ 23-53 tạo ra và phần khác là từ các khoản chuyển giao khác (ví
dụ từ Chính phủ, chuyển giao trong và giữa các hộ gia đình, và từ tài sản...). Với xu
hướng già hóa dân số ngày càng nhanh trong tương lai, thâm hụt của nhóm cao tuổi
ngày càng tăng thì thách thức đối với việc đảm bảo an sinh xã hội là không nhỏ.
Nếu giả định rằng cơ cấu thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người theo từng độ
tuổi của năm 2012 được giữ ngun và năng suất lao động khơng thay đổi thì thay
đổi cơ cấu tuổi dân số chỉ có tác động tích cực tới tỷ số hỗ trợ kinh tế cho tới năm
2018. Nói cách khác, theo cách tiếp
cận của phương pháp NTA thì với những giả định đã nêu, Việt Nam chỉ có thể có
“dư lợi dân số” tới năm 2018. “Dư lợi dân số” có thể kéo dài nếu năng suất lao động
tăng lên. Để kéo dài thời gian có “dư lợi dân số”, phân tích cho thấy đóng góp của lao
động trong tổng giá trị gia tăng (hay
tổng thu nhập của lao động) phải tăng 1,28%/ năm trong suốt giai đoạn 2016-2049
thay vì 1%/năm như giai đoạn 2010-2012. Với tốc độ
đó, giai đoạn mà tốc độ tăng của tỷ số hỗ trợ kinh tế lớn hơn 0 sẽ kéo dài tới năm
2024 (thay vì năm 2018 như hiện tại). Bên cạnh đó, nếu giả định rằng tốc độ tăng của
tỷ số hỗ trợ kinh tế sẽ chậm lại nhưng sẽ duy trì ở mức tối thiểu 0,6%/năm trong suốt
thời gian cịn lại (2025- 2049) thì “dư lợi dân số” có thể xuất hiện trở lại trong giai
đoạn 2030-2042 (Hình 3).


Thay đổi cơ cấu tuổi dân số và cơ cấu tuổi lao động có tác động tích cực tới tăng
trưởng kinh tế. Phân tích tác động của thay đổi cơ cấu tuổi dân số và cơ cấu tuổi dân
số trong tuổi lao động cho thấy chúng có tác động tích cực tới tốc độ tăng GDP bình
quân đầu người, nhưng tác động có sự thay đổi rõ nét cùng với xu hướng già hóa dân

số. Sử dụng kết quả dự báo dân số giai đoạn 2014-2049 của TCTK (2015, sắp xuất
bản), nghiên cứu mô phỏng tác động của thay đổi cơ cấu tuổi dân số tới tăng trưởng
kinh tế giai đoạn 2010- 2049. Kết quả cho thấy nếu không thay đổi năng suất lao
động thì thay đổi cơ cấu tuổi dân số theo hướng già hóa sẽ làm giảm tốc độ tăng GDP
bình quân đầu người, bắt đầu từ năm 2017.
Mơ hình ước lượng tác động của thay đổi cơ cấu tuổi lao động tới tăng trưởng kinh
tế cấp tỉnh cũng cho thấy nếu dân số trong độ tuổi lao động tăng thêm 1% thì tăng
trưởng kinh tế tăng thêm khoảng 0,5%.3 Bên cạnh đó, số lượng lao động có việc làm
ở các nhóm tuổi trẻ (15-59) và cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) đều tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế các tỉnh: cứ tăng 1% dân số có việc làm của nhóm tuổi từ 15-59
và nhóm từ 60 tuổi trở lên thì GDP sẽ tăng tương ứng là 0,36% và 0,32%.
Tỷ lệ lao động trẻ tăng có tác động tích cực tới tăng trưởng ở hầu hết các ngành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Mơ hình ước lượng tác động của thay đổi cơ
cấu tuổi lao động tới tăng trưởng kinh tế ngành cho thấy, trong giai đoạn 2010-2012,
tỷ lệ lao động trẻ tăng có tác động tích cực tới tăng trưởng ở hầu hết các ngành được
nghiên cứu.4 Ví dụ, trong ngành cơng nghiệp chế biến, nếu tỷ lệ lao động ở các tuổi
15-34 và 35-55 cùng tăng 1% thì sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng của ngành này tương
ứng là 0.34% và 0.31%. Tỷ lệ lao động cận già (56-60 tuổi) có tác động tới tăng
trưởng ngành khác nhau tùy theo ngành; ví dụ, tỷ lệ lao động của nhóm tuổi này tăng
sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng trong ngành công nghiệp chế biến và thương nghiệp
nhưng lại làm giảm tốc độ tăng trưởng ngành nông, lâm và ngư nghiệp.
Sự chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Chính sự
phân cơng lao động theo lãnh thổ dẫn tới sự hình thành và hồn thiện các không gian
kinh tế với các quy mô và chức năng xác định. Nền kinh tế hiện đại được đặc trưng
bằng mạng lưới truyền dẫn thông tin, đã thúc đẩy sự quá độ từ biên giới lãnh thổ
Kinh tế xã hội sang các không gian Kinh tế xã hội. Điều này làm chúng ta có cơ hội
vượt qua sự ràng buộc biên giới cứng, mà sang biên giới mềm với các cực, các tuyến
hành lang phát triển.



CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP
NHẰM QUẢN LÝ, PHÁT HUY VAI TRỊ TÍCH CỰC CỦA BIẾN ĐỔI CƠ
CẤU XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng về biến đổi cơ cấu xã hội.
a, Quan điểm
- Các quan điểm tiến hóa
+ Những mơ hình kinh điển
Những mơ hình kinh điển là những mơ hình được mượn từ khoa học sinh học, đã
giành được vị trí ở thế kỷ 19, nhiều nhà xã hội học đã tán thành với lý thuyết phổ
biến được gọi là sự tiến hóa một chiều, sự tiến hóa theo lộ trình dọc, chỉ tiến về phía
trước chứ khơng lùi hoặc đi ngược về phía sau cho rằng tất cả các hình thức sống, tất
cả các xã hội đều tiến hóa từ những hình thức đơn giản đến phức tạp, với mỗi hình
thức sau xa hơn những hình thức trước nó.
Auguste Comte (1798–1857) lập luận rằng, tất cả các xã hội không thể tránh khỏi
được sự trải qua ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực chứng, và xã hội châu Âu
đã ở bước cuối cùng - bước cao nhất và là bước kết thúc của sự phát triển nhân loại.
Herbert Spencer (1820–1903) nhìn sự tồn tại của các tổ chức và các xã hội như là
sự liên quan trực tiếp với một môi trường chuyển đổi. Spencer tin rằng các xã hội
phương Tây có sự thuận lợi hơn để đến trình độ cao nhất bởi vì họ "đáp ứng tốt hơn"
với những điều kiện của thế kỷ 19 hơn những xã hội không thuộc phương Tây.
Nhà xã hội học cổ điển Émile Durkheim (1858-1917) cho rằng, những hình thức
mới của sự đồn kết xã hội, hoặc những ý thức cụ thể, sẽ xuất hiện để duy trì xã hội.
Theo ơng, có hai kiểu mơ hình. Trong các xã hội giản đơn mỗi thành viên thực hiện
các nhiệm vụ giống nhau, có thể thay thế lẫn nhau và chia sẻ những giá trị, niềm tin
giống nhau. Tính gắn kết hay sự đồn kết cơ học phù hợp với xã hội hòa nhập. Trải
qua thế kỷ 19, rõ ràng rằng sự cơng nghiệp hóa, sự tăng trưởng dân số và cạnh tranh
đang phá hủy những hình thức truyền thống của sự đồn kết xã hội. Để tiến tới một
hình thức cao hơn: sự đồn kết hữu cơ, trong đó sự phân cơng lao động tạo ra những
người có cá tính khác nhau, thực hiện những nhiệm vụ riêng biệt, với những vai trò

đặc biệt. Sự cố kết xã hội bên trong là kết quả của sự bổ sung lẫn nhau giữa các chức
năng và một kiểu giá trị mới xung quanh khái niệm nhân cách con người. Durkheim


×