MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau. Mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội lồi người đều có những
hiểu biết và cách giải thích khác nhau về các hiện tượng kinh tế - xã hội. Lúc
đầu, việc giải thích các hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện dưới hình thức
những tư tưởng kinh tế lẻ tẻ, rời rạc; về sau mới trở thành những trường phái với
những quan điểm kinh tế có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau. Cho đến
ngày nay, đã xuất hiện nhiều trường phái kinh tế học, nhiều đại biểu đưa ra
những quan điểm khác nhau để lý giải hiện thực kinh tế - xã hội.
Lịch sử các học thuyết kinh tế là một mơn khoa học xã hội nghiên cứu q
trình phát sinh, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của các hệ thống quan
điểm kinh tế của các giai cấp cơ bản trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau.
Có thể nói, lịch sử các học thuyết kinh tế là một môn khoa học cung cấp
cho chúng ta một cách có hệ thống những tư tưởng kinh tế, mà cốt lõi, xuyên
suốt là tư tưởng về giá trị hàng hố. Vì thế, việc nghiên cứu, giảng dạy và học
tập môn khoa học này phải đối diện với một khối lượng kiến thức rất rộng lớn,
từ thời cổ đại đến hiện đại. Đó là vấn đề rất khó khăn. Sự thành cơng của những
người nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế phụ
thuộc vào việc nắm được vấn đề cơ bản, xuyên suốt trong hệ thống các tư tưởng
kinh tế của nhân loại.
Vấn đề cơ bản, xuyên suốt trong môn khoa học này trở thành đối tượng mà
môn học phải nghiên cứu lại có hai mặt. Thứ nhất, giá trị hàng hố là gì? nó
được hình thành, phân phối, trao đổi và sử dụng như thế nào? Thứ hai, Nhà
nước có vai trị như thế nào trong việc sản xuất, phân phối, trao đổi và sử dụng
giá trị trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Lịch sử các học thuyết kinh tế, về thực chất là môn khoa học nghiên cứu để
giải quyết vấn đề trung tâm có tính hai mặt đó. Nó xuyên suốt trong các tư tưởng
học thuyết kinh tế, hay như cách nói hình ảnh mà chúng ta thường dùng, là sợi
chỉ đỏ của các tư tưởng kinh tế trong lịch sử.
Lý luận địa tô là một trong những vấn đề quan trọng, xuyên suốt lịch sử
học thuyết kinh tế việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc hoạch định chính sách đất đai ở các nước trên hế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng.
Trong điều kiện kinh tế thế giới hiện nay nói chung và của nước ta nói
riêng, việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế nói chung lý luận địa tơ nói
riêng càng cần thiết để hiểu và thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng Cộng sản
1
Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới. Vì lý do đó em xin chọn vấn đề “Lý luận lợi
nhuận, lợi tức, địa tô của C.Mác là sự kế thừa và phát triển lý luận lợi nhuận,
lợi tức, địa tô của trường phái kinh tế tư sản cổ điển. Sự vận dụng lý luận lợi
nhuận, lợi tức, địa tô trong thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ và ruộng
đất của đảng và nhà nước ta hiện nay” làm tiểu luận môn Lịch sử các học
thuyết kinh tế.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là lý luận địa tô của các trường phái kinh
tế trong lịch sử các học thuyết kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận tương đối rộng tập trung nghiên cứu lý
luận về địa tô của các trường phái kinh tế trong lịch sử các học thuyết kinh tế
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận là nghiên cứu, đánh giá lý luận về địa tô của
các trường phái, học thuyết kinh tế trên cơ sở đó liên hệ vấn đề địa tơ ở Việt Nam
nhằm đưa ra những chính sách trong việc sử dụng đất đai ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu đó tiểu luận có nhiệm vụ giải quyết một số vấn đề sau:
Tìm hiểu lý luận địa tô của các trường phái, học thuyết kinh tế trước Mác
Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong lý luận về địa tô của các trường
phái kinh tế trước Mác
Tìm hiểu lý luận địa tơ trong học thuyết kinh tế của Mác
Đánh giá chính sách đất đai của Việt Nam trước và sau đổi mới đến nay
Đưa ra một số giải pháp trong việc thực hiên chính sách đất đai của Việt
Nam hiện nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận Duy vật Biện chứng và Duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin để làm sáng tỏ vấn đề.
Ngoài ra để thực hiện mục tiêu nghiên cứu cũng như việc triển khai nội
dung, tiểu luận còn kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp
lơgic- lịch sử, phân tích tài liệu, phân tích - tổng hợp, phương pháp thu thập và
xử lý thơng tin…
5.Kết cấu tiểu luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
tiểu luận gồm 3 chương và 13 tiết.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN ĐỊA TÔ CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ TRƯỚC
MÁC
1.1. Các tư tưởng kinh tế thời trung cổ
Tư tưởng kinh tế của Thomasd Aquin (1225 - 1274)
Thomasd Aquin xuất thân từ một gia đình quý tộc ở Italia. Ông là đại biểu
nổi tiếng của giới giáo sỹ theo dòng Dominicanh và chịu ảnh hưởng triết học
duy tâm của Platon. Tác phẩm "Khái niệm về thần học" của ông trở thành cuốn
từ điển bách khoa của đạo Thiên chúa. Theo ơng, quyền lực của Giáo hồng là
tối cao. Vua phải phục tùng các giáo sỹ mà trước hết là Giáo hoàng La Mã.
Tư tưởng của T.Aquin bênh vực cho lợi ích của đại địa chủ và nhà thờ, bảo
vệ chế độ chiếm hữu đại địa chủ về ruộng đất.
Trong các tư tưởng kinh tế của mình, ban đầu ông bảo vệ kinh tế tự nhiên,
chống lại hoạt động thương mại và cho vay nặng lãi. Theo ông, kinh tế tự nhiên
là cơ sở tồn tại của xã hội. Nơng nghiệp phù hợp với lịng từ thiện vì giới tự
nhiên do thượng đế tạo ra tham gia vào nông nghiệp. Song, do sự phát triển kinh
tế hàng hoá là tất yếu, hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời ngày càng rộng
rãi làm cho ông phải thay đổi cách nhìn nhận kinh tế của mình. Trong điều kiện
đó, ông sử dụng quan điểm của Aristote về ba loại thương nghiệp và cho rằng
đại thương nghiệp có thể theo đuổi một mục đích chân lý cần thiết. Vì vậy, thu
lợi nhuận khơng mâu thuẫn với lịng từ thiện.
