Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Đánh giá mức độ lo âu trước phẫu thuật của người bệnh tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.92 KB, 90 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, mặc dù phẫu thuật và gây mê đã phát triển và an toàn hơn bao
giờ hết, nhưng lo âu trước phẫu thuật vẫn là một hiện tượng phổ biến của
những người bệnh cần được phẫu thuật, 1 đặc biệt là đối với những người bệnh
phẫu thuật chấn thuơng chỉnh hình khi kết quả phẫu thuật sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến các hoạt động thường ngày của họ.2
Những cảm xúc tiêu cực như quá lo âu, nghi ngờ kết quả điều trị… có
thể ảnh hưởng đến các hoạt động điều hòa miễn dịch, tác động xấu đến tim
mạch, hơ hấp, tiêu hóa, gây rối loạn giấc ngủ… Chất lượng giấc ngủ kém có
thể dẫn đến kích động, một tình trạng dẫn đến tăng nồng độ catecholamine
trong máu, làm tăng hoạt động giao cảm dẫn đến huyết áp cao về đêm.3 Hậu
quả là, sự lo âu trước phẫu thuật có thể dẫn đến nhiều biến chứng như tăng
nhịp tim, tăng huyết áp trước phẫu thuật; buồn nôn, co thắt cơ trơn phế quản
trong và sau phẫu thuật… Do đó cần tăng liều thuốc mê và tăng nguy cơ xảy
ra tai biến trong và sau phẫu thuật.4 Hơn nữa, những cảm xúc tiêu cực như
quá lo âu có thể dẫn đến tăng cảm giác đau sau phẫu thuật, gây ra rối loạn
giấc ngủ và dinh dưỡng kém sau phẫu thuật. Điều này có thể góp phần thay
đổi hệ thống miễn dịch và liên quan đến việc chậm lành vết thương, kéo dài
quá trình phục hồi sau phẫu thuật, tăng thời gian nằm viện, tăng chi phí điều
trị và tăng gánh nặng về kinh tế cho người bệnh và gia đình họ.5,6,7,8
Trên Thế giới, vấn đề lo âu trước phẫu thuật đã được nghiên cứu ở nhiều
quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, tỷ lệ lo âu này cũng thay đổi theo từng
đối tượng, khu vực và thời điểm nghiên cứu. Nghiên cứu về lo âu trước phẫu
thuật ở Tây Bắc Etiopia (2018) cho thấy tỷ lệ người bệnh có lo âu chiếm
61%,9 một nghiên cứu khác ở Tây Ban Nha (2015), chỉ ra 94% người bệnh
phẫu thuật tim có biểu hiện lo âu 10. Những vấn đề phổ biến nhất gây ra lo âu
trước phẫu thuật là sợ biến chứng chiếm 52,4%, lo lắng về gia đình 50,4%, sợ
đau sau phẫu thuật 50,1% và sợ chết 48,2%.9



2
Tại Việt Nam, lo âu trước phẫu thuật cũng chiếm tỷ lệ rất cao. Theo một
khảo sát tại ba bệnh viện ở Hà Nội năm 2010 chỉ ra rằng, có 97,3% người
bệnh phẫu thuật bụng đã trải qua lo âu trước phẫu thuật. 11 Một số nghiên cứu
khác tại Phú Thọ năm 2013, tỉ lệ này là 98,9%,12 tại Thái Nguyên năm 2018
cho thấy 100% người bệnh trước phẫu thuật bụng có lo âu, lo âu trước phẫu
thuật có mối tương quan thuận với mức độ đau sau mổ (r=0,4, p=0,01) và thời
gian nằm viện (r=0,24, p<0,05).13
Trong khi đó, khi nói về chăm sóc người bệnh trước phẫu thuật, hầu như
người ta chỉ chú ý đến việc chăm sóc hỗ trợ về thể chất mà chưa quan tâm
nhiều đến sự hỗ trợ về tâm lý, cảm xúc của người bệnh trước khi phẫu thuật. 14
Chính vì thế đã có rất nhiều người bệnh có những biểu hiện như: Bồn chồn, lo
sợ, căng thẳng hay cáu gắt vơ cớ, thậm chí là từ chối phẫu thuật gây ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình phẫu thuật và kết quả điều trị cho người bệnh.
Việc tìm hiểu tình trạng lo âu và các yếu tố liên quan đến lo âu trước
phẫu thuật của người bệnh là bước quan trọng để cải thiện chất lượng chăm
sóc người bệnh, từ đó có hướng can thiệp phù hợp giúp người bệnh giảm lo
âu, nâng cao chất lượng cuộc sống trước, trong và sau phẫu thuật cũng như
phục hồi nhanh hơn sau phẫu thuật và sự hài lòng của người bệnh khi đến
viện.
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên là Bệnh viện đa khoa hạng đặc biệt
trực thuộc Bộ Y tế tại khu vực Miền núi phía Bắc Việt Nam. Bệnh viện có
nhiệm vụ tiếp nhận cấp cứu, khám chữa bệnh, can thiệp phẫu thuật cho hầu
hết các trường hợp người bệnh nặng trong khu vực. Khoa Chấn thương chỉnh
hình có nhiệm vụ cấp cứu, khám, chữa bệnh cho người bệnh về lĩnh vực chấn
thương các vùng chi thể và bỏng. Theo thống kê của Bệnh viện trong năm
2020, Khoa đã phẫu thuật khoảng 3500 ca bệnh, hai phần ba trong số đó là
phẫu thuật liên quan đến các vấn đề về gãy xương của hệ thống xương chi thể.
Tuy nhiên, việc đánh giá tình trạng lo âu trước phẫu thuật của người bệnh gãy



3
xương tại đây vẫn chưa có nghiên cứu nào được thực hiện.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành: “Đánh giá tình trạng
âu trước phẫu thuật và một số yếu tố liên quan của người bệnh gãy xương
chi tại khoa Chấn thương Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên” nhằm mục
tiêu:
1. Đánh giá tình trạng lo âu trước phẫu thuật của người bệnh gãy xương chi
tại khoa Chấn thương Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu trước phẫu thuật
của người bệnh.


4
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về phẫu thuật gãy xương
1.1.1. Khái niệm phẫu thuật và phẫu thuật gãy xương
Phẫu thuật là các thủ thuật dùng trong ngoại khoa để chữa bệnh hoặc chẩn
đốn bệnh. Ngồi ra cịn mục đích tìm tịi trên cơ sở khoa học những phương
pháp và kỹ thuật mổ mới để giải quyết các yêu cầu chữa bệnh ngày một cao
hơn.15
Phẫu thuật được phân theo nhiều loại khác nhau, nó có thể được chia đơn
giản thành hai loại là phẫu thuật và tiểu phẫu. Tuy nhiên, với nhiều tác giả thì
tiêu chuẩn để phân loại cũng đa dạng. Đại phẫu có thể được xác định dựa trên
các cơ quan được thực hiện phẫu thuật hoặc nó có thể được phân loại dựa trên
tình trạng của người bệnh, mức độ khó khăn của phẫu thuật, độ dài của thời
gian để thực hiện, tạo thành mối nguy hiểm đối với sự sống hoặc chức năng
của một cơ quan hoặc mô. Mặt khác, tất cả các quy trình phẫu thuật yêu cầu
chung gây mê (GA) được coi là phẫu thuật lớn.16
Ngược lại, tiểu phẫu là bất kỳ quy trình phẫu thuật nào có thể được thực

hiện trong một khoảng thời gian ngắn, thường dưới một giờ với gây tê tại chỗ,
mà không tạo thành mối nguy hiểm lớn đối với sự sống hoặc chức năng của
các cơ quan hoặc cơ thể, hoặc là những hoạt động không cần gây mê.16
Phẫu thuật kết hợp xương là kỹ thuật sử dụng các thiết bị cấy ghép hiện
đại như đinh, nẹp vis … để cố định đầu xương gãy sau khi được nắn chỉnh về
tư thế giải phẫu. Kết hợp xương có thể mổ mở hoặc nội soi nhằm mục đích cố
định vững chắc ổ gãy xương, giúp người bệnh tập vận động phục hồi chức
năng sớm, thúc đẩy xương liền nhanh và người bệnh sớm quay trở lại hoạt
động sinh hoạt bình thường.17
1.1.2. Các phương pháp kết hợp xương
Các phương pháp kết hợp xương gồm: Kết hợp xương bên trong và kết
hợp xương bằng khung cố định ngoài. Kết hợp xương bên trong có 2 phương


