Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận “quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập” để lý giải một vấn đề của thực tiễn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.96 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT KINH TẾ


TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Triết học Mác - Lênin
ĐỀ T ÀI: Vận dụng nội dung và ý nghĩa
phương pháp luận “Quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập” để lý
giải một vấn đề của thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay.
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Phương Anh
Lớp

: 4619

MSSV

: 461902

Hà Nội, 2021
1


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
II. VẬN DỤNG
B. NỘI DUNG
C. KẾT LUẬN


DANH MỤC THAM KHẢO


A. LỜI MỞ ĐẦU

Nhà triết học lỗi lạc Socrates từng nói rằng: "Trí tuệ bắt nguồn từ những điều
kì diệu". Câu nói này thực sự rất hợp lí, đặc biệt là với những vấn đề đời sống thực
tiễn được nhìn nhận trên quan điểm của Triết học. Triết học - lĩnh vực được tôn
vinh là “khoa học của mọi khoa học”, đã nghiên cứu thế giới với tư cách là một
chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối tồn bộ những sự vận động
thuộc chỉnh thể đó và ln cho chúng ta cái nhìn tồn vẹn, đa chiều, sâu sắc nhất về
mọi sự vật, hiện tượng. Trong đó, là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật đồng thời cũng là hạt nhân của pháp biện chứng duy vật, “Quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” đề cập tới vấn đề cơ bản và quan
trọng nhất của phép biện chứng duy vật, đó chính là vấn đề ngun nhân, động lực
của sự vận động và phát triển. Với vai trò to lớn như vậy,
đặt trong hệ tham chiếu mang tên Triết học, bằng việc vận dụng nội dung và
ý nghĩa phương pháp luận của “Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập”, chúng ta sẽ đánh giá, phân tích để thấy được một cách tồn diện về vấn đề
này.


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA
CÁC MẶT ĐỐI LẬP.
1. Quan niệm về mâu thuẫn trong lịch sử triết học.
1.1. Quan niệm về mâu thuẫn trong lịch sử triết học trước Mác.

Từ buổi bình minh của lịch sử tư tưởng lồi người, khi tìm cách trả lời những
câu hỏi: Thế giới được hình thành như thế nào? Con người có nhận thức được thế

giới hay không?... các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra những phỏng đoán
xung quanh các khía cạnh của vấn đề mâu thuẫn.
Các nhà triết học Milê đã đưa ra tư tưởng về sự thống nhất giữa các mặt đối lập
qua sự xuất hiện và diệt vong trong tự nhiên. Talét cho rằng sống và chết, xuất hiện
và diệt vong hoàn toàn như nhau; sự thống nhất của các mặt đối lập trên là quá
trình biến đổi phổ biến. Nối tiếp phỏng đốn đó, học thuyết của Anaximanđrơ ra
đời bàn về quan hệ giữa khởi nguyên apeirôn và các trạng thái khác nhau của vật
chất là quan hệ giữa các mặt đối lập. Anaximen ở thời kì sau lại cho rằng sự xuất
hiện của tất cả vật thể và sự quay lại khởi nguyên đầu tiên thống nhất của chúng là
do q trình cơ đặc và làm lỗng. Tuy cịn mang tính sơ khai, thơ thiển và trực
quan nhưng những phỏng đoán trên đã để lại đóng góp khơng nhỏ cho sự pháp triển
tư duy biện chứng Hy Lạp cổ đại.
Được Lênin đánh giá là “một trong những người sáng lập ra phép biện chứng”,
nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêraclít cho rằng: “Cùng một cái ở trong chúng ta -


sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này mà biến đổi là cái kia và
ngược lại, cái kia mà biến đổi là cái này; cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh đi, cái ướt
khơ đi, cái khô ướt lại; bệnh tật làm cho sức khoẻ quý hơn, cái ác làm cho cái thiện
cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn" 1. Thừa nhận sự thống nhất của các
mặt đối lập, ông coi đó khơng phải là trùng hợp tuyệt đối mà là sự nương tựa lẫn
nhau, nếu thiếu nó thì các mặt đối lập khơng cịn là các mặt đối lập. Tư tưởng biện
chứng về mặt đối lập đạt đỉnh cao trong sự phát triển phép biện chứng của các nhà
triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là Cantơ và Hêghen. Trong học thuyết về antinomia
của Cantơ, các mặt đối lập là những đối lập về chất, ông đã từ bỏ việc thừa nhận
các mâu thuẫn khách quan, coi tồn tại của mâu thuẫn chính là bằng chứng cho sự
bất lực của con người trong nhận thức thế giới. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng
Cantơ đã đem lại đóng góp lớn cho sự phát triển của phép biện chứng, chỉ ra được
tính khách quan của các mâu thuẫn tồn tại trong nhận thức, tấn công vào hạn chế
của phương pháp siêu hình, làm sống dậy tinh thần biện chứng. Kế thừa tinh thần

ấy, Hêghen là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong q trình vận động
phát triển. Ơng đã đi đến kết luận về tính phổ biến của mâu thuẫn, coi mâu thuẫn
như nguồn gốc, động lực cho sự vận động phát triển và điều đó cũng khiến cho
Hêghen trở thành người đầu tiên trong lịch sử triết học đã nghiên cứu, trình bày
phép biện chứng một cách tự giác, có ý thức và đầy đủ.

