A. MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập và phát triển của thế giới hiện nay bắt buộc các quốc
gia phải không ngừng đầu tư phát triển kinh tế để đưa đất nước đi lên. Việt Nam
chúng ta cũng vậy, xuất phát điểm của nền kinh tế chúng ta thấp với một nền nông
nghiệp nghèo nàn lạc hậu, nếu vẫn cứ duy trì một trình độ phát triển thấp như vậy
thì sẽ không đủ sức cạnh tranh với nền kinh tế của thế giới, yêu cầu bức thiết bây
giờ cần phải có q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, để thực
hiện quá trình này thì yếu tố con người cần phải được đặt lên hàng đầu và vấn đề
nâng cao tri thức của nguồn lực con người ;là vơ cùng cần thiết. Vì vậy, cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa găn với nền kinh tế tri thức là một quá trình tất yếu của
Việt Nam. Đây là một sự nghiệp địi hỏi phải có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước và sự đồng lòng quyết tâm của tất cả nhân dân. Với vấn đề tơi xin lựa
chọn đề tài: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Thành phố Hà Nội” để có thể hiểu được vai trị của các nhân tố này trong sự
nghiệp của đất nước.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức
1.1. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo nghĩa chung, khái qt nhất, cơng nghiệp hố là q trình biến một nước
có nền kinh tế lạc hậu thành một nước cơng nghiệp.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra
quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
•Tính tất yếu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật
tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ)
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là
sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ thuật;
tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở
vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức sản xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại cơng nghiệp cơ khí hố. Chủ
nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư
bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật
và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện
đại.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền cơng
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên
trình độ khoa học và cơng nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và
thống trị trong tồn bộ nền kinh tế quốc dân.
•Khái niệm nền Kinh tế tri thức
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng
về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có
ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang
kinh tế tri thức, nền văn minh lồi người chuyển từ văn minh cơng nghiệp sang văn
minh trí tuệ.
Vậy nền kinh tế tri thức là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng dễ chấp
nhận nhất hiện nay là định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
đưa ra năm 1995: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo
ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động
và tồn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân
thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vơ cùng nhiều
trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vơ cùng lớn. Trong
nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là
những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, cơng
nghệ. Đó có thể là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao (như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học...); nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế
truyền thống (như nơng nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học,
công nghệ cao.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta ln coi cơng nghiệp hóa (CNH) là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng
ta xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách mạng
kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là q trình tích lũy xã hội
chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục
được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
Tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm
quan trọng về phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành
và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng
trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Cơng nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm
lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển
KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách
là một yếu tố cấu thành đường lối CNH-HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận
lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi
KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp
việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền
vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động
lực đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển KTTT, góp phần
tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự
phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Đại hội XII nhấn mạnh cần “Xác định hệ tiêu chí nước cơng nghiệp theo
hướng hiện đại. Chú trọng những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền
kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỷ
trọng nông nghiệp, tỷ lệ đô thị hóa, điện bình qn đầu người,...); những tiêu chí
phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ
bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân,
tỷ lệ lao động qua đào tạo,...); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về
môi trường (tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỷ lệ giảm mức phát
thải khí nhà kính...).”
Để nâng cao chất lượng CNH, HĐH, hướng tới mục tiêu “phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Đại hội XII đề
ra những phương hướng sau:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện mơ hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa
học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu;
huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển.
Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh,
có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu, rộng vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị tồn cầu; có văn minh cơng nghiệp chiếm ưu thế trong sản
xuất và đời sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của
từng giai đoạn.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề,
điều kiện để CNH, HĐH; đẩy mạnh CNH, HĐH; nâng cao chất lượng CNH, HĐH.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát
triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học - công
nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính
nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh,
bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu,
có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành cơng nghiệp chế tạo, chế biến, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, cơng nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử,
hóa chất, cơng nghiệp xây dựng, xây lắp, cơng nghiệp quốc phịng, an ninh. Chú
trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp
phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất
vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, cơng nghiệp mơi trường và
cơng nghiệp văn hóa.
Tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả các khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; sớm đưa một số khu công nghiệp công nghệ cao
vào hoạt động.
Đại hội XII xác định: “Trong 5 năm tới tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, chú trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững;
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”. Quán triệt quan điểm của Đại hội XII về CNH, HĐH đất nước, toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp sau:
Một là,thể chế hóa, hiện thực hóa chủ trương “khoa học - công nghệ là nền
tảng, động lực của CNH, HĐH; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức và chủ động tích cực hội nhập quốc tế”. Những quan điểm trên đã được
Đảng ta nhấn mạnh qua nhiều kỳ Đại hội, song do nội hàm chưa được thể chế hóa,
pháp quy hóa, nên hiệu lực thực tế cịn thấp. Tình trạng tùy tiện tiếp nhận chuyển
giao công nghệ và nhập khẩu công nghệ lạc hậu còn phổ biến trong nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực.
Hai là,khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, gắn với đẩy mạnh
hợp tác quốc tế nhằm tạo nguồn vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Một
trong những lợi thế lớn nhất của nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới và nguồn
lao động có trí tuệ, giàu sức sáng tạo, đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”.
Ngồi ra, các thành tựu khoa học - cơng nghệ, kinh tế tri thức và các mối quan hệ
hợp tác quốc tế, cùng những hiệp định thương mại với các đối tác, trong đó nhiều
nước có nguồn cơng nghệ hàng đầu thế giới, chính là những ngoại lực quan trọng
mà Việt Nam có thể khai thác.
2. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Thành phố Hà Nội
2.1. Vai trò của cấp bộ Đảng và chính quyền trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Thành phố Hà Nội
Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, Đảng bộ
và chính quyền Hà Nội đã đề ra những chủ trương, đường lối định hướng cho
thành phố Hà Nội thực hiện hiệu quả công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Thứ nhất, Đảng bộ và chính quyền Hà Nội đề ra chủ trường, đường lối phát
triển công nghiệp. Đưa công nghiệp phát triển đi đầu, hỗ trợ các ngành khác trong
nền kinh tế phát triển.