5
pháp là gồm kết hợp xương bằng nẹp vít và kết hợp xương bằng đinh nội tủy.
Mỗi phương pháp có đặc điểm riêng, được chỉ định tùy từng trường hợp cụ
thể.


Phương pháp kết hợp xương bên trong
- Kết hợp xương bằng nẹp vít: Phương pháp này được chỉ định áp dụng

cho các trường hợp bị gãy ở đầu xương, gãy xương phạm khớp, gãy nát nhiều
tầng thân xương, không thể đóng đinh nội tủy có bắt chốt ngang được.
- Kết hợp xương bằng đinh nội tủy: Bác sĩ sẽ thực hiện đóng đinh nội tủy
Kuntscher, đinh Rush (áp dụng cho xương gãy vững) hoặc đinh nội tủy có
chốt

Kết hợp xương bằng khung cố định ngoài: Phương pháp này chủ yếu áp

dụng cho người bệnh gãy xương hở từ độ IIIA trở đi, gãy xương hở không
được cấp cứu kịp thời, gãy xương hở có biểu hiện nhiễm khuẩn hoặc gãy
xương kín nhưng tình trạng phần mềm xấu
Nghiên cứu này coi phẫu thuật gãy xương là các phẫu thuật kết hợp
xương trên hệ thống xương của các chi thể với gây mê toàn thân hoặc gây tê
vùng như gây tê đám rối thần kinh hay gây tê tủy sống.
1.1.3. Dịch tễ về phẫu thuật gãy xương
Phẫu thuật kết hợp xương là loại phẫu thuật phổ biến trong các phẫu
thuật nói chung, các tổn thương do sang chấn về hệ thống xương khớp là lý
do chính cho phẫu thuật gãy xương. Tại Hoa Kỳ, số lượng người bệnh cần
phẫu thuật trên hệ thống xương ngày càng tăng và đứng ở vị trí thứ ba trong
xếp hạng của tất cả các hoạt động phẫu thuật.18
Tại Rwanda, phẫu thuật chỉnh hình là một trong những phẫu thuật thực
hiện sau chấn thương, chiếm 26% trong tổng số các ca phẫu thuật.19
Theo thống kê của Bệnh viện Việt Đức năm 2019, số ca phẫu thuật gãy
xương chiếm khoảng 40% trong tổng số phẫu thuật tại bệnh viện. Tương tự,


6
tại Thái Nguyên năm 2019, số ca phẫu thuật gãy xương đứng thứ ba trong các
loại phẫu thuật tại bệnh viện.
1.2. Khái niệm về sự lo âu
1.2.1. Định nghĩa của sự lo âu
Trải nghiệm lo âu là hiện tượng tâm lý mà hầu hết con người từng trải
qua trong cuộc sống của mình, là phản ứng bình thường của con người khi họ
gặp phải các tình huống gây căng thẳng.
Theo Fortinash và Worret (2008), lo âu là một trạng thái của sự sợ hãi,
căng thẳng về những điều sắp xảy ra, nó đến từ những ảnh hưởng của mơi
trường bên ngồi có nguy cơ áp đảo cá nhân.20
Lo âu cịn được định nghĩa là một cảm giác sợ hãi, khó chịu, sự không

chắc chắn hoặc căng thẳng do một mối đe dọa thực sự hoặc nhận thức được
mối đe dọa mà nguồn gốc thực sự của nó là khơng rõ ràng. Lo âu có thể được
phân thành bốn cấp độ: Nhẹ, trung bình, nặng và hoảng loạn. Lo âu nhẹ xảy
ra trong trải nghiệm cuộc sống bình thường hàng ngày và là tích cực bởi vì nó
thúc đẩy một cá nhân giải quyết vấn đề hiệu quả hơn. Tại mức độ này, một
người có thể biểu hiện các triệu chứng thực thể như khó chịu nhẹ, bồn chồn,
hay cáu gắt. Lo âu vừa phải, ở mức độ này nhận thức của con người rất dễ bị
thu hẹp, khả năng suy nghĩ mạch lạc bị hạn chế, nhưng học tập và giải quyết
vấn đề vẫn có thể diễn ra, mặc dù khơng ở mức tối ưu. Thể chất có thể có
những biến đổi như tim đập mạnh, đau đầu và đau dạ dày. Ở mức độ lo âu
nặng và nghiêm trọng, người bệnh chỉ tập trung vào một chi tiết cụ thể và gặp
khó khăn trong việc nhận thức về những gì đang xảy ra xung quanh mình.
Người bị lo âu nghiêm trọng có thể có biểu hiện khó thở, chống váng, bối rối
hoặc không thể giải quyết các vấn đề. Mức độ hoảng loạn là hình thức cực
đoan nhất và có thể dẫn đến rối loạn hành vi. Con người khơng thể nhận ra
những gì đang xảy ra quanh mình, anh ta có thể biểu hiện nhầm lẫn, hoảng
loạn, la hét. Hành vi của anh ta có thể là khơng phối hợp và bốc đồng. Lúc


7
này, hành vi tự giảm bớt lo âu khơng có hiệu quả và lo âu hoảng loạn cấp tính
có thể dẫn đến kiệt sức.21
Từ những điều trên có thể kết luận rằng, lo âu là một hiện tượng tâm lý
phổ biến, là một cảm giác chủ quan của một cá nhân về sự không thoải mái,
sự sợ hãi và mối đe dọa mà chỉ cá nhân đó có thể định nghĩa và cảm nhận
được. Do đó, nó có thể khiến một người đau khổ cả về thể chất và tâm lý.
1.2.2. Sinh lý bệnh của sự lo âu
Nguyên nhân của rối loạn lo âu chưa được biết rõ. Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng, bệnh có thể liên quan đến các chất hoá học trong não thường gọi là
các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, GABA (gamma-aminobutyric

acid) và norepinephrine. Tuy nhiên, nguyên nhân có thể là một sự phối hợp
của nhiều yếu tố như: Yếu tố sinh học, yếu tố di truyền, môi trường sống và
nhân cách. Nhiều người bệnh cho rằng những nỗi lo âu của họ bắt đầu từ thời
thơ ấu, nhưng chúng cũng vẫn có thể xảy ra ở lúc trưởng thành.22
Khi con người nhận thức được những mối đe dọa, những tác động từ môi
trường bên ngoài lên bản thân, họ sẽ nảy sinh một cơ chế bảo vệ bản thân
khỏi những mối đe dọa đó gọi là hội chứng thích ứng chung.
Hội chứng thích ứng chung xảy ra trong ba giai đoạn bao gồm giai đoạn
báo động, giai đoạn phản ứng và giai đoạn kiệt sức.20
+ Đối với giai đoạn báo động, tuyến thượng thận giải phóng các
hormone chuẩn bị cho cơ thể đối phó với sự kiện căng thẳng mà cá nhân đang
phải đối mặt. Nồng độ hormone thay đổi: Tăng hormone tuyến thượng thận,
cortisol, aldosterone, hormone chống bài niệu (ADH), epinephrine và
norepinephrine dẫn đến tăng thể tích máu, tăng đường huyết … và tăng mức
độ kích thích.
+ Đối với giai đoạn phản ứng, cơ thể duy trì các phản ứng bảo vệ của nó
đối với tác nhân gây căng thẳng. Khi tình huống đe dọa giảm bớt hay ổn định,
cơ thể phục hồi trạng thái thể chất bình thường, mức độ hormone trở lại bình