Để bảo vệ quan điểm của nhà thờ cấm thu lợi tức nhưng cho phép sử dụng
việc cho vay có ruộng đất cầm cố, ông đưa ra tư tưởng về cần thiết phải có "tặng
phẩm cho tiền vay". Ơng nói: "Khơng cho phép lấy một khoản tiền thưởng nào
trong việc cho vay nhưng được phép lấy một tặng phẩm nào đó để làm tiền cơng".
Ơng gọi lãi suất là một "q tặng vô tư", một khoản tiền cho những rủi ro.
Theo ông, địa tô, lợi nhuận thương mại là sự trả công cho lao động gắn liền
với việc quản lý tài sản ruộng đất. Việc thu địa tơ là hồn tồn hợp lý vì địa tơ thu
từ ruộng đất, mà ruộng đất là tặng phẩm của thượng đế ban cho vua chúa, quan lại.
Trong khi ca ngợi kinh tế tự nhiên, kinh tế nơng nghiệp, phê phán kinh tế
hàng hố, ơng cho rằng ruộng đất có nhiều ưu thế hơn so với tiền tệ:
Thứ nhất, ruộng đất mang lại thu nhập (địa tơ) nhờ sự giúp đỡ của tự nhiên.
Trong khi đó thu nhập của tiền tệ cho vay là sự lừa dối.
Thứ hai, ruộng đất làm cho tinh thần đạo đức tốt lên cịn tiền tệ gây ra
những tật xấu, thói hư, lòng tham lam vị kỷ của con người.
Thứ ba, ruộng đất có thể nhìn thấy rõ, khơng có sự lừa lọc như tiền tệ.
Trong thời kỳ cuối Trung cổ, xã hội phong kiến ngày càng mang tính chất
3
giai cấp rõ rệt. T.Aquin bảo vệ quyền lợi của các giai cấp, việc bảo vệ này được
thể hiện trong việc giải thích "giá cả cơng bằng". Ơng xếp việc trao đổi vào loại
hành động chủ quan - đó là sự cơng bằng trong lợi ích. Vì vậy, ơng ta dạy rằng
luật của chúa trời đã nói nếu như "một vật mang lại lợi ích cho người này và gây
thiệt hại cho người khác thì trong trường hợp đó chúng ta có quyền bán cái vật đó
đắt hơn chính cái giá của nó. Nhưng ở đây cái vật này dù sao cũng không được bán
đắt hơn so với bản thân giá trị của nó, bởi vì cái phần tiền bổ sung sẽ bù đắp được
các khoản thiệt hại mà người bán chịu khi mất đi cái vật đó". Ơng mơ tả những
người đại diện cho các tầng lớp đặc ân như là những con người luôn quan tâm đến
quyền lợi của những người lao động. Điều đó giải thích tại sao, theo ý kiến của ông
ta, ông ta cho phép bán các vật phẩm đắt hơn so với bản thân giá của chúng.
1.2. Các tư tưởng kinh tế ở Phương Đông
1.2.1. Tư tưởng kinh tế phong kiến ở Trung Quốc
Quan điểm về ruộng đất
Trong thời cổ đại, ruộng đất chủ yếu thuộc về quyền sở hữu của Nhà nước.
Đến thời Xuân - Thu (722- 481 TCN), chế độ thái ấp và tỉnh điền bước vào quá
trình tan rã, hiện tượng mua bán ruộng đất xuất hiện. Ruộng đất tư hữu bắt đầu
ra đời. Từ thời Chiến quốc về sau, ruộng đất tư ngày càng phát triển, trong khi
đó, ruộng cơng vẫn tiếp tục tồn tại. Do vậy, hai hình thức sở hữu ruộng đất của
nhà nước và tư nhân tồn tại song song đến cuối chế độ phong kiến.
Quan điểm về ruộng đất nhà nước: Ruộng đất thuộc quyền quản lý của nhà
nước gọi là công điền, vương điền, quan điền v.v... Do sau các cuộc chiến tranh,
cả nông dân và địa chủ kẻ thì chết, kẻ chạy loạn nên ruộng đất vắng chủ rất
nhiều. Các triều đại phong kiến đã biến các ruộng đất ấy thành ruộng cơng. Vì
vậy, Nhà nước nắm được nhiều ruộng công. Trên cơ sở đó, các triều đại phong
kiến đem bán, cấp cho quý tộc làm bổng lộc và tổ chức thành đồn điền, điền
trang để sản xuất hay chia cho nông dân dưới hình thức quan điền để thu thuế.
Trong các chính sách xử lý đất công thời phong kiến, đáng chú ý nhất là
chế độ quan điền. Tuy quy định cụ thể của các triều đại ít nhiều khác nhau,
nhưng nội dung chủ yếu của chính sách quan điền là: Nhà nước đem ruộng đất
do mình trực tiếp quản lý chia cho nơng dân cày cấy.
Theo chính sách đó, ruộng đất được chia cho mọi tầng lớp, giới tính, như
đàn ơng, đàn bà, người già, người ốm đau, tàn tật để trồng lúa (gọi là ruộng khẩu
phần) hoặc trồng dâu (ruộng vĩnh nghiệp). Đồng thời, các quan lại, tuỳ theo
chức vụ cao hay thấp được cấp ruộng đất làm bổng lộc.
Người nhận được ruộng trồng lúa, đến 60 tuổi phải trả cho nhà nước, còn
ruộng trồng dâu, ruộng vĩnh nghiệp được truyền cho con cháu. Ruộng chức vụ
4
của quan lại khi thôi chức phải giao lại cho người mới nhậm chức.