Điều này được thể hiện trong Quyết định số 2261/QĐ-UBND
ngày
25/5/2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về phê duyệt quy hoạch phát
triển công nghiệp thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ủy
ban nhân dân thành phố đã xác định rõ quan điểm của mình trong chiến lược phát
triển cơng nghiệp trong giai đoạn tới đó là: Phát triển cơng nghiệp thành phố Hà
Nội cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và dựa trên lợi thế so sánh về nguồn lực,
kết hợp chặt chẽ sản xuất với thị trường, gắn với hai hành lang và một vành đai
kinh tế.
- Phát triển các ngành công nghiệp chất lượng cao, công nghệ cao gắn với
chiến lược phát triển kinh tế tri thức, phát triển bền vững.
- Phát triển công nghiệp phải gắn với việc di dời các cơ sở sản xuất không phù
hợp với quy hoạch và gây ô nhiễm môi trường tại các khu dân cư.
- Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho nhu cầu
phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại và trong một số ngành, lĩnh
vực kinh tế tri thức, góp phần thiết thực xây dựng Thủ đơ Hà Nội về cơ bản có nền
cơng nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020.
- Phát triển công nghiệp gắn với đảm bảo an ninh quốc phịng và bảo vệ mơi
trường.
Theo quyết định này thì Hà Nội đã xác định mục tiêu cho cơng cuộc phát
triển cơng nghiệp đó là:
+ Về mục tiêu chung: Xây dựng Hà Nội trở thành Trung tâm công nghệ cao
của cả nước, phát triển công nghiệp gắn với khoa học công nghệ, các trung tâm
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thử nghiệm sản phẩm mới và văn phịng của các tập
đồn sản xuất lớn. Tạo các sản phẩm chất lượng, giá trị cao, có khả năng cạnh tranh
và đáp ứng tiêu chuẩn tiên tiến của các nước
+ Về mục tiêu cụ thể: Chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2011-2015 tăng
trưởng bình quân 12,13 %/năm, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 11,32%/năm và giai
đoạn 2021 - 2030 đạt 10,20%/năm.
- Tỷ trọng GDP công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 41-42% (trong đó
cơng nghiệp chiếm 31-32%) năm 2015 và giữ ổn định 41-42% vào năm 2020 trong
tổng giá trị GDP của Thành phố.
Để đạt được những mục tiêu trên, Thành phố Hà Nội cũng đã hoạch định
những định hướng cơ bản để phát triển công nghiệp. Theo đó:
* Đối với ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin: Xây dựng ngành
công nghiệp điện tử - công nghệ thông tin trở thành ngành công nghiệp chủ lực để
tạo cơ sở cho các ngành khác phát triển. Phấn đấu để thành phố Hà Nội trở thành
trung tâm của cả nước, của Vùng đồng bằng sông Hồng về thiết kế sản phẩm, sản
xuất phần mềm,sản xuất linh kiện, thiết bị và các dịch vụ điện tử - tin học trên cơ
sở phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trên địa bàn. Tiếp tục phát triển
phương thức lắp ráp các thiết bị điện tử, tin học, tiếp nhận công nghệ và đáp ứng
nhu cầu sản phẩm điện tử trong nước và tham gia xuất khẩu, đồng thời tăng cường
liên kết với các tập đoàn điện tử, tin học lớn trên thế giới để tiếp thu công nghệ hiện
đại, tăng năng lực sản xuất linh kiện trong nước. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các
thiết bị điện tử - tin học. Tập trung nâng cao chất lượng, mở rộng thị phần các thiết
bị điện, điện tử, dây dẫn và vật liệu cho ngành điện, khuyến khích sản xuất các sản
phẩm mang thương hiệu Hà Nội, các sản phẩm phần mềm tin học phục vụ cho các
ngành công nghiệp và tham gia thị trường xuất khẩu.
Mục tiêu giai đoạn 2011 - 2015 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình
quân đạt 12,63%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 13,45%/năm, giai đoạn 2021 2030 đạt 12,18%/năm. Đến năm 2015 cơ cấu ngành điện tử - công nghệ thơng tin
chiếm tỷ trọng 10,86% của tồn ngành cơng nghiệp, năm 2020 chiếm tỷ trọng
11,85%, năm 2030 chiếm tỷ trọng 15,53%.
* Đối với ngành cơ khí: Ưu tiên phát triển sản xuất các loại động cơ nhỏ, các
sản phẩm điện cơ, cơ khí chính xác, dụng cụ học tập, dụng cụ thí nghiệm, các chi
tiết máy hiện đại, các sản phẩm tiêu dùng cao cấp, máy móc, thiết bị văn phịng.
Tập trung đầu tư phát triển cơng nghiệp chế tạo khuôn mẫu cung cấp cho nhu cầu
sản xuất của Thủ đô, các địa phương trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển cơ khí chế tạo thiết bị đồng bộ, các thiết bị điện, cơ điện tử, tự
động hóa phục vụ phát triển các ngành công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, dịch vụ
và tiêu dùng đáp ứng phần lớn yêu cầu của thị trường trong nước, từng bước vươn
ra thị trường thế giới và khu vực.
- Chú trọng phát triển khâu nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới theo hướng gắn
kết, hợp tác chặt chẽ với các viện, trường với doanh nghiệp, gắn các chương trình
nghiên cứu quốc gia với phát triển các sản phẩm trọng điểm. Từng bước hình thành
hệ thống cơng nghiệp hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.
- Mục tiêu giai đoạn 2011 - 2015 chỉ số sản xuất cơng nghiệp tăng trưởng bình
qn đạt 12,50%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 13,63%/năm, giai đoạn 2021 2030 đạt 10,60%/năm. Đến năm 2015 cơ cấu chiếm tỷ trọng 44,55% của tồn
ngành cơng nghiệp, năm 2020 chiếm tỷ trọng 49,22%, năm 2030 chiếm tỷ trọng
52,00%.
