Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Kinh nghiệm+ vai trò và trách nhiệm của thanh niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 18 trang )

Cơng cuộc đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là q trình
cải biến sâu sắc, tồn diện, triệt để; là sự nghiệp cách mạng to lớn
của toàn Đảng, tồn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Việt Nam đã đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử . Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn,
phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết,
khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
1. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới
Công nghiệp hóa khơng những trỏe thành nhận thức mà cịn
trở thành hành động mãnh mẽ thôi thúc mỗi người dân, mỗi
doanh nghiệp mỗi ngành kinh tế.
Kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát. Thời kỳ 2001-2005 đạt
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 20062010 tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm 20012010 tăng trưởng 7,26% /năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra;
GDP 5 năm 2011-2015 bình quân 5,9%; năm 2018 đạt 6,7%.
Về Lạm phát, trong thời kì 1986-1991 có mức lạm phát phi mã trong
đó 1986-1988 tăng tới 402,1%/năm, từ 1993 đến 2003 mức lạm
phát trung bình hàng năm của Việt-Nam là 6%, Từ năm 2004-2011,
tốc độ lạm phát đã dao động với biên độ rất lớn, từ 6,5%/năm đến
xấp xỉ 20%/năm vào năm 2008, Từ năm 2012 trở lại đây, lạm phát
có xu hướng ổn định dưới mức 7% (6,81% năm 2012 và 6,04% năm
2013)
Giai đoạn

2001-2005

2006-2010

2011-2015

2016-2019



Tốc độ tăng
trưởng GDP bình
quân năm

7.5%

7%

5,9%

6,8%

Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình trên thế giới.
Năm 2010, GDP) đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000
(31,2 tỷ USD). Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực
tế đã đạt 1.047 USD, năm 2010 đạt 1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so
với năm 2000. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm
2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc gia và lãnh thổ, thuộc


nhóm trung bình cao của thế giới. Năm 2018, GDP tăng trưởng đạt
7,08%, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 2.500 USD.

Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây
dựng tăng lên đáng kể, nhất là đường bộ, sân bay, bến cảng, cầu.
Xây dựng được ngành công nghiệp năng lượng với nhiều dàn dầu
khí, các nhà máy thủy điện lớn Hịa Bình, Sơn La, Trị An, Tuyên

Quang, Lai Châu và nhiều nhà máy nhiệt điện.
Phát triển mạnh các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp
vừa và nhỏ, các cụm và điểm công nghiệp. sự phát triển của các khu
công nghiệp đã tạo điều kiện mở rộng sản xuất cho doanh nghiệp và
ngành cơng nghiệp, túc đẩy sản xuấ hàng hóa xuất khẩu, góp phần
giải quyết tốt hơn các vấn đề về kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi
trường.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo hướng tích cực: giảm tỷ
trọng ngành nông lâm ngư nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.


Mơi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn
đầu tư cho phát triển.
Khi bắt đầu giai đoạn đổi mới, Đảng và Nhà Nước ta đã hoàn thiện
khung pháp lý về đầu tư nước ngoài đảm bảo mơi trường và điều
kiện thơng thống hơn cho nhà đầu tư, cải cách thủ tục hành chính
theo hướng đơn giản, gọn nhẹ cho các dự án đầu tư nước ngồi, bên
cạnh đó chú trọng và tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất kỹ
thuật tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài và tập trung phát
triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một số ngành,
sản phẩm trọng điểm.
Sau 30 năm đổi mới, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
Việt Nam đã không ngừng tăng. Năm 2010, vốn đầu tư thực hiện đạt
11 tỷ USD, tới năm 2015 đã đạt 14,5 tỷ USD, và tới năm 2016 đã đạt
15,8 tỷ USD. Tính đến cuối năm 2017, Việt Nam đã thu hút được trên
25.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng
ký hơn 333 tỷ USD. Đến nay, 129 quốc gia/vùng lãnh thổ đã đầu tư
vào Việt Nam. Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa phương,
vốn FDI cũng đã được đầu tư vào 19/21 ngành nghề sản xuất kinh

doanh của Việt Nam (Bộ Tài chính, 2018). Theo số liệu của Cục Đầu
tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2019 vốn FDI vào Việt
Nam đạt 38,95 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018. Trong đó, số dự
án đăng ký góp vốn mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là
3883 dự án với giá trị 16,75 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một
trong những quốc gia hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài.