8
thường, hoạt động của hệ thần kinh phó giao cảm thích nghi với các yếu tố
gây căng thẳng.
+ Đối với giai đoạn kiệt sức, cơ thể khơng cịn có thể hoạt động ở trạng
thái tích cực. Kiệt sức xảy ra khi mức độ căng thẳng kéo dài và cơ chế phịng
thủ của cơ thể yếu dần. Giai đoạn này có thể là tăng phản ứng sinh lý hoặc
giảm thích ứng sinh lý và thậm chí tử vong.
1.3. Mức độ phổ biến của lo âu
1.3.1. Lo âu trong cộng đồng
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng lo âu đã và đang trở thành vấn đề sức

khỏe đáng quan tâm khi nó xuất hiện không liên quan tới một sự đe dọa nào
hoặc mức độ lo âu không cân xứng với vấn đề đe dọa và tồn tại kéo dài.
Tỷ lệ rối loạn lo âu trên toàn thế giới thay đổi từ 2,5 đến 7% tùy theo
từng quốc gia. Trên toàn cầu, ước tính có tới 284 triệu người mắc chứng rối
loạn lo âu trong năm 2017, khiến nó trở thành bệnh rối loạn thần kinh phổ
biến nhất, trong đó có 63% là nữ và 37% là nam.23
Tại Hoa Kỳ, ước tính trong năm 2017 có khoảng 19,1% người Hoa Kỳ
trưởng thành bị rối loạn lo âu và 31,1% người trưởng thành Hoa Kỳ gặp bất
kỳ rối loạn lo âu tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ.24
Tại Việt Nam, tỷ lệ người dân có rối loạn lo âu cũng khá phổ biến. Theo
Bệnh viện Tâm thần Trung ương I, tỷ lệ mắc 10 chứng rối loạn tâm thần phổ
biến trong năm 2014 là 14,2%, rối loạn lo âu cũng là một dạng trong số đó. 25
Một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương (2008) cho thấy tỷ lệ
rối loạn lo âu của học sinh trung học phổ thơng chun Quảng Bình là
21,6%.26
1.3.2. Lo âu của người bệnh nằm điều trị trong bệnh viện
Bệnh tật là một sự cố khơng mong muốn, vì vậy khi mắc bệnh ai cũng bị
tác động về tâm lý, mức độ tác động về tâm lý phụ thuộc vào tính chất của
bệnh nặng hay nhẹ, sự quan tâm của thầy thuốc và điều dưỡng nhiều hay ít.


9
Trạng thái tâm lý người bệnh và trạng thái bệnh thực thể có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Cơ sở sinh lý của trạng thái tâm lý là các hệ thống chức
năng cơ động của phức hợp các tế bào thần kinh có hoạt động thống nhất theo
nguyên tắc ưu thế. Những trạng thái này được giới hạn trong những chức năng
nhất định và tồn tại trong một thời gian dài sau khi các tác động từ môi trường
gây ra nó khơng cịn tác động. Khi có kích thích, não đáp ứng trở lại. Song
cũng có khi não khơng đáp ứng trong một thời gian dài đối với kích thích (như
trong phản xạ cụt). Ngược lại, có những xung động thần kinh tự nhiên xuất

hiện, không do bất kỳ một kích thích nào tác động vào giác quan. Những dạng
hoạt động này của hệ thần kinh tạo nên cơ sở sinh lý của trạng thái tâm lý
người bệnh.27
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý người bệnh như đặc
điểm các giai đoạn phát triển, đặc điểm bệnh tật, đặc điểm nhân cách, các yếu
tố môi trường và tình huống như: Xa người thân trong gia đình, sinh hoạt
không thuận tiện như ở nhà; phải nằm chung phịng với nhiều người bệnh
khác nhau, thậm chí là phải nằm ghép; nhiều mùi đặc biệt: Thuốc tẩy rửa,
thuốc tiêm, thuốc uống, dùng chung quần áo, chăn màn với nhiều người bệnh;
tiếp xúc với nhiều người hỏi bệnh, thăm khám: Bác sỹ, Điều dưỡng, nhân
viên y tế khác, học sinh, sinh viên; Chi phí tốn kém mà bản thân khơng làm ra
tiền; phải làm nhiều các xét nghiệm: X quang, máu, nước tiểu…; sợ lây nhiễm
các bệnh khác từ bệnh viện; lo sợ khơng biết có chữa khỏi bệnh khơng?
1.3.3. Lo âu của người bệnh gãy xương
Lo âu do gãy xương gây ra thường nằm ngồi tầm kiểm sốt của người
bệnh và có thể gây ra bất ổn về thể chất và tâm lý. 28 Lo âu của người bệnh gãy
xương có thể liên quan đến những vùng tổn thương khác nhau trên cơ thể,
chẳng hạn như mối đe dọa cơ bản đối với tính tồn vẹn của các bộ phận cơ
thể, khả năng biến dạng cơ thể và họ có thể lo lắng về tình trạng sức khỏe sẽ
khơng còn được như trước chấn thương.29 Họ thường lo sợ có bị tàn phế


10
khơng, bệnh có khỏi khơng, có xảy ra những tai biến gì trong quá trình phẫu
thuật, lo sợ trình độ chun mơn của phẫu thuật viên có giỏi khơng, có để lại
di chứng không...9
Theo Ryamukuru, D. và cộng sự. (2019) đã chỉ ra rằng những người
bệnh chấn thương có mức độ lo âu trước phẫu thuật cao hơn những người
bệnh sản khoa. Trong thời gian chờ phẫu thuật, người bệnh chấn thương có
khả năng lo âu cao gấp 10 lần những người bệnh phẫu thuật khác, tỷ lệ lo âu

trước phẫu thuật ở người bệnh đang chờ phẫu thuật chấn thương là
87,5%.5 Nhiều người bệnh chấn thương phải đối mặt với những thách thức về
tâm lý cũng như thể chất, giảm khả năng vận động và sự phục hồi chậm sau
phẫu thuật.30 Hơn nữa, phẫu thuật có thể liên quan đến cắt bỏ cơ quan bị tổn
thương hoặc cấy ghép hoặc ảnh hưởng bởi thiết bị cố định xương bên ngồi.
Ngồi ra, trong q trình điều trị, người bệnh có thể có nhiều biến chứng bao
gồm giảm các hoạt động của cuộc sống hàng ngày, suy yếu và dị tật. 31,32 Yếu
tố này gợi ý rằng những người bệnh chờ phẫu thuật chỉnh hình cần được chú
ý nhiều hơn, chẳng hạn như cung cấp nhiều thông tin hơn về quá trình phẫu
thuật và lắng nghe tâm tư của họ tích cực hơn để làm giảm lo âu trước phẫu
thuật.5
Vì vậy, vai trò của người thầy thuốc và Điều dưỡng khoa ngoại là hết sức
quan trọng, tùy theo từng trường hợp người bệnh mà cần có những tác động
tâm lý phù hợp.
1.3.4. Lo âu của người bệnh trước phẫu thuật
Đối với phẫu thuật, thái độ của người bệnh hoặc là quá lo sợ (sợ biến
chứng, sợ chết), hoặc là không tin tưởng vào bác sĩ, vào chẩn đoán, vào kết
quả phẫu thuật… Cũng có người phủ nhận tình trạng bệnh tật, che giấu triệu
chứng, khơng thích mổ; cũng có người bệnh quá lạc quan, cho rằng sau mổ là
mình khỏi bệnh hoàn toàn…