Trừ ruộng ban thưởng cho quý tộc, quan lại là được tự do mua bán, cịn nói
chung ruộng cấp cho nơng dân thì khơng được chuyển nhượng. Trong một số
trường hợp đặc biệt như người nông dân thiếu hoặc thừa ruộng trồng dâu, hoặc
gia đình có việc tang mà quá nghèo túng có thể mua bán ruộng trồng dâu. Đời
Đường cịn quy định nếu nơng dân dời chỗ ở từ nơi ít ruộng đến nơi nhiều ruộng
thì được bán cả ruộng khẩu phần.
Tuy nhiên, cũng có quan điểm chống lại việc sở hữu ruộng đất của Nhà
nước, việc Nhà nước ban cấp ruộng đất cho nông dân mà coi ruộng đất thuộc
dân cày là một tất yếu. Vương Phu Chi cho rằng, ruộng đất không phải của riêng
nhà vua mà thuộc về tay người cày; người cày có quyền sở hữu ruộng đất,
khơng phải đợi vua phân chia.
Quan điểm về ruộng đất tư nhân: Từ thời Chiến quốc, ruộng đất tư xuất
hiện ngày càng nhiều do việc vua ban cấp. Việc mua bán ruộng đất đã trở thành
phổ biến càng thúc đẩy sự phát triển quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất. Theo
Đổng Trọng Thư (179- 104 TCN). “Đến đời Tần, dùng luật của Thượng Ưởng,
sửa đổi điều luật của đế vương, bỏ tỉnh điền, dân được mua bán, nhà giàu ruộng
liền bờ bát ngát, người nghèo khơng có đất cắm dùi”. Trước thực trạng như vậy,
ông đề nghị “hạn chế ruộng đất tư của dân để cấp cho những người không đủ;
ngăn chặn đường chiếm đoạt”.
Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất ảnh hưởng đến sức mạnh của chế
độ phong kiến tập quyền. Do đó, để củng cố chế độ phong kiến tập quyền phải
hạn chế việc gia tăng ruộng đất của quan lại, địa chủ. Chu Nguyên Chương (tức
Minh Thái Tổ) đã quy định số lượng ruộng đất được ban cấp. Cụ thể, công thần,
công hào, thừa tướng được ban cấp nhiều nhất là 100 khoảnh; thân vương 1000
khoảnh. Nhìn chung càng về sau này, ruộng đất chủ yếu ở trong tay địa chủ và
quan lại. Cuối triều Minh, cứ 10 người thì 9 người khơng có ruộng.
1.2.2. Tư tưởng kinh tế phong kiến ở Nhật Bản
Quan điểm về ruộng đất
Sau năm 642, toàn bộ ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước. Nhưng pháp
luật cũng thừa nhận ruộng đất chùa chiền, đồng thời cho phép ruộng thưởng
công được truyền cho con cháu.
Do nhân khẩu tăng, đến thế kỷ VIII không đủ ruộng đất để ban cấp theo
tiêu chuẩn đã quy định, nên Nhà nước ban hành chính sách khuyến khích khai
khẩn đất hoang. Năm 723, Nhà nước ra quy định: Nếu ai khai khẩn đất hoang chưa
có kênh ngịi thì được truyền 3 đời; cịn ai khai khẩn ruộng hố đã có kênh ngịi sẵn
thì được sử dụng suốt đời, sau khi chết phải trả lại cho Nhà nước. Nhưng chính
5
sách này hạn chế đối với việc khẩn hoang, nên năm 743, Nhà nước lại tuyên bố
ruộng đất khai hoang thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn của người khai khẩn.
Do chính sách ban thưởng và khai khẩn đó nên ruộng đất tư ngày càng phát
triển; ruộng đất Nhà nước ngày càng bị thu hẹp. Chế độ ban điền dần dần tan rã,
chế độ trang viên phong kiến ra đời và phát triển.
Sự phát triển của chế độ trang viên mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước
Trung ương. Do vậy, Nhà nước nhiều lần ban hành những chính sách nhằm hạn
chế sự phát triển của trang viên. Năm 1064, Nhà nước lập sở “Đăng ký khế ước”
mục đích thẩm tra ruộng đất trang viên, nếu ruộng đất không hợp pháp thì quốc
hữu hố. Cùng năm đó nhà nước ra lệnh thủ tiêu đặc quyền miễn thuế và không
cho quan lại Nhà nước vào trang viên (gọi là quyền bất thâu, bất nhập). Nhưng do
chế độ trang viên đã vững nên những pháp lệnh ấy khơng có hiệu quả. Đến thế kỷ
XII, chế độ trang viên phát triển khắp cả nước. Từ đó về sau, tuy có thay đổi chủ
nhân của sở hữu ruộng đất, nhưng ruộng đất tư hữu vẫn giữ vai trò quyết định.
1.2.3. Tư tưởng kinh tế ở Ấn Độ
Quan điểm về chế độ ruộng đất
Cũng như thời cổ đại, trong suốt thời kỳ trung đại, quyền sở hữu ruộng đất
ở Ấn Độ chủ yếu vẫn thuộc về nhà nước.
Trên cơ sở ấy, thời Gúp-ta, nhà vua thường đem ruộng đất phong cho các
quan lại làm bổng lộc. Từ thời Hác-sa về sau, các nhà vua cũng thường đem
ruộng đất ban thưởng cho các đền chùa, các thầy tu và bề tơi, trong đó có thể
kèm theo những điều kiện nhất định, nhưng cũng có thể khơng có bất cứ điều
kiện nào.
Loại ruộng đất ban khơng có điều kiện gọi là Grax. Kẻ được cấp thường là
đền chùa hoặc các thầy tu. Được ban cấp loại ruộng Grax, chủ ruộng đất có
quyền giữ vĩnh viễn, được tồn quyền thống trị và thu tơ thuế trong lãnh địa của
mình và không phải chịu một nghĩa vụ nào. Trong một tờ chiếu ban cấp ruộng
đất của Hác- sa có đoạn viết: "Trẫm ban làng này cho Ba-La-Môn, miễn cho tất
cả mọi nghĩa vụ và cho phép được truyền cho con cháu. Khi mặt trăng, mặt trời
và quả đất còn tồn tại thì kẻ được trẫm phong đất cứ việc thống trị vùng đó.