Về đối tác đầu tư:
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2020 Việt Nam
đã thu hút được tổng số vốn đăng ký trên 377 tỷ USD với tổng số
33.148 dự án từ các quốc gia và vùng lãnh thổ. Có 10 quốc gia cam
kết với số vốn trên 10 tỷ USD. Trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với
tổng vốn đăng ký 69,3 tỷ USD và 9.149 dự án đầu tư (chiếm 18,3%
tổng vốn đầu tư); Nhật Bản đứng thứ hai với 60,1 tỷ USD và 4.674
dự án đầu tư (chiếm gần 15,9% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt
là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc chiếm 14,8%,
8,9%, 6,6% và 4,7%

2. Một số hạn chế:


Thực tiễn phát triển công cuộc đổi mới cũng bộc lộ những hạn chế
cần phải khắc phục. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi
mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho
hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhànước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội cịn có một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp
tục làm rõ.

-

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng,
yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động, kinh tế vĩ mô thiếu ổn
định. Trong 10 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm,
phục hồi chậm. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội và mơi trường.
Tỷ lệ lạm phát tuy có giảm đáng kể, song biên độ dao động còn rất
lớn, từ mức lạm phát cao nhất gần 800% được ghi nhận năm 1986,
đến mức xấp xỉ 3% năm 2003, ngay trong một giai đoạn ngắn hơn,
từ năm 2004-2011, tốc độ lạm phát đã dao động rất không ổn định,
từ 6,5%/năm đến xấp xỉ 20%/năm vào năm 2008.

-

Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh
tranh quốc gia của nền kinh tế vẫn còn được đánh giá ở mức thấp so
với các nước trong khu vực và trên thế giới Theo báo cáo Báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018 của diễn đàn kinh tế thế
giới, năng lực cạnh tranh quốc gia của VN được xếp thứ 77, vẫn còn
thuộc nửa sau của thế giới, giảm 3 bậc so với năm 2017. Trong khu
vực ASEAN, chúng ta cũng chỉ xếp hạng 7, sau rất nhiều nước như
Singapore, Thái Lan, Brunei, Malaysia,…


-

Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 – 2020 đề ra

mục tiêu Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm 6,5 7%/năm, GDP bình quân đầu người năm 2020 khoảng 3.200 - 3.500
USD, Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP năm 2020 khoảng
85%, Tỷ lệ đơ thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
Tuy nhiên, về cơ cấu nền kinh tế năm 2020, khu vực công nghiệp và
xây dựng chiếm 33,72%; khu vực dịch vụ chiếm 41,63%; , GDP bình
quân đầu người năm 2020 chỉ đạt 2.785 USD,
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ quan, trong đố nguyên nhân chủ quan là
chủ yếu.


Video tổng kết: />
Nguyên nhân
Về khách quan:
Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, tồn diện, lâu dài, rất khó khăn,
phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận
lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động và
cơ hội chính trị.
Về chủ quan:
-

-

Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được quan tâm
đúng mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt
cịn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo
tình hình chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng
các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải
quyết tám mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mồi thiếu đồng bộ, lúng

túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước còn nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm,
nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được


-

-

quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ
trương,nghị quyết đúng khơng được tích cực triển khai thực hiện, kết
quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp với thực tiễn, chậm
được sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thơng nhất cao về
nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn
biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể
nang, cục bộ; chưa quan tâm đến việc xây dựng cơ chế, chính sách
để trọng dụng người có đức, có tài.

3. Một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo cơng cuộc đổi mới
Một là, trong q trình đổi mới phải chủ động, sáng tạo trên cơ sở
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống
dân tộc
Đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có

ý nghĩa sơng cịn. Q trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn
xuất hiện những vấn đề mới, những khó khăn, thách thức mới, địi
hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng
tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là
làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây
dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vơ cùng khó khăn,
phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự nghiệp cách mạng đó địi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển
sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận
quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện
đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền thông dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp
với Việt Nam.