* Đối với ngành hóa chất, hóa dược và mỹ phẩm: Ưu tiên phát triển ngành
hóa dược và hóa mỹ phẩm thành ngành cơng nghiệp mũi nhọn, đi ngay vào công
nghệ hiện đại, xây dựng một số phịng thí nghiệm hiện đại phục vụ nghiên cứu cơ
bản cho cơng nghiệp hóa dược.
- Đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu, tiến tới sản xuất một số loại hóa chất tinh
khiết quy mơ phịng thí nghiệm phục vụ cho bào chế thuốc, nghiên cứu và giảng
dạy.
- Khuyến khích xây dựng các tổ hợp chế biến rác thải kết hợp sản xuất phân
hữu cơ tại các khu xử lý rác thải tập trung của thành phố.
- Mục tiêu giai đoạn 2011 - 2015 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình
quân đạt 11,25%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 10,0%/năm, giai đoạn 2021 - 2030
đạt 7,24%/năm. Đến năm 2015 cơ cấu chiếm tỷ trọng 8,31% của tồn ngành cơng
nghiệp, năm 2020 chiếm tỷ trọng 7,19%, năm 2030 chiếm tỷ trọng 4,74%.
* Đối với Chế biến nông sản, thực phẩm và đồ uống:
- Tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất những sản phẩm có thương hiệu, có uy tín
phục vụ nhu cầu ngày càng tăng cao của nhân dân Thủ đô và các tỉnh, thành trong
cả nước. Chú trọng phát triển các sản phẩm truyền thống nổi tiếng của Thủ đô phục
vụ cho khách du lịch. Kết hợp với các tỉnh trong vùng Bắc bộ để phát triển các
vùng nguyên liệu và bố trí nhà máy chế biến phù hợp với quy hoạch vùng, tránh
lãng phí, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Mục tiêu giai đoạn 2011 - 2015 chỉ số sản xuất cơng nghiệp tăng trưởng bình
qn đạt 12,08%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 12,18%/năm, giai đoạn 2021 2030 đạt 11,13%/năm. Đến năm 2015 cơ cấu ngành chiếm 17,54% của toàn ngành
công nghiệp, năm 2020 chiếm tỷ trọng 17,6%, năm 2030 chiếm tỷ trọng 19,99%.
* Đối với ngành dệt may, da giày:
- Phát triển các trung tâm cung cấp dịch vụ, trung tâm nghiên cứu thiết kế mẫu
thời trang cao cấp. Phát triển chủ yếu theo chiều sâu, cần tập trung vào sản xuất sản
phẩm cao cấp theo công nghệ mới, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường.
- Hướng vào 3 nhóm sản phẩm chính là giày thể thao, giày dép da và túi cặp.
Tập trung đầu tư máy móc trang thiết bị chuyên dùng, công nghệ hiện đại, coi trọng
thiết kế mẫu mã để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, cạnh tranh được cả trong
nước và thế giới, tiến tới thay thế hàng nhập khẩu.
- Đẩy mạnh hợp tác liên kết với các tỉnh, thành lân cận để phát huy thế mạnh
về lao động, đất đai, giao thông của các địa phương.
- Mục tiêu giai đoạn 2011 - 2015 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình
quân đạt 6,88%/năm, giai đoạn 2016 -2 020 tăng trưởng đạt 7,68%/năm, giai đoạn
2021 - 2030 tăng trưởng đạt 4,75%/năm. Đến năm 2015 cơ cấu ngành chiếm tỷ
trọng 5,90% của tồn ngành cơng nghiệp, năm 2020 chiếm tỷ trọng 4,34%, năm
2030 chiếm tỷ trọng 1,99%.
* Đối với ngành vật liệu xây dựng, trang trí nội thất:
- Đầu tư ứng dụng kỹ thuật mới, tiên tiến vào sản xuất các loại vật liệu mới,
vật liệu cao cấp, vật liệu tổng hợp phục vụ xây dựng và trang trí nội thất như: vật
liệu không nung, vật liệu nhẹ, tấm kết cấu 3D, sản phẩm ốp lát, gốm sứ xây dựng,
các loại vật liệu mới ứng dụng cơng nghệ nano như kính chống va đập, kính chống
mờ … tiến tới giảm dần việc sản xuất các loại vật liệu gây ô nhiễm môi trường trên
địa bàn Thành phố.
- Mục tiêu giai đoạn 2011 - 2015 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình
quân đạt 10,65%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng đạt 10,01%/năm, giai
đoạn 2021-2030 tăng trưởng đạt 7,25%/năm. Đến năm 2015 cơ cấu ngành chiếm tỷ
trọng 6,58% của toàn ngành công nghiệp, năm 2020 chiếm tỷ trọng 5,70%, năm
2030 chiếm tỷ trọng 3,77%.
* Định hướng phát triển nghề, làng nghề:
- Phát triển các làng nghề gắn với xây dựng nông thơn mới và bảo tồn, khơi
phục bản sắc văn hóa dân tộc.
- Phát triển các nghề, làng nghề xuất phát từ tiềm năng và nhu cầu của xã hội
nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật và tính thương
mại cao nhưng vẫn mang các giá trị truyền thống đặc trưng của các làng nghề.
- Chú trọng kết hợp truyền thống với ứng dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến
vào các công đoạn sản xuất, đảm bảo cân bằng sinh thái và bảo vệ mơi trường, duy
trì chất lượng sống khu vực dân cư tại địa phương có làng nghề.
* Thành phố Hà Nội cũng định hướng phát triển không gian công nghiệp, theo
đó: Phát triển cơng nghiệp sạch, ít gây ơ nhiễm, các khu công nghệ cao, các khu
công nghiệp tập trung (tổng diện tích khoảng 8.000 ha), di dời các cơ sở sản xuất
công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp với quy hoạch vào các
khu công nghiệp, cụm cơng nghiệp tập trung.