11
Sự biến đổi tâm lý của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào các giai đoạn
phẫu thuật. Khi chuẩn bị phẫu thuật, người bệnh hay lo âu về chỗ nằm trước
và sau phẫu thuật; quan tâm đến những lời bàn tán về trình độ của bác sĩ phẫu
thuật, về cách phẫu thuật và những điều khác liên quan đến cuộc phẫu thuật.
Aust, H. (2016) cho rằng, sự lo âu trong thời kỳ trước phẫu thuật là một
cảm xúc bình thường trong trải nghiệm phẫu thuật. Tuy nhiên, mỗi người bệnh
lại có những thể hiện cảm xúc này khác nhau.33 Càng gần tới ngày phẫu thuật,

mức độ lo âu càng tăng và đạt mức cao nhất trong khoảng 24 giờ trước khi phẫu
thuật.34
Theo Mitchell. (2013), có tới 82,4% người bệnh đã lo âu trong vài ngày
hoặc vài giờ trước khi phẫu thuật, 35 tỷ lệ lo âu trước phẫu thuật cao là tình
trạng phổ biến ở người bệnh trưởng thành và người bệnh được lên lịch phẫu
thuật.36,37
Lo âu trước phẫu thuật được nhiều nghiên cứu mô tả là một trạng thái
căng thẳng, khó chịu hoặc sợ hãi thơng qua nhiều ngun nhân: Thời gian chờ
được phẫu thuật dài, sự thiếu thông tin về bệnh, sợ đau, sợ biến chứng, sợ
biến dạng cơ thể, sợ chết, sợ thay đổi lối sống sau mổ… và chăm sóc điều
dưỡng khơng đầy đủ.9,38,39
Đầu tiên, thời gian chờ đợi trước phẫu thuật được coi như là một tác
nhân gây lo âu. Một thời gian dài để chờ đợi cuộc phẫu thuật với ít thơng tin
có thể góp phần gây căng thẳng bằng cách cung cấp thời gian để người bệnh
suy nghĩ và lo âu về cuộc phẫu thuật sắp tới. 40 Người bệnh cảm nhận thấy
ngày trước phẫu thuật là ngày dài nhất và đe dọa nhất trong cuộc đời họ.41
Một số người bệnh nói rằng họ không nhận được thông tin hoặc được cung
cấp không đầy đủ về bệnh, về cách thức phẫu thuật, phương pháp gây mê và
sự giải thích khơng rõ ràng từ nhân viên y tế.42
Thứ hai, người bệnh có thể sợ đau, sợ các tai biến và sợ chết. 43 Một
nghiên cứu của Ebirim & Tobin năm 2011 chỉ ra rằng: Có 64% người bệnh


12
phẫu thuật sợ những tai biến có thể xảy ra trong q trình phẫu thuật và
58,4% người bệnh sợ khơng tỉnh dậy sau phẫu thuật.2
Thứ ba, người bệnh sợ biến dạng cơ thể, sợ thay đổi lối sống. Theo một
nghiên cứu của Matthias và Samarasekera (2012), hầu hết người bệnh sợ kết
quả của phẫu thuật làm biến dạng cơ thể và đau sau phẫu thuật, nguyên nhân
chủ yếu là do thiếu thơng tin thích hợp về phẫu thuật và gây mê.44

Ngồi ra, chăm sóc điều dưỡng khơng đầy đủ cũng có thể làm tăng mức
độ lo âu trước phẫu thuật của người bệnh. Một nghiên cứu của Jangland năm
2009 chỉ ra rằng, có một số người bệnh báo cáo: Các Điều dưỡng không cởi
mở với mối quan tâm của họ và đây là những lý do phổ biến nhất dẫn tới lo âu
trước phẫu thuật.45
1.4. Tác động của lo âu trước phẫu thuật
Lo âu trước phẫu thuật ảnh hưởng đến người bệnh một cách tồn diện
trên các khía cạnh bao gồm các tác động: Sinh lý, tâm lý và xã hội.
1.4.1. Tác động sinh lý
Giai đoạn trước phẫu thuật, người bệnh lo âu quá mức có thể có tăng các
cảm giác chạm, ngửi, nghe… hoặc thậm chí có thể khiến người bệnh cảm
thấy khơng khỏe và khó chịu hơn.46 Ngồi ra, lo âu q mức cịn có liên quan
đến các phản ứng sinh lý không thuận lợi như nhịp tim nhanh, tăng huyết áp,
rối loạn nhịp tim và giảm thông khí.47
Giai đoạn phẫu thuật, lo âu trước phẫu thuật có dẫn đến các vấn đề như
khó tiếp cận tĩnh mạch, nôn và ho khi gây mê và làm tăng liều thuốc gây mê.48
Ngoài ra, lo âu trước phẫu thuật làm tăng giải phóng epinephrine vào tuần
hồn gây co thắt mạch máu, tăng nhịp tim và lực co bóp, tăng huyết áp, giãn
mao mạch, tăng thân nhiệt và đổ mồ hôi dẫn đến tăng nguy cơ mất máu và
mất nước trong phẫu thuật.49
Giai đoạn hậu phẫu, theo Ramos (2008) những người bệnh có mức độ lo
âu cao trước phẫu thuật sẽ phục hồi khó khăn hơn và đau sau phẫu thuật nhiều


13
hơn. Hơn nữa, những cảm xúc tiêu cực như lo âu có thể ảnh hưởng đến các
hoạt động điều hịa miễn dịch, gây ra rối loạn giấc ngủ và dinh dưỡng kém. 50
Rối loạn giấc ngủ và giảm hoạt động dinh dưỡng có thể góp phần thay đổi hệ
thống miễn dịch và có liên quan đến việc chậm lành vết thương hơn.6,7
Tóm lại, mức độ lo âu trước phẫu thuật có thể gây ra một số tác động