Thần dân trong vùng này phải thừa nhận họ và đến kỳ phải nộp thuế, các loại
sản phẩm và tiền bạc cho họ".
Loại ruộng đất phân phong có điều kiện gọi là Pát -Ta dùng để ban cấp cho
các tướng lĩnh. Người được ban đất Pát-Ta chỉ được sử dụng ruộng đất khi đang
giữ chức vụ, không được truyền cho con cháu và phải có nghĩa vụ quân sự. Sách
Đường Đại Tây việc ký của Huyền Trang có nói: "Tể mục, phụ thần, thứ quan,
liêu tá đều có đất phong, sống bằng thái ấp của mình". Đến thời Xun-Tan Đê-li,
6
chế độ ruộng đất ở Ấn Độ phát triển theo chiều hướng hơi khác. Theo quan điểm
truyền thống của đạo Hồi, nhà nước Xun-Tan Đê-li tuyên bố ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của nhà nước, quyền sở hữu ruộng đất của các chúa phong kiến
bản xứ nói chung bị thủ tiêu. Trên cơ sở đó Xun-Tan đem ruộng đất ban cấp cho
tướng lĩnh, nhà thờ Hồi giáo với những điều kiện khác nhau, đồng thời những
chúa phong kiến bản xứ chịu thần phục thì ruộng đất của họ vẫn được chấp
nhận, vì vậy trong thời kỳ này, có nhiều loại ruộng đất khác nhau. Quan trọng
nhất trong số đó là ruộng đất I-Kta mà kẻ chiếm hữu gọi là I-Kta-Đa và ruộng
đất Za-Min mà kẻ chiếm hữu gọi là Za-Min-Đa, loại ruộng đất I-Kta là những
thái ấp ban cho các quý tộc quân sự Hồi giáo người Tuyếc, người Áp-ga-ni-xtan
và những chúa phong kiến Ấn độ theo đạo Hồi với những điều kiện:
+ Người được ban cấp ruộng chỉ được hưởng một phần tô thuế làm bổng lộc
khi đang giữ chức vụ, phần tơ cịn lại phải nộp vào kho Nhà nước. Về ngun tắc
chủ đất I-Kta khơng có quyền sở hữu ruộng đất nên trong trường hợp cần thiết,
Xun-Tan có thể thu hồi đất phong hoặc điều người được phong đất từ nơi này
sang nơi khác.
+ Người được ban cấp đất I-Kta phải tuỳ theo diện tích ruộng đất lớn hay
bé mà nuôi một số lượng quân đội tương ứng để cung cấp cho Nhà nước.
+ Loại ruộng đất Za-Min là ruộng đất của những chúa phong kiến Ấn Độ
giáo quy thuận hoặc liên kết với Xun-Tan, do đó Xun-Tan cho giữ nguyên quyền
sở hữu ruộng đất. Trong lãnh địa của mình các Za-Min-Đa có tư pháp riêng và
tự quy định mức tơ thuế, tuy nhiên họ phải có nghĩa vụ nộp cống và khi có chiến
tranh phải đem qn đội của mình đến giúp Xun-Tan. Ngồi hai loại ruộng đất
kể trên, các nhà thờ, trường học và giáo sỹ Hồi giáo cũng được ban cấp ruộng
đất. Chủ của ruộng đất này có quyền thu tơ thuế, tổ chức bộ máy hành chính, tồ
án... và khơng phải chịu nghĩa vụ gì đối với nhà nước.
Đến thời Mơ-Gơn, giai cấp thống trị theo Hồi giáo nên quan niệm về ruộng
đất cũng giống như thời Xun-Tan Đê-li chỉ có tên gọi là chi tiết hơi khác mà
thôi. Những kẻ được phong đất là các quý tộc quân sự gọi là Ja-Jia-Đa (còn đất
gọi là Ja-Jia). Tuy được phong đất nhưng các Ja- Jia-Đa chỉ có quyền thu tơ thuế
theo mức quy định thống nhất của nhà nước, chứ khơng có quyền sở hữu. Còn
đất Za-Min cũng tồn tại với những điều kiện giống như thời Xun-Tan Đê-li.
Ngoài các loại đất trên, các đền chùa tôn giáo và các loại thầy tu cũng có
ruộng đất. Những kẻ được ban cấp ruộng đất này khơng phải chịu nghĩa vụ gì
đối với nhà nước.
Mức thuế ruộng đất mà nông dân phải nộp bằng 1/6 thu hoạch. Ngồi ra, nơng
dân phải chịu lao dịch như đắp thành, xây cung điện, làm các cơng trình thuỷ lợi...
7
và còn nộp các loại thuế khác nhau như thuế làm nhà, tiền cheo đám cưới...
Đến cuối thời Trung đại, mức thuế ruộng đất tăng lên bằng 1/3 thu hoạch và
số loại tạp thuế cũng tăng lên bao gồm các khoản như thuế gia súc, thuế cây ăn
quả, thuế nhà, thuế đốn củi, thuế nuôi, thuế chợ, thuế xuống gặt... Bởi vậy đời
sống của nông dân Ấn Độ rất khốn khổ, lúc gặp thiên tai họ khơng tránh khỏi chết
đói hàng loạt.
1.3. Học thuyết kinh tế trọng nông
Tư tưởng kinh tế của Turgot (1727 - 1781)
Lý luận về lợi nhuận
Để khám phá nguồn gốc của lợi nhuận, Turgot đã suy xét như sau: Nhà tư
bản - chủ trang trại mà sử dụng lao động th mướn thì chí ít phải có lợi nhuận
cho vốn tư bản của mình giống như đối với chủ nhà máy, cộng với một số dư dật
mà họ phải trả cho chủ đất dưới dạng địa tô. Sản phẩm của công nhân nông
nghiệp bằng tổng của tiền lương và sản phẩm thuần túy. Do đó, tiền lương của
cơng nhân là thu nhập do lao động, cịn sản phẩm thuần túy là thu nhập của nhà
tư bản, gọi là lợi nhuận. Lợi nhuận đó chính là thu nhập không lao động do công
nhân tạo ra.