1

Lịch sử triết học, “Triết học của xã hội nô lệ”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, tr.135.


1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn.

Đối với Mác và Ăngghen, học thuyết Hêghen về vấn đề mâu thuẫn có giá trị rất
lớn, nhưng dưới hình thức duy tâm và thần bí hố, nó khơng thể là cơng cụ thích
hợp cho việc nhận thức thế giới một cách đúng đắn; nó chứa đựng mâu thuẫn
khơng có lối thốt nên khơng thể chỉ ra cách giải quyết cho các mâu thuẫn của hiện
thực. Bởi vậy, Mác, Ăngghen làm nhiệm vụ xoá tan đám sương mù duy tâm ấy, kéo
nó ra khỏi thế giới của những ảo tưởng, đi vào thế giới hiện thực của con người.

1.2.1. Khái niệm mặt đối lập và mâu thuẫn biện chứng.

Mặt đối lập là những mặt, những yếu tố, những thuộc tính, những bộ phận có
đặc điểm, hoặc có khuynh hướng vận động, biến đổi trái ngược nhau tồn tại trong
cùng một sự vật hay hệ thống sự vật, tác động qua lại với nhau giúp cho sự vật vận
động, biến đổi.
Ví dụ: Điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử; tốt và xấu, giàu và
nghèo trong xã hội; sai lầm và đúng đắn trong nhận thức;...
Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn bao hàm sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập. Các mặt đối lập liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau, tác động

qua lại với nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau nhưng có khuynh hướng bài trừ, phủ
định lẫn nhau. Mâu thuẫn biện chứng được tạo nên từ các mặt đối lập, các bộ phận,
các thuộc tính,... có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại


khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng. Ví dụ như: Lề trái và lề phải đường
không được gọi là mâu thuẫn biện chứng.

1.2.2. Đặc điểm, tính chất của mâu thuẫn biện chứng.

Mâu thuẫn biện chứng phải bao gồm ba yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là
sự thống nhất của các mặt đối lập biện chứng, đấu tranh của các mặt đối lập biện
chứng và sự chuyển hoá của các mặt đối lập biện chứng thể hiện quá trình giải
quyết mâu thuẫn. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau,
vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật hiện tượng.
Bởi vậy, không phải hai mặt đối lập nào cũng trở thành mâu thuẫn biện chứng. Mặt
đối lập phải đáp ứng được bốn đặc trưng của mặt đối lập biện chứng, dẫn đến phải
đủ các yếu tố của mâu thuẫn biện chứng mới tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Ví
dụ: Bên trái và bên phải của con đường không phải là mâu thuẫn biện chứng, màu
trắng của viên phấn và màu đen của cái bảng mâu thuẫn biện chứng.
Dân gian có câu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng
méo”. Tuy nhiên, đó là câu nói cảm tính, thiên lệch bởi những mối liên hệ tồn tại
trong vũ trụ là khách quan, do vậy con người cần có tính khách quan khi xem xét
đánh giá về sự vật. Mâu thuẫn biện chứng cũng thế, nó mang tính khách quan chứ
khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Ví dụ như q trình đồng hố,
dị hố trong cơ thể. Bên cạnh đó, mâu thuẫn biện chứng tồn tại rất phổ biến trong


mọi lĩnh vực, ví dụ như mâu thuẫn giữa lực đẩy và lực hút giữa các nguyên tử trong
phân tử; đồng thời cũng đa dạng, phong phú, mỗi loại có những tính chất, vai trị



khác nhau. Sự đa dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm các mặt đối lập, điều kiện triển
khai sự tác động qua lại các mặt đối lập, trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng.
1.2.3. Phân loại các mâu thuẫn.

 Căn cứ vào sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng: Có mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản tác động toàn bộ, quy định bản
chất, sự phát triển của sự vật, hiện tượng từ khi tồn tại đến lúc tiêu vong. Ví dụ:
Mâu thuẫn giữa các nước XHCN và các nước theo CNTB. Mâu thuẫn không cơ
bản tác động một hoặc một số mặt của sự vật, hiện tượng, chịu sự chi phối của
mâu thuẫn cơ bản. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau.
 Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng trong mỗi giai đoạn: Có mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu
thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển, có tác dụng quy
định các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó và khi giải quyết được mâu
thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết các mâu thuẫn khác trong cùng giai
đoạn. Ví dụ: Thời kỳ nước ta trước Cách mạng Tháng Tám, mâu thuẫn chủ yếu
là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với các nước đế quốc xâm lược. Mâu thuẫn thứ
yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhưng khơng
đóng vai trị quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng mà
bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa địa chủ với nông dân.
 Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với sự vật, hiện tượng: Có mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động giữa các


mặt và khuynh hướng đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Mâu thuẫn
nội bộ nền kinh tế nước ta. Mâu thuẫn bên ngoài là những mối liên hệ, quan hệ
với các đối tượng khác ở môi trường tồn tại của nó, chỉ có tác dụng khi thơng
qua mâu thuẫn bên trong. Ví dụ: Mâu thuẫn kinh tế VN với các nước ASEAN.

 Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các
giai cấp của một giai đoạn lịch sử nhất định: Có mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp,
lực lượng,... có lợi ích cơ bản đối lập nhau, khơng thể điều hồ. Ví dụ: Mâu
thuẫn giữa công nhân và giai cấp tư sản. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu
thuẫn giữa lực lượng, khuynh hướng xã hội thống nhất về lợi ích cơ bản, đối lập
về lợi ích khơng cơ bản, cục bộ. Ví dụ: Mâu thuẫn nội bộ nhân dân lao động.
1.2.4. Quá trình vận động của mâu thuẫn.

Có hai tác động dẫn đến sự vận động của mâu thuẫn, đó là tác động lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tượng ( tác nhân bên ngoài ) và tác động lẫn nhau giữa các mặt
đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng ( tác nhân bên trong ). Tuy nhiên, chỉ có tác
nhân bên trong mới có thể thúc đẩy được sự phát triển của sự vật hiện tượng.
2. Sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập. Nội dung
của quy luật.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền
đề tồn tại cho nhau; còn đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại, xâm
nhập vào nhau theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Trong quá


trình vận động phát triển của sự vật, thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
không thể tách rời. Có thể thấy, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, còn
sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập là những mâu thuẫn của sự vật đã được giải
quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với những mặt đối lập và mâu thuẫn biện
chứng mới. phong phú. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập có thể có nhiều hình
thức: Mặt đối lập này bài trừ, phủ định mặt đối lập kia chẳng hạn như đấu tranh
giai cấp dẫn đến giai cấp này phủ định giai cấp kia; hoặc các mặt đối lập chuyển
hố lẫn nhau, ví dụ khi cắt đội một thanh nam châm thì hình thành một nam châm
mới với mặt đối lập mới; hoặc cả hai mặt đối lập cùng biến đổi. Ví dụ, trong cuộc

đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản dẫn đến cả giai cấp tư sản và cả giai cấp công
nhân đều biến đổi.
Từ những phân tích đó, ta có thể rút ra nội dung của “Quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập”: Trong cùng một sự vật, hiện tượng, tồn tại những
mặt vận động, biến đổi trái ngược nhau được gọi là những mặt đối lập. Trong sự tác
động qua lại của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt đối lập làm cho các mặt đó
biến đổi và mâu thuẫn cũng phát triển. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác
nhau giữa hai mặt đối lập biện chứng tuy nhiên khác nhau đó ngày càng lớn, đến
khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt, nếu đủ điều kiện sẽ dẫn đến sự chuyển hoá
của các mặt đối lập, mâu thuẫn được giải quyết làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật
mới ra đời. Bởi thế, Lênin khẳng định, sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các


mặt đối lập. Vì thế, mâu thuẫn chính là nguồn gốc, động lực của sự vận động phát
triển.

3. Ý nghĩa phương pháp luận.

Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn giữa sự vật và hiện tượng,
từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật , điều kiện khách quan. Muốn
phát hiện mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập, từ đó tìm ra
phương hướng, giải pháp cho hoạt động nhận thức, thực tiễn.
Thứ hai, cần phải phân tích mâu thuẫn để tìm ra phương pháp giải quyết. Để
phân tích mâu thuẫn, ta cần xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại
mâu thuẫn, xem xét vai trị, vị trí, mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện
chuyển hoá giữa chúng.
Thứ ba, nắm vững các nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các
mặt đối lập, khơng điều hồ mâu thuẫn cũng khơng nóng vội hay bảo thủ, bởi giải
quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc điều kiện và thời điểm.


II.



DANH MỤC THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc Đại
học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2021.
2. Nguyễn Thanh Bình, Một số vấn đề về lý luận mâu thuẫn và nguyên tắc mâu
thuẫn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. luận án tiến sĩ

3. Nguyễn Văn Hiền, Võ Thị Nhung, “Minh họa “phép biện chứng duy vật” qua
một số câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao Việt Nam”, Bình Định, 2021.
4. Hội đồng xuất bản C. Mác và Ph. Ăngghen tuyển tập, C. Mác và Ph.
Ăngghen tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1980.
5. Hội đồng xuất bản C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, C. Mác và Ph.
Ăngghen tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1994,

Với trình độ kiến thức cịn hạn chế, bài làm của em chắc chắn không
tránh khỏi những sai sót. Em hy vọng thầy, cơ có thể nhận xét, đóng góp ý
kiến để bài làm của em hoàn thiện hơn.


Em xin chân thành cảm ơn!



×