sinh lý làm ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả phẫu thuật, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh
và tử vong,51 cũng như cần phải tăng liều gây mê và tăng thuốc giảm đau sau
phẫu thuật,28 liên quan đến thời gian nằm viện lâu hơn. 52 Lo âu trước phẫu
thuật cũng đóng một vai trò trong việc tăng nguy cơ nhiễm trùng.45
1.4.2. Tác động tâm lý
Về mặt tâm lý, lo âu trước phẫu thuật có thể thay đổi cách suy nghĩ, cảm
nhận và hành động của một cá nhân. Những cảm xúc tiêu cực như lo âu có thể
ảnh hưởng đến các hành vi điều hòa miễn dịch, gây ra rối loạn giấc ngủ, dinh
dưỡng kém và giảm vận động.53 Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định có mối
liên hệ đáng tin cậy giữa lo âu trước phẫu thuật và tâm trạng sau phẫu
thuật.49,28
Hơn nữa, sự lo âu trước phẫu thuật có thể làm giảm sự hài lòng của
người bệnh.8,54,55 Mức độ lo âu trước phẫu thuật thấp hơn có liên quan đến sự
hài lòng cao hơn.4,34,56
1.4.3. Tác động xã hội
Lo âu trước phẫu thuật có thể làm tăng các rủi ro liên quan đến phẫu
thuật, bao gồm: Sự chậm lành vết thương hơn,57 thời gian nằm viện lâu hơn.52
Những tác động tiêu cực này có thể làm tăng chi phí điều trị và có thể trở
thành gánh nặng kinh tế cho người bệnh và gia đình của họ.8,58
1.5. Hành vi tìm kiếm hỗ trợ của người bệnh có lo âu trước phẫu thuật
Phản ứng đầu tiên của con người khi trải nghiệm tình huống là đánh giá
xác định xem tình huống đó có gây căng thẳng hay khơng. Tiếp theo đó là
đánh giá để đưa đến lựa chọn một giải pháp ứng phó hiệu quả với căng thẳng.


14
Nếu người bệnh khơng thể tự ứng phó hiệu quả với các tình huống gây căng
thẳng, họ sẽ có xu hướng tìm kiếm sự hỗ trợ từ người thân, bạn bè, đồng
nghiệp hoặc các chuyên gia để ứng phó với sự căng thẳng này, sự hỗ trợ này
được gọi là sự hỗ trợ xã hội.59

Hỗ trợ xã hội được coi là một yếu tố quan trọng trong việc chăm sóc sức
khỏe cá nhân, bao gồm cả hỗ trợ hữu hình và vơ hình. Hỗ trợ xã hội là sự
tương tác có chủ ý của con người, bao gồm một hoặc nhiều điều sau: sự ảnh
hưởng, sự khẳng định và sự viện trợ (đồ vật, tiền bạc, thời gian để giúp đỡ ai
đó).
Theo McDowell. (2006), hỗ trợ xã hội được coi là nguồn lực sự sẵn có
từ những người xung quanh mà cá nhân anh ta có thể tin cậy, dựa vào và cảm
thấy được chăm sóc. Theo quan điểm này, hỗ trợ xã hội được coi là kết nối
đối ứng giữa các cá nhân, các mối quan hệ tự nó mang lại hỗ trợ tích cực cho
hành vi và ngược lại.60
Mối quan hệ giữa nhân viên y tế với người bệnh là mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa nhân cách với nhân cách. Yêu cầu đặt ra cho nhân
viên y tế là điều trị nhanh, an toàn và làm vừa lịng người bệnh. Vì vậy, nhân
viên y tế cần tiến hành tâm lý liệu pháp, hướng dẫn vệ sinh tâm lý, dự phòng
các bệnh tâm thần cho người bệnh và giúp họ khắc phục các yếu tố gây stress,
tránh những gánh nặng tâm lý trong khám, chữa bệnh cũng như trong quá
trình hồi phục sức khỏe.27
Vì nghiên cứu này nghiên cứu trên những người bệnh trước khi trải qua
phẫu thuật, người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào các nhân viên y tế. Do đó, bên
cạnh những người thân trong gia đình thì nhân viên y tế cũng là nguồn hỗ trợ
rất quan trọng cho người bệnh. Sự hỗ trợ xã hội mà trong nghiên cứu này đề
cập đến được coi là cả hỗ trợ vơ hình (hỗ trợ cảm xúc) và hỗ trợ hữu hình (trợ
giúp thực tế hoặc trợ giúp thông tin) mà người bệnh được nhận từ người thân
và nhân viên y tế.


15
1.6. Học thuyết về quản lý căng thẳng
Theo học thuyết giao dịch và ứng phó căng thẳng được phát triển bởi
Lazarus và Folkman (1984), căng thẳng sẽ không phải là một sự căng thẳng

nếu con người ta không nhận thức nó là một mối đe dọa mà là một sự tích cực
hoặc thậm chí là một thách thức. Nếu cá nhân đó sở hữu hoặc có thể sử dụng
các kỹ năng đối phó phù hợp, thì căng thẳng có thể không thực sự là kết quả
hoặc phát triển thành sự căng thẳng.59
Học thuyết giao dịch và ứng phó căng thẳng của Lazarus và Folkman
(1984) cũng thảo luận về mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng (yếu tố cá
nhân và yếu tố tình huống) đối với yếu tố căng thẳng thơng qua sự thẩm định,
ứng phó và kết quả của mối quan hệ đó. Các yếu tố cá nhân là cảm giác, niềm
tin kiểm soát các sự kiện và đặc điểm tính cách. Các yếu tố tình huống bao
gồm các sự kiện khơng thể đốn trước, sự khơng chắc chắn của các sự kiện,
thời gian của các sự kiện và sự mơ hồ của các sự kiện. Thẩm định đầu tiên là
quá trình đánh giá sự kiện gây căng thẳng, tiếp theo là sự đánh giá thứ cấp về
các nguồn lực đối phó có sẵn. Ứng phó là những cố gắng thay đổi về nhận
thức và hành vi để giải quyết những tác động từ bên trong hoặc bên ngồi. Và
cuối cùng, kết quả là sự căng thẳng có thể khơng thực sự là căng thẳng hoặc
có thể phát triển thành sự căng thẳng khi cá nhân đó khơng thể ứng phó với
tác nhân gây căng thẳng.59
1.7. Các yếu tố liên quan đến lo âu trước phẫu thuật
Theo nghiên cứu tài liệu, lo âu trước phẫu thuật có thể tác động xấu đến
tất cả các khía cạnh tâm lý, sinh lý và xã hội của người bệnh trước, trong và
sau phẫu thuật. Việc kiểm tra mức độ lo âu trước phẫu thuật cũng như các yếu
tố liên quan có thể làm thay đổi trải nghiệm lo âu trước phẫu thuật của từng cá
nhân, giúp người bệnh giảm lo âu trước khi phẫu thuật.
Theo Lazarus & Folkman (1984) các yếu tố gây căng thẳng bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau và được phân loại thành hai loại, đó là yếu


16
tố cá nhân và yếu tố tình huống. Yếu tố cá nhân đó là đặc điểm tính cách, cảm
xúc, niềm tin kiểm sốt các sự kiện. Các yếu tố tình huống bao gồm những sự