Mặc dù chưa phân tích được rõ ràng bản chất của giá trị thặng dư và các
hình thức biểu hiện của nó, nhưng Turgot đã tiến rất gần đến vấn đề này. Ông đã
thử giải thích như sau: Trước hết trong giá trị sản phẩm phải có khoản bù lại
những chi phí tư bản, trong đó có cả tiền lương cho cơng nhân. Phần còn lại
(thực chất là giá trị thặng dư) được chia làm ba phần:
Phần thứ nhất, là lợi nhuận bằng với thu nhập mà nhà tư bản có thể nhận
mà “khơng có bất kỳ sự lao động nào” như một chủ sở hữu vốn tư bản bằng tiền.
Đây là phần lợi nhuận tương ứng với lãi phần trăm vốn vay. Phần thứ hai, là lợi
nhuận trả cho “lao động, rủi ro và nghệ thuật” của nhà tư bản - người đã quyết
định bỏ tiền của mình đầu tư vào nhà máy hoặc trang trại. Đó là thu nhập kinh
doanh. Phần thứ ba, là phần địa tô trả cho chủ đất. Nó chỉ tồn tại đối với tư bản
đặt vào việc canh nơng. Ở thời đại mà Turgot sống thì việc phân tích này là tư
duy vơ cùng mới mẻ.
Khi xem xét các hình thức bỏ vốn tư bản khác nhau, Turgot đã đề cập đến
một vấn đề quan trọng, đó là cạnh tranh tư bản sẽ dẫn đến sự cân bằng tự nhiên
mức lợi nhuận nhờ khả năng chuyển vốn tư bản từ môi trường đầu tư này sang
môi trường đầu tư khác.
Những “tư duy” ban đầu của Turgot, sau này đã được D.Ricacđo tiếp tục
làm rõ và cuối cùng, C.Mác giải quyết một cách triệt để và khoa học trong
quyển 3 của bộ “Tư bản” bằng các luận thuyết về lợi nhuận bình quân và giá cả
8
sản xuất, tư bản cho vay và lợi tức cho vay, địa tơ.
Tóm lại, nhận thức về tư bản của chủ nghĩa Trọng nơng đã có một bước tiến lớn.
1.4. Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển
1. 4.1. Học thuyết kinh tế của Wiliam Petty (1623-1687)
Lý luận địa tô, lợi tức và giá cả ruộng đất
Lý luận địa tô của Wiliam Petty cũng được xây dựng trên cơ sở lý luận giá
trị lao động, nên cũng có nhiều đóng góp quan trọng. Theo ơng địa tơ là khoản
chênh lệch giữa thu nhập và chi phí sản xuất, mà phần chi phí này gồm chi phí
về giống và tiền lương. Như vậy, thực chất của địa tô là giá trị dơi ra ngồi chi
phí, tức là phần lao động khơng công của công nhân. Qua lý luận địa tô, Wiliam
Petty cũng vạch rõ mầm mống của sự bóc lột của giai cấp tư bản và địa chủ đối
với giai cấp công nhân nông nghiệp.
Wiliam Petty không những nghiên cứu bản chất của địa tơ, mà ơng cịn
nghiên cứu địa tơ chênh lệch. Ông cho rằng: Các mảnh đất xa gần khác nhau sẽ
mang lại thu nhập khác nhau.
Về lợi tức, Wiliam Petty phân tích lợi tức gắn liền với địa tơ, theo ơng người có
tiền có thể sử dụng bằng hai cách để đem lại thu nhập:
- Thứ nhất, dùng tiền mua đất cho thuê để thu địa tô.
- Thứ hai, đem gửi ngân hàng để thu lợi tức. Wiliam Petty coi lợi tức là tơ của
tiền, nó phụ thuộc vào mức địa tơ, cũng có nghĩa là mức lợi tức cao hay thấp phụ
thuộc vào điều kiện sản xuất nông nghiệp.
Về giá cả ruộng đất, Wiliam Petty gắn lý luận địa tô với việc xác định giá
cả ruộng đất, ông cho rằng, bán ruộng đất là bán quyền nhận địa tơ, vì vậy giá cả
ruộng đất là do địa tơ quyết định.
Ơng đưa ra cơng thức tính giá cả ruộng đất rất độc đáo, cơng thức đó là:
Giá cả ruộng đất = R x 20
R là mức địa tô do một mảnh đất mang lại, còn số 20 là ông dựa vào kinh
nghiệm thống kê để xác định. Ông giả định rằng, trong một gia đình có 3 thế hệ:
con 7 tuổi, cha 27 tuổi, ông 47 tuổi. Họ cách nhau 20 tuổi và cịn có thể chung
sống với nhau 20 năm nữa, do đó ơng đã lấy số 20 để tính giá cả ruộng đất. Mặc
dù cách tính này là khơng có sơ sở lý luận chắc chắn và khơng đúng, song có hạt
nhân hợp lý là đã dựa vào địa tô để xác định giá cả ruộng đất.
1.4.2. Học thuyết kinh tế của A.Smith (1723 - 1790)
Lý luận về các hình thái thu nhập trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
Nhận xét chung về lý luận địa tơ của A. Xmít, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng ông chưa có những quan điểm rõ ràng và đầy đủ. Tuy vậy, vẫn có thể thấy
là A. Xmít có cố gắng rất nhiều trong việc tìm hiểu bản chất thật sự của địa tô tư
9
bản chủ nghĩa bằng cách đặt nó trên cơ sở khoa học của lý luận giá trị - lao
động. Ông có nhận xét đúng đắn rằng địa tơ là một loại thu nhập không do lao
động, một sự khấu trừ giá trị hàng hố có lợi cho người chủ đất, là phần dôi ra
trên mức tiền công và lợi nhuận bình qn của tư bản. Tuy nhiên, A. Xmít khơng
theo đuổi vấn đề này một cách triệt để nên ông thường tự mâu thuẫn với chính
mình trong việc xác định nguồn gốc cuối cùng của địa tơ. Ơng gọi địa tô là một
loại “giá cả độc quyền” trả cho việc sử dụng đất đai. Thậm chí, ơng cịn bị coi là
có bước thụt lùi so với những người trọng nơng (những người dù sao cũng
khẳng định một cách dứt khoát rằng địa tô là do lao động của công nhân trong
lĩnh vực nông nghiệp tạo ra) khi cho rằng địa tô là một tặng vật của đất đai, là
phần thưởng trả cho “cơng lao của đất”. Ơng diễn đạt một cách hình ảnh rằng
địa tơ - “đó là tác phẩm cịn sót lại của tự nhiên sau khi mọi thứ đã trở thành sản
phẩm của con người” và gắn cho nó một thuộc tính vĩnh viễn, phi lịch sử. Ngồi
ra, các phân tích của A. Xmít về địa tơ chênh lệch cũng chưa thật sâu sắc và đầy
đủ. Ông cũng chưa đề cập đến địa tô tuyệt đối là địa tô mà bất kỳ người thuê đất
đai nào, chứ không chỉ những người thuê đất tốt hay trung bình- cũng phải trả.