-

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì
lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ,
tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân;
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân.
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân

dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ
thực tiễn là một nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới
phải dựa vào nhân dân. Vì thế, đổi mới phải luôn luôn quán triệt
quan điểm “dân là gốc”, phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng
thành quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cần phải
phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân
dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc, cần
phịng, chống đặc quyển, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.

-

Ba là, đổi mới phải tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn,
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết
kịp thời, hiệu quả những vẩn đề do thực tiễn đật ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động
thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt
động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi,
hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng

vội, chủ quan, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ
hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời
phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình
trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là
yêu cầu và cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ


chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám
sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều
chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi
hỏi Đảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề
do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết
chế, cơ chế, chính sách khơng cịn phù hợp, cản trở sự phát triển;
thực hiện nói đi đơi với làm.
-

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc
lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ
sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia-dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và
bền vững. Phát huy sức mạnh dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh

thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, khơng
can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

-

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất,
ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của cả
hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Tăng
cường sự lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường
xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của mình.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất,


ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành cơng sự nghiệp đổi
mới.
Thường xun kiện tồn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy

sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân tộc để thực hiện thành
cơng sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được
bắt nguồn và nhân lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi
dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị,
trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề
trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt
Nam.
Với thành công của công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng rõ
hơn. Rõ hơn về mục tiêu mơ hình chủ nghĩa xã hội; rõ hơn về những
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội, chặng đường, bước đi của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; rõ hơn về nội dung bỏ qua chủ nghĩa tư
bản (bỏ qua việc thiết lập kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất
của chủ nghĩa tư bản) nhưng có thể kế thừa những thành quả mà
nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là kinh
nghiệm tổ chức, quản lý và sự phát triển của khoa học-công nghệ,
đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đổi mới đã tạo thế
và lực mới của đất nước. Khẳng định đó của Hội nghị Trung ương 4
khóa XII (10-2016) cho thấy cơ sở vững chắc để Việt Nam có thể
phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng với lịch sử anh hùng, vẻ vang
của Đảng và dân tộc.
4. Phương hướng tiếp theo của q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
Trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định
trong tám nhiệm vụ cơ bản từ 2011 đến 2050, thì Đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường… phải là nhiệm vụ cơ bản quan trọng
thứ nhất. Mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng
nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình

độphát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, dân chủ
công bằng, văn minh.


Như vậy, những vấn đề quan trọng cần được quan tâm và giải quyết
trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đó là: thể chế, nguồn
lực cơng nghệ và con người.
- Về vấn đề thể chế, cần xây dựng chính sách phát triển cơng nghiệp
quốc gia.
Trong đó, cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm
vụ về: Chính sách phân bố khơng gian và chuyển dịch cơ cấu ngành
cơng nghiệp; chính sách phát triển các ngành cơng nghiệp ưu tiên;
chính sách tạo lập mơi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát
triển công nghiệp; chính sách phát triển doanh nghiệp cơng nghiệp;
chính sách khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản;
chú trọng bảo vệ mơi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong
q trình phát triển cơng nghiệp;…
 Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng chính sách phân bổ không
gian bảo đảm tập trung, trọng tâm, trọng điểm, trước hết ưu
tiên lựa chọn phát triển tại các vùng, địa phương đã bước đầu
hình thành các cụm liên kết cơng nghiệp hoặc có lợi thế về
giao thơng, địa kinh tế, tài nguyên, lao động, logistic, có khả
năng trở thành động lực tăng trưởng. Tổng kết công tác quản
lý hoạt động của cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công
nghiệp, khu cơng nghệ cao. Trên cơ sở đó, phối hợp với các bộ,
ngành xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá hoạt động
của cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao.
 Bộ Công Thương thực hiện triển khai cơ chế, chính sách xây