Phía Bắc bao gồm Sóc Sơn, Mê Linh, Đông Anh, Gia Lâm, Long Biên, Từ
Liêm khoảng 3.200 ha: ưu tiên phát triển công nghiệp điện tử - cơng nghệ thơng
tin, cơ khí, sản xuất ơtơ, cơng nghiệp vật liệu mới, hóa dược - mỹ phẩm, dệt may.
Phía Nam bao gồm Thường Tín, Phú Xuyên khoảng 1.500 ha: ưu tiên phát
triển các ngành công nghiệp sinh học phục vụ nông nghiệp (nông nghiệp công nghệ
cao), chế biến nông sản công nghệ hiện đại với nguyên liệu đầu vào từ vùng phát
triển nơng nghiệp thuộc các tỉnh phía nam Hà Nội, phát triển công nghiệp hỗ trợ
(dệt may, da giày, cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản xuất và lắp ráp ơtơ …)
Phía Tây bao gồm Hịa Lạc, Xn Mai, Miếu Mơn khoảng 1.800 ha: ưu tiên
phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp sinh học phục vụ nông
nghiệp, hóa dược - mỹ phẩm, cơng nghệ điện tử, cơ khí chính xác, cơng nghệ vật
liệu mới, cơng nghệ nanô, công nghệ năng lượng mới, vật liệu xây dựng, nội thất
cao cấp …
Các thị trấn khoảng 1.400 - 1.500 ha: ưu tiên phát triển công nghiệp sinh thái,
chế biến nông sản thực phẩm chất lượng cao.
Quy hoạch các cụm cơng nghiệp, cụm cơng nghiệp làng nghề để giữ gìn và
phát triển các nghề thủ công truyền thống, làng nghề thủ công mới và giải quyết
vấn đề ô nhiễm môi trường của các làng nghề.
Để đạt được những mục tiêu và định hướng đặt ra trên, Thành phố Hà Nội
cũng đưa ra những giải pháp để nhanh chóng thực hiện được:
* Giải pháp về công nghệ:
- Hỗ trợ doanh nghiệp về nghiên cứu khoa học cơ bản, chuyển giao công nghệ,
hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, các chính sách về phát triển cơng nghệ.
- Lựa chọn áp dụng công nghệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Đẩy
mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới để nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học cơng nghệ, đa dạng hóa các loại hình
hợp tác để tranh thủ tối đa sự chuyển giao công nghệ hiện đại từ đối tác nước ngoài
cho phát triển cơng nghiệp.
- Khuyến khích phát triển các dịch vụ cơng nghệ, xây dựng thị trường công
nghệ, thường xuyên định kỳ mở hội chợ công nghệ, lập ngân hàng dữ liệu thông tin
công nghệ mới. Nghiên cứu thành lập Trung tâm nghiên cứu, chuyển giao cơng
nghệ.
- Khuyến khích hoạt động chuyển nhượng quyền thương mại đi kèm chuyển
giao công nghệ. Thành lập vườn ươm doanh nghiệp cơng nghiệp.
- Khuyến khích sử dụng công nghệ, thiết bị công nghệ trong sản xuất cơng
nghiệp có hiệu suất năng lượng cao, sử dụng các dạng năng lượng thay thế có hiệu
quả.
* Giải pháp về đầu tư:
a) Về vốn:
- Dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển các ngành công nghiệp Hà Nội thời kỳ
2011 - 2020 khoảng 238.000 tỷ đồng. Nguồn vốn tích lũy GDP để phát triển cơng
nghiệp trong thời kỳ đáp ứng được khoảng 8-9% nhu cầu về vốn. Còn lại huy động
từ các nguồn khác.
- Vốn của Nhà nước tập trung đầu tư chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, giao thông, điện nước, các lĩnh vực hỗ trợ phát triển công nghiệp. Vốn huy
động của các doanh nghiệp tập trung cho đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới cơng
nghệ
- Bố trí kinh phí ngân sách hàng năm hỗ trợ, khuyến khích phát triển công
nghiệp hiện đại, nhất là hỗ trợ các dự án chuyển giao cơng nghệ tiên tiến, sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn vay lãi suất thấp, vốn vay theo cơ chế ưu đãi để tăng
mạnh vốn đầu tư phát triển cơng nghiệp.
- Rà sốt lại các mục tiêu đầu tư, xác định rõ các trọng tâm, trọng điểm để tập
trung đầu tư và chỉ đạo điều chỉnh cơ cấu đầu tư phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo đúng định hướng.
* Giải pháp về nguồn nhân lực:
- Tiếp tục đầu tư đồng bộ, nâng cấp một số trường dạy nghề hiện có với các
trang thiết bị hiện đại, khắc phục tình trạng chênh lệch quá lớn về trình độ thiết bị
trong các trường dạy nghề với thực tiễn sản xuất, đảm bảo tính cân đối giữa dạy lý
thuyết và thực hành, đảm bảo cho người lao động sau đào tạo có thể sớm phát huy
được kiến thức đào tạo trong thực tiễn.
- Tập trung vào đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật. Phát triển đào tạo các
ngành nghề: cơng nghiệp cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, các ngành nghề đòi hỏi
kỹ thuật cao …. Có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ quản lý và các chủ doanh nghiệp
các kiến thức về quản lý kinh tế, về sản xuất kinh doanh, hội nhập.
- Đa dạng hóa và mở rộng các hình thức hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực
theo hướng gắn kết giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, từng bước thực hiện đào
tạo theo yêu cầu và địa chỉ, nhằm đảm bảo cho lao động đào tạo ra được sử dụng
đúng với chương trình đã đào tạo.
- Mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế về đào tạo công nhân kỹ thuật trong
khối ASEAN và các nước khác. Tranh thủ các nguồn tài trợ của nước ngoài về vốn,
chuyên gia kỹ thuật để đào tạo thợ bậc cao.
*Thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền trong toàn ngành để nâng cao
nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng nội dung, tổ chức kênh cung cấp
thông tin thường xuyên về hội nhập KTQT đến các doanh nghiệp. Khuyến khích
các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, đăng ký nhãn
hiệu hàng hóa, xây dựng và quảng bá thương hiệu.
* Giải pháp bảo vệ môi trường:
- Đánh giá hiện trạng mơi trường đối với tồn bộ các khu cơng nghiệp hiện có
để có phương án xử lý chung trên địa bàn cũng như từng khu vực.
- Kiểm kê các nguồn gây ơ nhiễm chính trong q trình sản xuất cơng nghiệp
ở tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, định kỳ quan trắc, phân
tích thành phần các chất thải độc hại.
Thứ hai, Đảng và chính quyền thành phố Hà Nội có vai trị quan trọng trong
việc đề ra chính sách và chủ trương phát triển ngành nơng nghiệp của Thành phố
phát triển tồn diện.
Đối với ngành nơng nghiệp, sự phát triển của ngành nhằm mục đích phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa gắn với nền kinh tế tri thức được xác định trong Kế
hoạch số 188/KH –UBND ngày 6/10/2016 về thực hiện chương trình số 02CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội về “ Phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nơng dân giai đoạn 2016-2020”. Theo
đó, mục tiêu phát triển nông nghiệp của Thành phố Hà Nội là: “Phấn đấu tăng
trưởng sản xuất nơng nghiệp bình qn từ 3,5-4%, giá trị sản phẩm nông nghiệp thu
hoạch trên 01 ha đất nông nghiệp đạt 250 triệu đồng/ha. Số xã đạt chuẩn nông thôn
mới từ 347 xã trở lên; có 10 huyện đạt chuẩn nơng thơn mới; xã đạt tiêu chí quốc
gia về y tế đạt 100%; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 90,1%; tỷ lệ thôn,
làng đạt tiêu chuẩn làng văn hóa 62,0%; tỷ lệ chất thải được thu gom và xử lý đúng
quy định đạt 100%; thu nhập bình quân dân cư nông thôn đạt 49 triệu/người/năm;
tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo đạt 70-75%; tỷ lệ rác thải được thu gom, xử
lý đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam khu vực nông thôn 100%; tỷ lệ hộ nghèo
khu vực nơng thơn cịn dưới 1,4%; tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch tiêu
chuẩn đô thị đạt 100%”.
Để đạt được mục tiêu đặt ra trên, Đảng Ủy và Thành phố Hà Nội đã đặt ra
những định hướng phát triển cho ngành nông nghiệp của Thành phố. Theo đó:
Phát triển sản xuất nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, chuyên canh tập
trung, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất, bền vững và an
toàn vệ sinh thực phẩm;
Triển khai đồng bộ Kế hoạch tái cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp Thủ đô
giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 7111/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 của
UBND Thành phố; tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng cơng nghệ
cao, bảo đảm an tồn vệ sinh thực phẩm; đẩy mạnh cơ giới hóa, tự động hóa vào
sản xuất, trọng tâm là sản xuất lúa chất lượng cao, rau an toàn, hoa, cây cảnh, cây
ăn quả đặc sản (cam canh, bưởi diễn, nhãn chín muộn, chuối ni cấy mô); chăn
nuôi gia súc, gia cầm, sản xuất giống, chăn ni bị thịt, bị sữa, ni thâm canh
thủy sản.
- Tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả các chính sách của Trung
ương và Thành phố đối với sản xuất nông nghiệp;
- Tăng cường đào tạo cán bộ chun sâu về kỹ thuật nơng nghiệp;
- Rà sốt, đánh giá, phân loại, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các
hợp tác xã nông nghiệp;
- Tổ chức liên kết, hợp tác sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; tăng cường
xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm nông nghiệp;
Nội dung cụ thể thực hiện qua các năm đó là:
Tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 3,5-4%, giá trị sản phẩm nông nghiệp
thu hoạch trên 01 ha đất nông nghiệp đạt 235 triệu đồng/ha; trong đó diện tích sản
xuất lúa hàng hóa chất lượng cao tập trung đạt 30.500 ha (chiếm 35,5%); diện tích
trồng rau an tồn đạt 5.600 ha; diện tích trồng mới cây ăn quả chất lượng cao đạt
550 ha; tổng đàn gia súc, gia cầm và vật nuôi khác 28,82 triệu con; sản lượng thịt
hơi xuất chuồng đạt 312 nghìn tấn; diện tích đất nơng nghiệp được tưới tiêu chủ
động là 173,513 ha.
Thu nhập bình quân dân cư nông thôn đạt 35 triệu/người/năm; tỷ lệ lao động
nông nghiệp qua đào tạo đạt 40-45%; tỷ lệ rác thải được thu gom, xử lý đạt tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam khu vực nông thôn 89%; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông
thôn theo chuẩn mới đạt 4,8%; tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch tiêu chuẩn
đô thị đạt 48,5%; tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 84,0%.
Năm 2017
Tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 3,5-4%, giá trị sản phẩm nông nghiệp
thu hoạch trên 01 ha đất nông nghiệp đạt 238 triệu đồng/ha; trong đó diện tích sản
xuất lúa hàng hóa chất lượng cao tập trung đạt 33.000 ha (chiếm 38,5%); diện tích
trồng rau an tồn đạt 5.700 ha; diện tích trồng mới cây ăn quả chất lượng cao đạt
550 ha; tổng đàn gia súc, gia cầm và vật nuôi khác 29,22 triệu con; sản lượng thịt
hơi xuất chuồng đạt 315 nghìn tấn; diện tích đất nơng nghiệp được tưới tiêu chủ
động là 177,285 ha.