Những hạn chế của A.Smith chung quy cũng vẫn bắt nguồn từ việc ơng khơng
có một quan điểm tổng quát về giá trị thặng dư, tức là cơ sở khách quan để giải
thích cho sự tồn tại của các loại địa tô dưới CNTB.
1.4.3. Học thuyết kinh tế của David Ricardo (1772 - 1823)
Lý thuyết địa tô
David Ricardo phát triển quan điểm A.Smith về những thu nhập lần đầu
của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. Lý thuyết thu nhập của ông được xây dựng
trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động.
* Về địa tô, sự phân tích địa tơ là cơng lao của David Ricardo. Điểm nổi bật
của lý thuyết địa tô là ông phân tích lý thuyết này trên cơ sở lý thuyết giá trị lao
động. Ông lập luận rằng, do "đất đai canh tác hạn chế", độ màu mỡ đất đai giảm
sút, "năng suất đầu tư bất tương xứng", trong khi đó, dân số tăng nhanh làm cho
nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt là phổ biến trong mọi xã hội. Điều này buộc xã
hội phải canh tác trên ruộng đất xấu. Vì canh tác trên ruộng đất xấu, nên giá trị
nông sản phẩm do hao phí lao động trên ruộng đất xấu nhất quyết định. Vì vậy, ở
những ruộng đất tốt, trung bình, cùng với mức đầu tư chi phí, sẽ thu được lượng
sản phẩm lớn hơn so với ruộng đất xấu. Khoản chênh lệch đó trả cho địa chủ gọi
là địa tô.
Cũng như A.Smith, David Ricardo đã phân biệt được địa tô và tiền tô. Địa
tô là việc trả công cho những khả năng thuần túy tự nhiên. Ngồi địa tơ, tiền tơ
cịn bao gồm cả lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất.
10
Các nhà kinh tế khác cho rằng, địa tô là dấu hiệu sự giàu có của xã hội. Ngược lại, David Ricardo cho rằng, địa tô là biểu hiện sự bần cùng của xã hội. Vì
nếu đất đai phì nhiêu, màu mỡ, người ta không cần phải canh tác trên ruộng đất
xấu. Do vậy, địa tô giảm, giá cả nông sản phẩm giảm, địa tơ càng cao thì xã hội
càng thiếu nông sản phẩm. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tăng màu
mỡ đất đai sẽ làm cho địa tô giảm đi.
Hạn chế quan trọng nhất trong lý thuyết địa tô của David Ricardo là ông
không thừa nhận địa tơ tuyệt đối. Ơng cũng cho rằng, thừa nhận địa tô tuyệt đối
là vi phạm quy luật giá trị.
1.5. Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển trong thời kỳ tan rã
Học thuyết kinh tế của T.R.Malthus (1766 - 1834)
Lý luận về địa tô
Malthus đã phát triển lý thuyết về địa tô chênh lệch của Ricardo. Theo lý
thuyết này thì địa tơ tồn tại vì sự khác nhau về độ màu mỡ của đất và vì địa chủ
đã cải tiến đất đai của anh ta. Tiến bộ về kinh tế làm cho cầu về hàng hóa nơng
nghiệp sẽ tăng lên và đất đai màu mỡ sẽ ít đi. Do vậy, sự chênh lệch về độ màu
mỡ giữa các mảnh đất sẽ tăng lên và bởi vậy địa tô cũng sẽ khác nhau. Theo
Malthus, địa tô cao là kết quả của sự thịnh vượng về kinh tế và là thước đo cho
sự thịnh vượng.
1.6. Học thuyết kinh tế tiểu tư sản
Học thuyết kinh tế của Sismondi (1773-1842)
Trong lịch sử kinh tế chính trị, Sismondi chiếm một vị trí đặc biệt. Một
mặt, ông là người bảo vệ nhiệt thành nhất nền sản xuất nhỏ, chống lại một cách
quyết liệt nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa và với tư cách ấy, ông trở thành một
trong các đại biểu nổi tiếng nhất của tư tưởng kinh tế tiểu tư sản. Ông cũng được
C.Mác coi là người sáng lập và đứng đầu trường phái này ở nước Pháp. Mặt
khác, cũng theo đánh giá của Mác, Sismondi còn là người đại biểu cuối cùng
của kinh tế chính trị học cổ điển Pháp. C.Mác cho rằng, nếu như với Ricardo,
kinh tế chính trị học đã đưa ra được tất cả những kết luận cuối cùng của mình và
do đó mà đã được hồn thiện thì Sismondi lại bổ sung cho những kết luận này
bằng việc nghi ngờ nó. Vị trí đặc biệt đó của Sismondi trong lịch sử kinh tế học
đã quyết định phương pháp luận nghiên cứu và những khuynh hướng phát triển
lý luận ở ơng. Ngồi ra, ơng cịn là một trong những đại biểu của chủ nghĩa xã
hội tiểu tư sản, một trào lưu tư tưởng và lý luận độc đáo phát triển mạnh mẽ ở
Pháp những năm đầu thế kỷ XIX.