kiện khơng thể đốn trước được, sự không chắc chắn của sự kiện, thời gian
của sự kiện và sự mơ hồ của các sự kiện.59
1.7.1. Các yếu tố cá nhân
* Đặc điểm về nhân khẩu
Các yếu tố về nhân khẩu học đã được điều tra rộng rãi. Tuy nhiên, mức
độ ảnh hưởng của nó đến lo âu trước phẫu thuật vẫn cịn tranh luận. Ví dụ như
trong một nghiên cứu về lo âu trước phẫu ở Thổ Nhĩ Kỳ (2011), kết quả cho
thấy điểm lo âu được tìm thấy ở nữ cao hơn nam, khơng có mối liên hệ giữa
tuổi tác với điểm số lo âu, những cá nhân có trình độ học vấn cao có thể ước
tính chính xác nguy cơ phẫu thuật hơn.53 Hơn nữa, Mohd, Z.F (2015) cũng chỉ
ra là có sự khác nhau về mối tương quan giữa giới tính và lo lắng.61
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác lại cho thấy: Khơng có mối liên quan
đáng kể nào được quan sát giữa trạng thái lo âu trước phẫu thuật và giới tính,
tuổi tác, nơi cư trú.41,62 Cũng theo Nigussie, S (2014), mức độ giáo dục khơng
có liên quan đến mức độ lo âu, nhưng mức độ lo âu cao hơn đáng kể ở những
người độc thân và ly dị.41
Trái ngược với điều này, Ebirim, L.N. (2011) và Jafar, M.F. (2009) cho
rằng, tỷ lệ những người tham gia có lo âu trước phẫu thuật dường như tăng
theo mức độ giáo dục và giảm dần theo tuổi, khi tuổi càng cao, tần suất lo âu
càng giảm.2,63 Một nghiên cứu của Cevik Banu, (2018) về mức độ lo âu và các
yếu tố quyết định ở người bệnh trước phẫu thuật cho thấy: Tuổi, tình trạng
nghề nghiệp, tình trạng hơn nhân và trình độ học vấn không là yếu tố quyết
định lên mức độ lo âu trước phẫu thuật.64
* Đặc điểm bệnh tật
Sự tác động của đặc điểm bệnh tật lên mức độ lo âu cũng có nhiều tranh
luận. Theo nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm trước đó của một người về phẫu


17
thuật là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ lo âu trước

phẫu thuật. Homzová P, (2015); Matthias AT, (2012);  Nishimori, M (2002) và
Jlala, H (2010) đã chỉ ra rằng, người bệnh có kinh nghiệm phẫu thuật trước đó
sẽ ít lo lâu hơn so với người bệnh phẫu thuật lần đầu tiên.1,44,65,66
Ryamukuru, D. và cộng sự (2019), cũng đã chỉ ra rằng có mối liên quan
giữa chẩn đoán bệnh và mức độ lo âu trước phẫu thuật, những người bệnh bị
chấn thương có mức độ lo âu trước  phẫu thuật cao hơn những người bệnh với
các chẩn đoán y tế khác.5
Trái ngược với điều này, Nigussie, S (2014) và Saini S, D.M. (2016)
nghiên cứu về sự lo âu trước phẫu thuật cho thấy: kinh nghiệm phẫu thuật
trước đó khơng có mối liên quan đáng kể nào với mức độ lo âu.41,67
Thời gian chờ phẫu thuật là số ngày người bệnh phải chờ để được phẫu
thuật. Thời gian chờ đợi trong giai đoạn tiền phẫu thuật có thể góp phần gây
căng thẳng bằng cách cung cấp thời gian để người bệnh suy nghĩ và lo lắng về
thủ tục sắp tới.68 Hernandez, P.J (2015), đã mô tả các vấn đề chịu trách nhiệm
cho sự lo âu trước phẫu thuật của người bệnh, kết quả chỉ ra rằng vấn đề lo âu
phổ biến nhất là chờ phẫu thuật.10 Tương tự, một nghiên cứu của Masood và
cộng sự (2009) cũng cho thấy thời gian chờ đợi của phẫu thuật là yếu tố quan
trọng chịu trách nhiệm làm tăng sự lo âu trước phẫu thuật.69
Mức độ đau trước phẫu thuật cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự lo âu của
người bệnh. Theo hiệp hội Quốc tế nghiên cứu về đau (IASP) định nghĩa: Đau
là một tình trạng khó chịu về mặt cảm giác lẫn xúc cảm do tổn thương ở các
mô gây nên và phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tổn thương ấy. 70 Đau chưa
được điều trị có thể dẫn đến việc khơng tn thủ điều trị, chăm sóc và tăng
nguy cơ rối loạn lo âu.71 Một nghiên cứu tại Croatia, (2006) đã chỉ ra rằng
mức độ lo âu và trầm cảm của người bệnh bỏng có tương quan thuận với số
điểm đau.72
* Các vấn đề lo âu


18

Mỗi người bệnh khác nhau sẽ có những vấn đề lo âu khác nhau, nó tùy
thuộc vào các kinh nghiệm bệnh tật trước đó cũng như niềm tin vào trình độ
chuyên môn đối với nhân viên y tế hay điều kiện kinh tế của bản thân… Theo
Celik, F.(2018), lo âu phổ biến đối với người bệnh trước phẫu thuật là: Sợ
chết, sợ đau, sợ bị tàn tật vĩnh viễn, sợ thay đổi lối sống sau phẫu thuật, sợ chi
phí điều trị cao, sợ lây nhiễm các bệnh khác.44,73 Một nghiên cứu của
Mulugeta, H. và cộng sự (2018) chỉ ra rằng, yếu tố chịu trách nhiệm cho sự lo
âu trước phẫu thuật là sợ hãi xảy ra các biến chứng 52,4%, mối quan tâm về
gia đình 50,4%, sợ đau sau phẫu thuật 50,1% và sợ chết là 48,2%.9
Theo Hernandez, P.J. (2015) và Nigussie, S. (2014), các yếu tố phổ biến
nhất khiến người bệnh phải chịu đựng sự lo âu là sợ chết, sợ tổn thất tài chính
và kết quả phẫu thuật gây tàn tật vĩnh viễn, khơng biết chuyện gì đang xảy ra
trong khi phẫu thuật, đau sau phẫu thuật, tỉnh dậy trong khi gây mê và không
tỉnh dậy sau khi gây mê.10,41
Theo kết quả khảo sát tâm lý người bệnh trước phẫu thuật của BVĐK
Định Quán (2015), tỉ lệ người bệnh lo sợ đau là 82,5%, sợ không đủ tiền
48,8%, sợ bị lây nhiễm bệnh khác là 65,6%, sợ rủi ro trong khi phẫu thuật là
63%.74
1.7.2. Các yếu tố tình huống
* Sự thiếu thông tin về bệnh
Sự thiếu thông tin về bệnh và phẫu thuật là tình trạng người bệnh có thể
khơng biết hoặc biết khơng rõ ràng về tình trạng bệnh, quá trình phẫu thuật,
điều trị và các hệ thống chăm sóc. Khi người bệnh chờ đợi phẫu thuật với
lượng thông tin không phù hợp sẽ khiến người bệnh càng cảm thấy lo âu.
Trên thế giới đã có nhiều bằng chứng chứng minh thơng tin trước phẫu thuật
có vai trò quan trọng giúp làm giảm sự lo lắng khi phẫu thuật.75
Một nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, những người bệnh được
thơng báo rõ về quy trình phẫu thuật có ít lo âu trước phẫu thuật hơn so với