Số xã đạt chuẩn nơng thơn mới có thêm 22 xã (tổng số 258 xã đạt chuẩn nông
thôn mới); có thêm 02 huyện đạt chuẩn nơng thơn mới (tổng số có 6 huyện đạt
chuẩn nơng thơn mới); cải tạo, nâng cấp 76,1 km đường trục xã, liên xã, 186,3 km
đường trục thơn, liên thơn, 339,5 km đường ngõ xóm và làm mới 602,3 km đường
trục chính nội đồng;
Thu nhập bình qn dân cư nơng thơn đạt 38 triệu/người/năm; tỷ lệ lao động
nông nghiệp qua đào tạo đạt 46-52%; tỷ lệ rác thải được thu gom, xử lý đạt tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam khu vực nông thôn 91%; giảm tỷ lệ hộ nghèo khu vực
nơng thơn theo chuẩn mới cịn 3,8%; tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch tiêu
chuẩn đơ thị đạt 61,5%; tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 88,0%.
Năm 2018
Tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 3,5-4%, giá trị sản phẩm nông nghiệp
thu hoạch trên 01 ha đất nông nghiệp đạt 241 triệu đồng/ha; trong đó diện tích sản
xuất lúa hàng hóa chất lượng cao tập trung đạt 34.800 ha (chiếm 40,6%); diện tích
trồng rau an tồn đạt 5.800 ha; diện tích trồng mới cây ăn quả chất lượng cao đạt
550 ha; giữ ổn định đàn gia súc, gia cầm và vật nuôi khác 29,52 triệu con; sản
lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 317 nghìn tấn; diện tích đất nơng nghiệp được tưới
tiêu chủ động là 181,057 ha.
Số xã đạt chuẩn nông thơn mới có thêm 26 xã (tổng số 284 xã đạt chuẩn nơng
thơn mới); có thêm 02 huyện đạt chuẩn nơng thơn mới (tổng số có 8 huyện đạt
chuẩn nơng thôn mới); cải tạo, nâng cấp 56,3 km đường trục xã, liên xã, 135,3 km
đường trục thôn, liên thôn, 248,2 km đường ngõ xóm và làm mới 443,8 km đường
trục chính nội đồng; Thu nhập bình qn dân cư nơng thôn đạt 41 triệu/người/năm;
tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo đạt 55-60%; tỷ lệ rác thải được thu gom, xử
lý đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam khu vực nông thôn 93%; giảm tỷ lệ hộ
nghèo khu vực nông thôn theo chuẩn mới đạt 2,8%; tỷ lệ người dân được sử dụng
nước sạch tiêu chuẩn đô thị đạt 74,5%; tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt
92,0%.
Năm 2019
Tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 3,5-4%, giá trị sản phẩm nông nghiệp
thu hoạch trên 01 ha đất nơng nghiệp đạt 245 triệu đồng/ha; trong đó diện tích sản
xuất lúa hàng hóa chất lượng cao tập trung đạt 36.500 ha (chiếm 42,5%); diện tích
trồng rau an tồn đạt 5.900 ha; diện tích trồng mới cây ăn quả chất lượng cao đạt
550 ha; giữ ổn định đàn gia súc, gia cầm và vật nuôi khác 29,82 triệu con; sản
lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 318 nghìn tấn; diện tích đất nơng nghiệp được tưới
tiêu chủ động là 184,829 ha.
Số xã đạt chuẩn nơng thơn mới có thêm 30 xã (tổng số 314 xã đạt chuẩn nơng
thơn mới); có thêm 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới (tổng số có 09 huyện đạt
chuẩn nơng thơn mới); cải tạo, nâng cấp 49,9 km đường trục xã, liên xã, 105,5 km
đường trục thơn, liên thơn, 215,7 km đường ngõ xóm và làm mới 365,5 km đường
trục chính nội đồng; Thu nhập bình qn dân cư nơng thơn đạt 45 triệu/người/năm;
tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo đạt 62-68%; tỷ lệ rác thải được thu gom, xử
lý đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam khu vực nông thôn 95%; giảm tỷ lệ hộ
nghèo khu vực nông thôn theo chuẩn mới còn 1,8%; tỷ lệ người dân được sử dụng
nước sạch tiêu chuẩn đô thị đạt 87,5%; tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt
96,0%.
Năm 2020
Tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 3,5-4%, giá trị sản phẩm nông nghiệp
thu hoạch trên 01 ha đất nông nghiệp đạt 250 triệu đồng/ha; trong đó diện tích sản
xuất lúa hàng hóa chất lượng cao tập trung đạt 38.600 ha (chiếm 45,0%); diện tích
trồng rau an tồn đạt 6.000 ha; diện tích trồng mới cây ăn quả chất lượng cao đạt
600 ha; tổng đàn gia súc, gia cầm và vật nuôi khác 30,02 triệu con; sản lượng thịt
hơi xuất chuồng đạt 320 nghìn tấn; diện tích đất nơng nghiệp được tưới tiêu chủ
động là 188,601 ha.
Số xã đạt chuẩn nông thôn mới có thêm 33 xã (tổng số 347 xã đạt chuẩn nơng
thơn mới); có thêm 01 huyện đạt chuẩn nơng thơn mới (tổng số có 10 huyện đạt
chuẩn nơng thơn mới); cải tạo, nâng cấp 35,1 km đường trục xã, liên xã, 64,9 km
đường trục thôn, liên thôn, 130,6 km đường ngõ xóm và làm mới 268,5 km đường
trục chính nội đồng; Thu nhập bình qn dân cư nơng thơn đạt 49 triệu/người/năm;
tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo đạt 70-75%; tỷ lệ rác thải được thu gom, xử
lý đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam khu vực nông thôn 100%; tỷ lệ hộ nghèo
khu vực nông thôn đạt dưới 1,4%; tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch tiêu
chuẩn đơ thị đạt 100%; tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 100%.