11
Lý luận địa tô
Trong vấn đề địa tô, sự giải thích của Sismondi cũng giống như của
A.Smith và D.Ricardo. Song, ở đây ơng có một cống hiến khoa học thật sự khi
khẳng định rằng địa tô không chỉ tồn tại trên những mảnh đất tốt mà cịn có cả
những mảnh đất xấu nhất. Đó chính là địa tơ tuyệt đối mà C.Mác phân tích sau
này. Điều khẳng định của Sismondi về sự tồn tại của địa tô ở khắp nơi là một sự
giải thích đúng đắn hiện thực lúc đó, khi mà phương thức tư bản chủ nghĩa đã
chiến thắng trong lĩnh vực nông nghiệp chẳng những ở Anh mà còn ở Pháp nữa.
12
CHƯƠNG II
NỘI DUNG LÝ LUẬN ĐỊA TÔ TRONG HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA
MÁC – ĂNGGHEN
Nông nghiệp cũng là một lĩnh vực sản xuất của xã hội. Nhà tư bản
nông nghiệp tiến hành kinh doanh nông nghiệp cũng chiếm đoạt một số giá trị
thặng dư do công nhân nông nghiệp mà họ thuê mướn tạo ra. Tất nhiên họ
không thể chiếm đoạt tồn bộ giá trị thặng dư đó mà phải cắt một phần để
nộp tô cho địa chủ. Là nhà tư bản kinh doanh trước hết họ phải đảm bảo thu
được lợi nhuận bình quân cho tư bản của họ bỏ ra. Và do đó để nộp tơ cho địa
chủ, họ còn phải bảo đảm thu được một số giá trị thặng dư vượt ra ngồi lợi
nhuận bình qn đó, một lợi nhuận siêu ngạch, khoản lợi nhuận siêu ngạch
này phải được bảo đảm thường xuyên và tương đối ổn định. Và bộ phận siêu
ngạch này là do công nhân nông ngiệp tạo ra, nộp cho địa chủ với tư cách là
kẻ sở hữu ruộng đất. Có khi địa chủ khơng cho th ruộng đất mà tự mình
th cơng nhân để khai thác ruộng đất của mình. Trong trường hợp này địa
chủ hưởng cả địa tô lẫn lợi nhuận.
Để làm rõ được bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa hơn, Mác đã so
sánh giữa địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến.
2.1. So sánh địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến
1.1.1.Sự giống nhau:
Trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế đồng thời
cả hai loại địa tơ này đều là kết quả của sự bóc lột đối với những người lao động.
1.1.2.Sự khác nhau
Hai loại địa tô này cũng khác nhau về mặt lượng và chất.
Về mặt lượng:
Địa tơ phong kiến gồm tồn bộ sản phẩm thặng dư do nơng dân tạo ra, có
khi cịn lan sang cả sản phẩm cần thiết.
Cịn địa tơ tư bản chủ nghĩa chỉ là một phần giá trị thặng dư ngồi lợi
nhuận bình qn của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
Về mặt chất:
- Địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp:
+Địa chủ
+ Nông dân
Trong đó giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột nơng dân.
- Cịn địa tơ tư bản chủ nghĩa phản ánh mối quan hệ giữa 3 giai cấp:
13
+Giai cấp địa chủ
+Giai cấp tư bản kinh doanh ruộng đất
+ Cơng nhân nơng nghiệp làm th
Trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột cơng nhân thơng qua tư bản hoạt động.
Nhưng cuối cùng Mác cũng kết luận rằng: “Dù hình thái đặc thù của địa tơ như
thế nào thì tất cả những loại hình của nó đều có một điểm chung là sự chiếm hữu
địa tơ là hình thái kinh tế dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện”.
Với kết luận này Mác đã khẳng định địa tơ chính là phương tiện, là cơng
cụ để bọn địa chủ bóc lột nơng dân, ai có ruộng, ai có đất thì được quyền thu địa
tơ tức là có quyền bóc lột sức lao động của người làm th.
Nếu nhìn vào bề ngồi, ta khơng thể thấy được sự bóc lột của địa chủ
đối với nông dân, thực chất là giúp chúng gián tiếp bóc lột thơng qua những
nhà tư bản kinh doanh ruộng đất, thuê đất của địa chủ để cho nông dân làm.
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao nhà tư bản lại có thể thu được phần giá
trị thặng dư dơi ra ngồi lợi nhuận bình quân để trả cho chủ ruộng đất.Việc
nghiên cứu địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối sẽ giải thích điều đó.
2.2. Các hình thức cơ bản của địa tô tư bản chủ
nghĩa
2.2.1.Địa tô chênh lệch
Trong nông nghiệp cũng như trong cơng nghiệp cũng đều phải có lợi
nhuận siêu ngạch. Nhưng trong công nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ là một
hiện tượng tạm thời đối với nhà tư bản nào có được điều kiện sản xuất tốt
hơn. Cịn trong nơng nghiệp thì ít nhiều có khác, lợi nhuận siêu ngạch hình
thành và tồn tại một cách tương đối lâu dài. Vì một mặt khơng thể tự tạo
thêm ruộng đất tốt hơn, gần nơi tiêu thụ nhưng có thể xây dựng được thêm
nhiều nhà máy tối tân hơn trong công nghiệp, mặt khác diện tích ruộng đất có
hạn và tồn bộ đất đai trồng trọt được đã bị tư nhân chiếm đoạt hết, và cũng có
nghĩa là đã có độc quyền kinh doanh những thửa ruộng màu mỡ, có vị trí
thuận lợi thì thu được lợi nhuận siêu ngạch một cách lâu dài.
Nhưng có phải chỉ có ruộng đất tốt hay ít nhất là ruộng đất trên mức
trung bình mới thu được lợi nhuận siêu ngạch không?
Về mặt này nông nghiệp cũng khác công nghiệp. Trong công nghiệp giá
trị hay giá cả sản xuất hàng hoá là do những điều kiện sản xuất trung bình
quyết định. Cịn trong nơng nhiệp, giá cả hay giá trị sản xuất của nông phẩm
lại do những điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Đó là vì nếu chỉ canh tác
những ruộng đất tốt và trung bình, thì khơng đủ nơng phẩm để thoả mãn nhu
cầu của xã hội nên phải canh tác cả những ruộng đất xấu, và do đó cũng phải
14
bảo đảm cho những nhà tư bản đấu tư trên những ruộng đất này có được lợi
nhuận bình qn .