19
những người khơng biết về thủ thuật. 76 Ngồi ra, một nghiên cứu của
Eberhardt và cộng sự (2006) cho thấy rằng khi người bệnh nhận được hỗ trợ
thông tin rõ ràng từ chuyên gia chăm sóc sức khỏe, sự lo lắng của họ đã giảm
bớt.77
Một nghiên cứu khác về sự lo âu trước phẫu thuật của những người bệnh
phẫu thuật tại Bệnh viện Đại học Jimma, Tây Nam Ethiopia, kết quả chỉ ra
rằng: Có một mối tương quan nghịch giữa điểm lo âu trước phẫu thuật và
cung cấp thông tin trước phẫu thuật.41
* Sự hỗ trợ xã hội
Các nguồn hỗ trợ xã hội cho người bệnh phẫu thuật có thể là cả người
thân và nhân viên y tế. Trong hầu hết các trường hợp, vợ/chồng, con cái và
bạn bè là người hỗ trợ cho người bệnh. Ngoài ra, một số người bệnh xác định
nhân viên y tế là một phần của nhóm hỗ trợ. 78 Nhiều nghiên cứu đã khẳng
định tầm quan trọng của sự hỗ trợ từ những người khác đối với việc giúp đỡ
người bệnh đối diện với phẫu thuật, người bệnh nhấn mạnh vai trò của nhân
viên y tế là nguồn hỗ trợ hữu ích.79
Krohne, H.W, (2005) đã chứng minh rằng những người bệnh đạt điểm
cao về hỗ trợ xã hội cho thấy ít lo âu hơn, ít phải dùng thuốc giảm đau hơn và
thời gian nằm viện ngắn hơn so với những người bệnh có hỗ trợ thấp.80 Một
nghiên cứu của Sharma, S. (2019). đã chỉ ra rằng: Khi hỗ trợ xã hội tăng lên
thì lo âu trước phẫu thuật giảm.81
1.8. Khung nghiên cứu
Theo nghiên cứu các tài liệu về lo âu trước phẫu thuật và mơ hình giao
dịch – ứng phó căng thẳng của Lazarus & Folkman. (1984), yếu tố lo âu trước
phẫu thuật trong nghiên cứu này được coi là kết quả và có thể bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố cá nhân và yếu tố tình huống. Để có một cơ sở lý thuyết phù
hợp cho nghiên cứu về các yếu tố tác động đến mức độ lo âu trước phẫu thuật,
chúng tôi sử dụng mơ hình giao dịch – ứng phó căng thẳng của Lazarus &



20
Folkman. (1984), để khái niệm hóa mối quan hệ giữa các biến trong nghiên
cứu hiện tại.
Do đó trong nghiên cứu này, các đặc điểm nhân khẩu học; đặc điểm bệnh
tật; thông tin nhận được về bệnh tật và sự hỗ trợ xã hội là những yếu tố được
coi là yếu tố ảnh hưởng đến lo âu trước phẫu thuật. Trong đó, đặc điểm về
nhân khẩu học, đặc điểm bệnh tật thuộc về các yếu tố cá nhân; thông tin nhận
được về bệnh tật và sự hỗ trợ xã hội thuộc về yếu tố tình huống. Các lựa chọn
dựa trên đánh giá tài liệu và mơ hình giao dịch – ứng phó căng thẳng.59 Từ đó,
nghiên cứu này thử nghiệm các giả thuyết sau:
Giả thuyết 1: Có mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu của người bệnh
với tình trạng lo âu trước phẫu thuật.
Giả thuyết 2: Có mối liên quan giữa đặc điểm bệnh tật của người bệnh
với tình trạng lo âu trước phẫu thuật
Giả thuyết 3: Có mối liên quan giữa thơng tin nhận được về bệnh tật với
tình trạng lo âu trước phẫu thuật.
Giả thuyết 4: Có mối liên quan giữa sự hỗ trợ xã hội dành cho người
bệnh với tình trạng lo âu trước phẫu thuật.
Sự liên quan giữa các yếu tố với lo âu trước phẫu thuật có thể được mơ
hình hóa theo hình dưới đây:
Đặc điểm nhân khẩu

Sự hỗ trợ xã hội

Đặc điểm bệnh tật
Tình trạng lo âu
Thơng tin nhận được về
Hình 1.1: Sự liên quan giữa các yếu tố ảnh
hưởng

vớithuật
trước
phẫu
bệnh tật
tình trạng lo âu trước phẫu thuật
1.9. Một số công cụ đánh giá mức độ lo âu


21
Hiện nay đã có nhiều bộ cơng cụ được phát triển để đánh giá mức độ lo
âu được tiêu chuẩn hóa, có độ nhạy cao và có tính hiệu lực trong việc khảo sát
các triệu chứng, cũng như cho kết quả thu được đáng tin cậy. Các công cụ
đánh giá sự lo âu cho phép đánh giá ở nhiều mức độ khác nhau cũng như
trong các quần thể khác nhau. Một số công cụ đánh giá sự lo âu thường được
sử dụng đó là: Thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), thang đánh giá lo âu
của Beck (BAI), thang đánh giá lo âu trầm cảm của Zigmond và Snaith
(HADS)…
1.9.1. Thang tự đánh giá lo âu của Zung SAS. 82
Thang tự đánh giá lo âu SAS (Self-Rating Anxiety Scale) do W.W. Zung
(1971) đề xuất lấy thông tin trực tiếp từ người bệnh, là một test khách quan,
định lượng hóa và chuẩn hóa, sử dụng nhanh, được WHO thừa nhận là một
test đánh giá trạng thái lo âu.
Test gồm 20 câu hỏi dành cho người bệnh tự đánh giá theo thang điểm
Likert, mỗi mục được tính điểm từ 1 đến 4 theo tần số xuất hiện triệu chứng
theo thời gian. Tổng số điểm chuyển đổi cho 20 câu của thang đo trong
khoảng từ 20 đến 80 điểm.
1.9.2. Thang đo lo âu của Beck BAI.83
Thang đo lo âu BAI (Beck Anxiety Inventory) của Beck và đồng nghiệp
(1988) là công cụ tự báo cáo đo lường mức độ nghiêm trọng của sự lo âu ở
người lớn và thanh thiếu niên. BAI bao gồm 21 mục với 14 mục đánh giá các

triệu chứng cơ thể và bảy mục đánh giá các khía cạnh chủ quan của sự lo âu
hoặc hoảng loạn. Người bệnh được yêu cầu đánh giá mức độ bị ảnh hưởng
bởi triệu chứng thơng qua thang điểm Likert. Các ví dụ về các triệu chứng là
tê hoặc ngứa ran, chóng mặt hoặc lâng lâng, hoặc sợ điều tồi tệ nhất xảy ra…
1.9.3. Thang đo lo âu trầm cảm của Zigmond và Snaith HADS.84
Thang HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale) được phát triển
bởi Zigmond và Snaith (1983). Thang HADS là một công cụ tự đánh giá lo âu


22
và trầm cảm ở người bệnh. Thang HADS bao gồm 14 mục. Trong đó, 7 mục
đo lo âu (HADS-A) và 7 mục khác đánh giá trầm cảm (HADS-D). Người
bệnh được yêu cầu đánh giá theo thang Likert bốn điểm, mỗi mục được tính
điểm từ 0 đến 3. Do đó, điểm tối đa cho thang HADS-A và HADS-D là 21.
Điểm số cao hơn đại diện cho nhiều lo âu.
Nhiều nghiên cứu đã xác nhận tính hợp lệ của HADS trong các thiết kế
nghiên cứu. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra nó là một cơng cụ hữu ích trong
các lĩnh vực thực hành lâm sàng khác. Người người bệnh không gặp khó khăn
trong việc hiểu lý do yêu cầu trả lời bảng câu hỏi.85
Bjelland, Ingvar và cộng sự năm 2002 đã đánh giá tổng quan các nghiên
cứu về độ tin cậy của thang HADS, kết quả cho thấy hầu hết các phân tích
nhân tố đã chứng minh thang HADS là phù hợp với các tiểu mục Lo âu
(HADS-A) và Trầm cảm (HADS-D). Mối tương quan giữa hai tiểu mục thay
đổi từ 0,40 đến 0,74 (trung bình 0,56). Cronbach's alpha cho HADS-A thay
đổi từ 0,68 đến 0,93 (trung bình 0,83).86
Thang đánh giá lo âu, trầm cảm HADS đã được dịch sang nhiều ngơn
ngữ, trong đó có bản dịch sang tiếng Việt bởi Nguyễn Hồng Long để nghiên
cứu về tình trạng lo âu trước phẫu thuật tại Việt Nam với hệ số  Cronbach’s
Alpha được tìm thấy là 0,89.11
1.10. Cơng cụ đo lường sự hỗ trợ xã hội