dựng thí điểm về cụm liên kết ngành công nghiệp tại một số
địa phương đối với một số sản phẩm trong các ngành công
nghiệp ưu tiên theo lợi thế cạnh tranh, chuyên môn hóa và
chuỗi giá trị như ơ tơ, máy nơng nghiệp, thiết bị cơng trình,
thiết bị cơng nghiệp, thiết bị điện điện tử... và những ngành sử
dụng nhiều lao động như dệt may, da - giày.
 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn, chỉ đạo
các địa phương bảo đảm phân bổ các cơ sở chế biến nông lâm
sản hợp lý theo hướng gắn với việc phát triển vùng nguyên liệu
tập trung và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở cơ cấu lại vật nuôi,
cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của từng địa
phương trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, xây dựng, phát
triển các cụm liên kết sản xuất - chế biến tiêu thụ nơng sản tại
các địa phương, vùng miền có sản lượng nơng sản lớn, thuận
lợi giao thơng, lao động, logistics, có tiềm năng trở thành động
lực tăng trưởng cho cả khu vực, lựa chọn các doanh nghiệp


“đầu tàu” có đủ năng lực (vốn, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực,
khoa học công nghệ và thị trường) để dẫn dắt chuỗi liên kết
vận hành một cách thông suốt, hiệu quả.

- Về nguồn lực công nghệ, Thực tiễn cho thấy, khoa học và cơng
nghệ (KH&CN) góp phần rất quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua tác động đến tổng cung và tổng cầu; các sản phẩm
KH&CN đóng góp trực tiếp vào GDP. Sự phát triển của KH&CN có tác
động mang tính quyết định đối với tăng trưởng dài hạn và chất lượng
tăng trưởng.
 Một trong các giải pháp để nâng cao ngồn lực công nghệ, đó
chính là chính sách thu hút FDI, cần chú trọng tới FDI công

nghệ cao, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự kết hợp giữa doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt. Đặc biệt nhà nước đóng vai
trị vơ cùng quan trọng trong việc ưu tiên nguồn lực để nghiên
cứu đổi mới sáng tạo... Một ví dụ điển hình cho viêc áp dụng
thành cơng giải pháp trên chính là đất nước Ethiopia, ông
Arkebe Oqubay- Bộ trưởng kiêm cố vấn đặc biệt cho Thủ tướng
Ethiopia cho biết, từ năm 2004-2018, nền kinh tế Ethiopia đã
tăng trưởng 10%, trước đó là khoảng 5,5%. Ethiopia đã theo
đuổi chính sách cơng nghiệp hóa nhất qn và tập trung vào
việc học tập, thông qua việc tổ chức nhiều đối thoại chính sách
để học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…
 Bên cạnh đó, khuyến khích ứng dụng, chuyển giao công nghệ;
nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số cơng nghệ mới,
hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng


thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm
trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công
nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng
tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo

- Về chất lượng nguồn nhân lực, C. Mác cho rằng, con người là yếu tố
số một của lực lượng sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã căn
dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người” Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế khơng thể thành cơng nếu thiếu
nguồn nhân lực, nhất là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
với những con người có đủ “đức”, “tài”
 Thứ nhất, để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao
cần chú trọng gắn kết 3 khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ. Việc

đào tạo phải dựa trên xu hướng, nhu cầu phát triển của nền
kinh tế Việt Nam, đúng địa chỉ sử dụng; tiếp cận cách làm hay
của thế giới.
 Thứ hai, để tăng cường quản lý nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay, cần có các phương pháp quản lý phù hợp. Trong đó cần
đặc biệt chú ý đến 2 nhóm yếu tố: yếu tố nguồn nhân lực (gồm
sự phù hợp giữa con người với tổ chức, lương và các khoản thu
nhập, đào tạo và phát triển chức nghiệp, các cơ hội thực hiện
nhiệm vụ đầy thách thức) và yếu tố tổ chức (hành vi của lãnh


đạo, mối quan hệ trong tổ chức, văn hóa và các chính sách của
tổ chức, mơi trường làm việc).
 Thứ ba, đối với đội ngũ trí thức, nhân tài, cần quán triệt sâu sắc
quan điểm: “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư
tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức... Tạo
mơi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp
của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm
chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối
với nhân tài của đất nước”; đồng thời, nâng cao ý thức trách
nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của nhân tài vì sự nghiệp
chung.

5. Liên hệ vai trò, trách nhiệm đặt ra cho thế hệ trẻ, thanh
thiếu niên hiện nay


1.