Thứ ba, về phát triển tri thức. Trong vấn đề này, Đảng và Thành phố Hà Nội
đã đề ra Quyết định Số: 3724/QĐ-UBND Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân
lực thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020. Theo đó, Thành phố Hà Nội xác
định mục tiêu phát tri thức đó là:
* Mục tiêu tổng quát:
- Phát triển nhân lực có cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp và yêu cầu phục vụ và quản lý xã
hội, bảo đảm an ninh - quốc phịng trong điều kiện cơng nghệ hóa, quốc tế hóa, và
tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp.
- Phát triển nhân lực có trình độ chun mơn cao, có phẩm chất đạo đức, nhân
cách tốt, có tác phong chuyên nghiệp, có năng lực nghề nghiệp cao, thành thạo kỹ
năng, năng động, sáng tạo nhằm thực hiện tốt nhất vai trò của Hà Nội là trung tâm
khoa học - kỹ thuật của cả nước, là trung tâm đào tạo và cung cấp nhân lực chất
lượng cao cho khu vực miền Bắc, cho cả nước và đạt tiêu chuẩn khu vực và thế
giới.
* Mục tiêu cụ thể
Tăng tỷ lệ nhân lực qua đào tạo từ 35% tổng lực lượng lao động năm 2011 lên
55% năm 2015 và 75% năm 2020. Trong nhân lực qua đào tạo, tăng tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề từ 10% năm 2011 lên 20% năm 2015 và 35% năm 2020; tỷ lệ lao
động có trình độ đại học cao đẳng đạt mức 20% năm 2015 và 30% năm 2020; tỷ lệ
lao động có trình độ sau đại học đạt 2,5% năm 2015 và 3,5% năm 2020. Phấn đấu
đến năm 2020, 98% đội ngũ cán bộ, công chức cấp thành phố, quận, huyện, thị xã
có trình độ đại học.
- Nâng cao trình độ chun mơn của đội ngũ giáo viên đến năm 2020 có ít
nhất 30% giáo viên ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề và 50%
giáo viên ở các trường cao đẳng nghề có trình độ thạc sỹ trở lên; có 70% giảng viên
cao đẳng có trình độ thạc sỹ, trong đó có 15% trình độ tiến sỹ; có 100% giảng viên
đại học có trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 50% là tiến sỹ.
Tăng số người qua đào tạo nghề giai đoạn 2011 - 2015 từ khoảng 120.000 130.000 người mỗi năm, lên 160.000 - 180.000 người giai đoạn 2016 - 2020.
2.2. Vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với sự phát triển kinh tế tri thức ở Thành phố Hà Nội.
Đảng và Nhà nước ta nhận định sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là sự nghiệp của tồn dân chứ khơng phải bất kỳ một cá nhân hay tổ chức
nào. Vì vậy, sự đồng long của tồn dân chính là một nhân tố quyết định quan trong
tới sự thành cơng của cơng cuộc đó. Nhân dân Hà Nội cũng vậy, trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa của thành phố, nhân dân Hà Nội giữ một vai trị vơ
cùng quan trọng, đó là:
Thứ nhất, nhân dân Hà Nội luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của các cấp bộ
Đảng cũng như các cấp chính quyền của Thành phố. Điều này được thể hiện rõ khi
Đảng và các cấp chính quyền đề ra các đường lối chính sách, từ việc lấy ý kiến
đóng góp của nhân dân mà gây dựng được lịng tin vì vậy khi có các đường lối
chính sách, nhân dân Hà Nội ln tin tưởng và chấp hành theo các chính sách.
Thứ hai, trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với sự
nghiệp phát triển kinh tế tri thức, nhân dân Thủ đô luôn ra sức nâng cao năng suất
lao động sản xuất. Tự mình nâng cao trình độ sản xuất để có thể phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế của thành phố trong điều kiện hội nhập địi hỏi phải có trình độ
cao và chất lương sản phẩm kinh tế cao.
Thứ ba, nhân dân Hà Nội chủ động, quyết liệt và kiên quyết chỉ ra những sai
phạm của các cấp chính quyền khi có những hành vi sai trái trong việc thực hiện sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố. Đồng thời, ln đồn kết lẫn
nhau, giúp đỡ nhau cùng phát triển sản xuất và hội nhập.
Thứ tư, trong quá trình thực hiện sự nghiệp này, nhận thức được những khó
khăn có thể gặp phải, nhân dân Hà Nội luôn chủ động cùng với các cấp chính
quyền san sẻ giải quyết khó khăn. Chẳng hạn như trong vấn đề về xây dựng vốn để
xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự nghiệp khi thiếu vốn thì nhân dân Hà Nội
sẵn sang đóng góp khi có sự kêu gọi động viên của các cấp chính quyền.
1.3. Thành tựu của Thành phố Hà Nội đạt được trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Tăng trưởng kinh tế của Thủ đô 2 thập kỷ qua đạt mức bình qn
9,5%/năm. Quy mơ nền kinh tế của Hà Nội từ chỗ chỉ chiếm 8,2% cả nước nay đã
tăng lên 13,6%, đóng góp hơn 16,5% ngân sách cả nước, đóng góp 0,91 điểm phần
trăm vào tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước.
Hà Nội cũng đang phát huy hiệu quả sức mạnh liên kết với các tỉnh, thành phố
lân cận trong cả nước. Sự phát triển của Hà Nội đã lan tỏa đến các tỉnh và thành
phố lân cận, khu vực bắc bộ và tây bắc.
Về hạ tầng giao thơng Hà Nội đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, các trục đường
hướng tâm, đường vành đai được mở rộng, tình hình giao thơng được cải thiện
đáng kể. Thành phố đang tập trung ưu tiên huy động nguồn lực cho hạ tầng giao
thông, trong bối cảnh ngân sách chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn cho hạ tầng
giao thông, Hà Nội đã có hướng đi rất đúng là đẩy mạnh xã hội hóa, tư nhân đầu tư
hơn 80% nhu cầu cịn lại
Về hạ tầng khu cơng nghiệp, viễn thơng, năng lượng, mức độ sẵn sàng cho
phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin của Thành phố đứng thứ hai cả nước.