1.10.1. Thang đo mối quan hệ xã hội SRS87.
Thang SRS (Social Relationship Scale) được phát triển bởi Mc. Farlane
(1981). Nó được thiết kế để đo lường mức độ mối quan hệ xã hội của một cá
nhân và sự nhận thức hữu ích của nó đối với việc bảo vệ một người khỏi
những tác động căng thẳng trong cuộc sống lên sức khỏe.
SRS là phép tự đo lường mối quan hệ xã hội, yêu cầu người bệnh xác
định những người đã hỗ trợ anh ta trong việc thay đổi kinh nghiệm cuộc
sống. Sáu lĩnh vực thay đổi của cuộc sống được hỏi trong công cụ là các sự


23
kiện liên quan đến cơng việc, thay đổi về tình hình tài chính, sự kiện trong gia
đình và gia đình, sự kiện sức khỏe cá nhân, cá nhân và sự kiện xã hội và xã
hội nói chung.
1.10.2. Thang đánh giá rối loạn chức năng xã hội SDRS.88
Thang SDRS (Social Dysfunction Rating Scale) được thiết kế bởi Linn
(1969) để sử dụng chủ yếu với người cao tuổi.
SDRS đánh giá các khía cạnh tiêu cực về điều chỉnh xã hội của một
người. Thang SDRS bao gồm 21 triệu chứng liên quan đến các vấn đề xã hội
và cảm xúc, bao gồm hình ảnh bản thân, mối quan hệ giữa các cá nhân và sự
thiếu thành cơng và khơng hài lịng trong các tình huống xã hội. Người bệnh
được yêu cầu đánh giá các vấn đề thông qua thang đo Likert, từ "không có
mặt" đến "rất nghiêm trọng".
1.10.3. Thang đo hỗ trợ đa chiều MDSS.89
Thang MDSS (Multi-Dimensional Support Scale) được phát triển bởi
Winefield và cộng sự (1992). Công cụ này lần đầu tiên được phát triển để
đánh giá khả năng được nhận sự hỗ trợ xã hội ở những người trẻ tuổi đang
phải đối mặt với sự kiện căng thẳng.
Thang MDSS giúp đánh giá khả năng nhận được sự hỗ trợ xã hội về mặt
cảm xúc, thực tế và thông tin. Thang bao gồm 2 phần, đó là gia đình và bạn bè

(6 mục) và chuyên gia (5 mục). Người bệnh được yêu cầu đánh giá sự sẵn có
và sự phù hợp của các hỗ trợ từ người khác theo thang Likert bốn điểm. Bảng
câu hỏi này rất sát với thực tế bởi vì nó dễ dàng được chấp nhận bởi người trả
lời. Winefield (1992) cũng khẳng định rằng công cụ này phù hợp với thiết kế
nghiên cứu lặp đi lặp lại. Với hệ số Cronbach’s Alpha được tìm thấy là 0,75.89 
Thang MDSS này đã được dịch sang tiếng Việt bởi Nguyễn Hoàng Long
để đánh giá trên người bệnh phẫu thuật tại Việt Nam  với hệ số Cronbach's


24
alpha cho tổng thể (11 mục) là 0,74. Hệ số của thang đo hỗ trợ từ gia đình là
0,80 và của thang đo hỗ trợ từ nhân viên tế là 0,79.11
1.11. Lượng giá cường độ đau
Để lượng giá cường độ đau, người ta thường dùng các thang lượng giá
chủ quan của người bệnh và thường là các thang lượng giá một chiều, ít khi
sử dụng các thang lượng giá đa chiều vì phức tạp.
1.11.1. Thang điểm Likert 5 điểm:
Là thang điểm thông dụng nhất, được tạo nên bởi 5 loại từ mô tả cường
độ đau được sắp xếp theo thứ tự như sau:
Lúc này bạn thấy đau ở mức độ nào?
1. Đau rất ít

2. Đau ít

3. Đau vừa

4. Đau nhiều

5. Đau dữ
dội


Hình 1.2: Thang điểm Likert
1.11.2. Thang nhìn đồng dạng (VAS: Visual Analogue Scale).90
Thang VAS là thang điểm đánh giá đau được sử dụng nhiều nhất hiện
nay, dựa vào việc xác định mức độ đau chủ quan của người bệnh trên thước
EVA (Echelle visuelle Analogue) có cấu tạo như sau:
Là thước hai mặt được đóng kín hai đầu. Một mặt khơng có số: một đầu
ghi “đau khơng chịu nổi”, một đầu ghi “không đau”.. Một mặt chia vạch từ 0
đến 100 mm, đầu 0 tương ứng với “không đau”, đầu 100 tương ứng với “đau
không chịu nổi” ở mặt kia.


25
Hình 1.3: Thước EVA đo độ đau theo thang điểm VAS
Người bệnh tự đánh dấu vào dòng điểm mà họ cảm thấy thể hiện cảm
giác của họ về mức đau hiện tại. Điểm VAS được xác định bằng cách đo bằng
milimét từ tay trái cuối dòng đến điểm mà người bệnh đánh dấu.
1.12. Một số nghiên cứu về lo âu trước phẫu thuật
* Trên thế giới
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng, có một số lượng đáng kể
người bệnh trưởng thành có lo âu trước khi trải qua phẫu thuật. Tỷ lệ lo âu
trước phẫu thuật đã được báo cáo là từ 11% đến 80%, tỷ lệ này thay đổi theo
từng khu vực, thời điểm và đặc điểm văn hóa của đối tượng nghiên cứu.9,4,91
Theo kết quả nghiên cứu của Hernández-Palazón, J. và cộng sự, (2018)
tại Tây Ban Nha chỉ ra rằng: có 94% người bệnh có biểu hiện lo âu trước phẫu
thuật.92 Một nghiên cứu khác về lo âu trước phẫu thuật tại Ethiopia cho thấy
có 61% người bệnh có mức độ lo âu đáng kể.9
Tại châu Á, một nghiên cứu khảo sát tần suất lo âu trước phẫu thuật cho
thấy tỷ lệ lo âu trước phẫu thuật chiếm 62 %.63
Về các yếu tố liên quan đến lo âu trước phẫu thuật, người ta cho rằng:

Có sự khác nhau về mối tương quan giữa giới tính và lo lắng 61 và mức độ lo
âu ở những người độc thân và ly dị là cao hơn đáng kể. 41 Ngược lại, một
nghiên cứu của Cevik Banu, (2018) cho thấy: Tuổi, tình trạng nghề nghiệp,
tình trạng hơn nhân và trình độ học vấn khơng được tìm thấy là yếu tố quyết
định trên mức độ lo lắng trước phẫu thuật.64
Bên cạnh đó, thơng tin về bệnh và phẫu thuật cũng tác động đến mức độ
lo âu trước phẫu thuật của người bệnh. Một nghiên cứu tại Ấn Độ chỉ ra rằng:
Những người bệnh được thông báo rõ về quy trình phẫu thuật có ít lo âu trước
phẫu thuật hơn so với những người không biết về thủ thuật,76 người bệnh nhận
được hỗ trợ thông tin rõ ràng từ chuyên gia chăm sóc sức khỏe, sự lo lắng của
họ đã giảm bớt.77


×