Vai trò


Thanh niên Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử ln giữ vai trị quan
trọng, ln thể hiện tinh thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ
nước và ln là lực lượng quan trọng trong thời kì kiến thiến đất
nước. Thanh niên Việt nam trong các cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, trong thời kì kiến thiết đất nước sau chiến tranh; trong
thời kì đổi mới, thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ln phát huy truyền thống của thanh niên VN trong công cuộc
cách mạng của Đảng và của Dân tộc: “ xung phong trong công cuộc
phát triển kinh tế và văn hóa” Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trong mọi công việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu lệnh “
đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Thanh niên Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng ln thể hiện rõ vai trị xung kích sáng
tạo của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-

-

Thanh niên là lực lượng năng động, sáng tạo, có tri thức có hồi bão
có ước mơ, ý chí và nghị lực… Ngày nay, trong giai đoạn cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thanh niên Việt Nam là nguồn
nhân lực trẻ có vị trí và vai trị quan trọng, chiếm hơn 50% lực lượng
lao động của đất nước.Trong mọi hoàn cảnh họ vẫn tỏ rõ tinh thần
quả cảm lịng nhiệt tình cách mạng, chí tiến thủ và bản lĩnh ngoan
cường, lao động sáng tạo với ý thức và trách nhiệm cao.
Thanh niên Việt Nam là đội ngũ kế thừa và phát huy truyền thống và
tinh hoa văn hóa dân tộc, đã phát huy cao nhất truyền thống hiếu
học, chuyên cần và sáng tạo nỗ lực thi đua phấn đấu học tập và rèn
luyện, biết nắm bắt và tận dụng mọi thời cơ thâu tóm tri thức đẩy lùi



-

-

-

-

-

nguy cơ tạo lên sức mạnh tổng hợp chủ động hội nhập với xu thế
phát triển của nền văn minh nhân loại.
Thanh niên là lớp người trẻ luôn trung thành và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, nêu cao lòng yêu nước, quyết tâm đưa đất nước ta
vượt lên, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố và từng bước xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự quan tâm, chăm lo, cùng những kỳ vọng và chính sách của Đảng
và Nhà nước ta đối với thanh niên đã đem lại cho thanh niên rất
nhiều cơ hội, điều kiện.
Ngoài ra, thanh niên Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều những
thách thức lớn như: Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường,
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội tác động mạnh mẽ vào giới
trẻ, ảnh hưởng lớn đến giá trị đạo đức và lối sống của thanh niên;
các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, làm chuyển hóa
chế độ XHCN ở nước ta mà đối tượng chúng nhắm tới là thanh niên
nhằm ra sức lơi kéo, tha hóa, kích động thanh niên tham gia các
hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị đất nước…

2. Trách nhiệm
Tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp
lý tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh cách mạng trong nước và
quốc tế dang tác động lên tất cả các đối tượng thanh niên, tác động
một cách tồn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của
từng thanh niên. Do đó thanh niên phải rèn luyện để có lập trường tư
tưởng vững vàng, có lịng u nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo cảu
Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hơi, có đạo đức trong
sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
bảo vệ Đảng, nhà nước, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật cảu nhà nước.
Xây dựng và phát huy lối sống: “ mỗi người vì mọi người, mọi người
vì mỗi người”: hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ mơi trường, kết họp
hài hịa tính tích cực cá nhân và ích cực xã hội; đề cao trách nhiệm
cá nhân đối với bản thân, gia đình, xã hội. khẳng định và tôn vinh cái
đúng, cái đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các giá trị cao đẹp,
nhân văn.
Xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của
địa phương, tự nguyện, tự giác tham gia nghĩa vụ quân sự, tham gia
các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự, an tồn xã
hội.
Chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, tham gia gải
quyết các vấn đề toàn cầu, tham gia vào công tác ngoại giao nhân
dân để nâng tầm ảnh hưởng cảu VIệt Nam trên trường quốc tế, chủ


động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề tồn cầu
như: giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh chống khủng bố,

bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu, hạn chế
sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm
nghèo.
Hàng ngàn thanh niên tình nguyên nơi tuyến đầu chống dịch :

/>


×