Các dịch vụ trực tiếp liên quan tới doanh nghiệp đều có thể thực hiện 100% trên
mơi trường mạng. Nhiều doanh nghiệp đánh giá mức độ hỗ trợ doanh nghiệp, đào
tạo lao động của Hà Nội thuộc nhóm tốt nhất cả nước. Cụ thể cịn nhớ cách đây
khơng lâu trong Hội nghị công bố chỉ số năm lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 2016 do
VCCI tổ chức, Hà Nội được ghi nhân là liên tục cải thiện xếp hạng trong những
năm qua.
Tỷ trọng nông nghiệp giảm, công nghiệp – xây dựng tăng:
Tỷ trọng của nhóm ngành nơng, lâm nghiệp – thủy sản đã giảm từ 6,9% năm
2005 xuống dưới 5% năm 2014 và chỉ còn bằng hơn một phần tư tỷ trọng của cả
nước. Tỷ trọng của nhóm ngành cơng nghiệp – xây dựng đã tăng lên trong thời gian
tương ứng và cao hơn tỷ trọng tương ứng của cả nước. Đặc biệt, tỷ trọng của ngành
xây dựng cao gấp đôi, chứng tỏ Hà Nội là công trường xây dựng lớn của cả nước,
trong khi ngành này tạo ra các cơ sở hạ tầng cho đất nước. Tỷ trọng của ngành dịch
vụ từ năm 2005 đến nay đã tăng lên và đã vượt qua mốc 53%, cao hơn hàng chục
phần trăm so với tỷ trọng tương ứng của cả nước. Một số ngành dịch vụ cụ thể còn
cao hơn nữa (như vận tải – kho bãi, thông tin – truyền thông, hoạt động chuyên
môn – khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo…).
Tuy nhiên, về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội vẫn còn nhiều
việc phải làm. Đối với nông, lâm nghiệp – thủy sản, cần chuyển hướng phát triển
nông nghiệp sạch, nông nghiệp kỹ thuật – công nghệ cao để vừa tăng năng suất,
vừa tăng thu nhập cho người lao động ở nhóm ngành này; đồng thời cần phát triển
ngành nghề để thu hút số lao động nông, lâm nghiệp – thủy sản chuyển sang. Đối
với công nghiệp, với tỷ trọng trên 30%, thì đó vẫn cịn cao, trong đó cần phát triển
cơng nghiệp sạch, cơng nghiệp có trình độ có kỹ thuật – công nghệ cao, vừa tận
dụng các lợi thế về nguồn nhân lực, nơi tập trung các trường đại học, viện nghiên
cứu, vừa hạn chế tác động xấu của mơi trường trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.1
Đối với dịch vụ, tỷ trọng chung của nhóm ngành này vẫn cịn thấp. Trong đó,
tỷ trọng một số ngành dịch vụ động lực cịn thấp, như hoạt động tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm, hoạt động kinh doanh BĐS, hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ… Đặc biệt, tỷ trọng trong hoạt động tài chính ngân hàng, kinh doanh
BĐS, tỷ trọng còn thấp hơn của cả nước. Đối với nhiều địa phương khác, thì cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là sự gia tăng tỷ trọng của công nghiệp; nhưng đối
với Hà Nội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng nghĩa với việc phát triển mạnh
dịch vụ hơn nữa, nhất là các dịch vụ động lực, dịch vụ không chỉ trong phạm vi Hà
Nội, mà còn của cả nước và quốc tế.
3. Giải pháp đảm bảo thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự
phát triển kinh tế tri thức.
Để thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về CNH, HĐH gắn với phát
triển KTTT, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về chủ trương, chính sách
Xây dựng mơ hình CNH, HĐH theo hướng hiện đại. Trong đó, cần hồn chỉnh
khung tiêu chí nước cơng nghiệp hiện đại. Đó là hệ các tiêu chí về tăng trưởng kinh
tế vĩ mơ, các tiêu chí phản ánh về sự phát triển xã hội, các tiêu chí đánh giá mức độ
hội nhập quốc tế.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường pháp
lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, phát huy vai trò của khoa học, cơng
nghệ khuyến khích phát triển năng lực trí tuệ con người.
Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành giá trị gia tăng cao
dựa nhiều vào tri thức, công nghệ mới, tập trung phát triển công nghiệp năng
1
/>
lượng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp tự động, các ngành công nghiệp mũi nhọn
với sự huy động các nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời, cắt
giảm các dự án đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp; phát triển các ngành công nghiệp
chế biến và dịch vụ dựa nhiều vào tri thức, chấm dứt bán tài nguyên thô; nhập công
nghệ thay cho nhập sản phẩm chế biến - FDI phải đi kèm chuyển giao khoa học,
công nghệ; tăng mạnh vốn đầu tư vào giáo dục - đào tạo. Thực hiện sự chuyển
hướng chiến lược từ sự phát triển dựa vào tài nguyên sang phát triển dựa vào tri
thức, năng lực trí tuệ của con người, gia tăng nhanh hàm lượng tri thức trong GDP,
giảm mạnh tiêu hao nguyên liệu, năng lượng.
Thiết lập hệ thống đổi mới sáng tạo trong toàn bộ nền kinh tế, tạo sự liên kết
hữu cơ khoa học, đào tạo với sản xuất - kinh doanh, nhằm đẩy nhanh quá trình đổi
mới sáng tạo.
Cải cách hành chính gắn với tin học hóa, đẩy nhanh xây dựng Chính phủ điện
tử để bộ máy nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả hơn,...
Thứ hai, nhóm giải pháp về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải gắn kết với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, với sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển KTTT. Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội (2011- 2020) khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế - xã hội phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững... Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất
lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”.
Tiến hành cải cách giáo dục một cách triệt để, bắt đầu từ những vấn đề căn
bản về triết lý và mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam. Đây là yếu tố quyết định
nhất thúc đẩy Việt Nam đi nhanh vào KTTT.
Cần có chính sách khuyến khích sáng tạo, cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với