Như vậy giá cả sản xuất của nông phẩm trên những ruộng đất có điều
kiện sản xuất xấu là giá cả sản xuất chung của xã hội nên nhà tư bản kinh doanh
trên những ruộng đất trung mình cũng thu được lợi nhuận siêu ngạch ngồi
lợi nhuận bình qn. Thưc chất thì địa tơ chênh lệch cũng chính là lợi nhuận
siêu ngạch, hay giá trị thặng dư siêu ngạch.
Vậy địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dơi ra ngồi lợi nhuận bình
quân, thu được trên những điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch
giữa giá cả chung của nông phẩm được quyết định bỏi điều kiện sản xuất trên
ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó
sinh ra là do có độc quyền kinh doanh ruộng đất nhưng bên cạnh đó lại có độc
quyền chiếm hữu ruộng đất, nên cuối cùng nó vẫn lọt vào tay chủ ruộng đất.
Cũng cần chú ý rằng không phải địa tô chênh lệch là sản phẩm do độ màu
mỡ ruộng đất sinh ra. Địa tơ chênh lệch cũng như tồn bộ giá trị thặng dư trong
nông nghiệp là do lao động thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Màu mỡ
ruộng đất chỉ là điều kiện tự nhiên hay cơ sở tự nhiên làm cho lao động của nông
dân có năng suất cao hơn, và là điều kiện khơng thể thiếu được để cho lợi nhuận
siêu ngạch hình thành ,cũng như địa tơ nói chung, khơng phải là do ruộng đất mà
ra, nó là do lao động đã bỏ vào ruộng đất và do giá cả của sản phẩm lao động
của nông phẩm ,chứ không phải do bản thân ruộng đất.
Mác nói: “Lực lượng tự nhiên ấy khơng phải là nguồn gốc sinh ra lợi
nhuận siêu ngạch, mà chỉ là cơ sở tự nhiên khiến có thể đặc biệt nâng cao
năng suất lao động lên”.
Sở dĩ Mác nói như vậy là vì nếu khơng có bàn tay con người, khơng có
sức lao động thì với điều kiện tự nhiên tốt cũng không thể tạo ra được nhiều lợi
nhuận nhưng với sức lao động có hạn của con người, nếu điều kiện tự nhiên tốt
sẽ thúc đẩy sản xuất nâng cao lợi nhuận siêu ngạch.
Chính lao động với năng suất cao đã làm cho nông phẩm thu được trên
một diện tích canh tác tăng lên, và giá cả sản xuất chung của một đơn vị
nông phẩm hạ xuống so với giá cả sản xuất chung của nơng phẩm, do đó mà
có lợi nhuận siêu ngạch. Sự hình thành của lợi nhuận siêu ngạch mà từ đó của
địa tơ chênh lệch, được minh hoạ bằng ví dụ sau đây:
Địa tơ chênh lệch có hai loại địa tơ
+ Địa tơ chênh lệch I;
+ Địa tô chênh lệch II.
Địa tô chênh lệch I
15
Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất màu mỡ.
Ngoài ra, ruộng đất có vị trí thuận lợi như ở gần nơi tiêu thụ hay đường giao
thông thuận tiện cũng đem lại địa tơ chênh lệch I, bởi vì ở gần nơi tiêu thụ
như thành phố, khu công nghiệp hay đường giao thông vận tải thuận tiện, sẽ
tiết kiệm được một phần lớn chi phí lưu thơng khi bán cùng một giá; những
người phải chi phí vận tải ít hơn đương nhiên được hưởng một khoản lợi nhuận
siêu ngạch so với những người phải chi phí vận tải nhiều hơn, do đó mà có địa
tơ chênh lệch.
Vị trí
Chi
Sản
Lợi
ruộng phí tư lượng nhuận
đất
bản
(tạ)
bình
(usd)
qn
(usd)
Chi phí
Tổng
Giá
Giá cả sản
Địa
vận
giá cả cả sản xuất chung
tô
chuyển sản xuất xuất cá
chênh
(usd)
cá biệt biệt 1 tạ
lệch I
Của
1
Của
(usd)
(usd)
tạ
TSL
(usd)
Gần thị
trường
100
5
40
0
140
28
31
155
15
Xa thị
trường
100
5
40
15
155
31
31
155
0
Địa tô chênh lệch II
Là do thâm canh mà có. Muốn vậy phải đầu tư thêm tư liệu sản xuất và
lao động trên cùng một khoảng ruộng đất, phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất
lượng canh tác để tăng năng suất ruộng đất và năng suất lao động lên.
Ví dụ
Lần đầu
tư
Tư bản
đầu tư
(usd)
Số lượng
(tạ)
Lần thứ 1
100
4
Lần thứ 2
100
5
Giá cả
sản xuất cá
biệt (usd)
Giá cả sản xuất
chung
địa tô
chênh lệc
II
Của 1
tạ(usd)
Của TSL
(usd)
25
25
100
0
20
25
125
25
Chừng nào thời hạn th đất vẫn cịn thì nhà tư bản bỏ túi số lợi nhuận
siêu ngạch trên. Nhưng khi hết hạn hợp đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách
nâng mức địa tơ lên để giành lấy lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành địa tơ
chênh lệch .
Vì lẽ đó, chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà
tư bản lại muốn thuê dài hạn.
16
Cũng vì lẽ đó nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp không muốn bỏ
ra số vốn lớn hơn để cải tiến kĩ thuật, cải tạo đất đai, vì làm như vậy phải mất
nhiều thời gian mới thu hồi được vốn về. Và rốt cuộc chủ đất sẽ là kẻ hưởng hết
lợi ích của những cải tiến đó. Và nhà tư bản thuê ruộng đất vì vậy chỉ nghĩ
làm sao tận dụng hết màu mỡ của đất đai trong thời gian thuê ruộng đất. Mục
đích thâm canh của họ là nhằm thu được thật nhiều lợi nhuận trong thời gian
kí kết hợp đồng,nên họ ra sức bòn rút hết màu mỡ đất đai. Mác nói: “Mỗi
bước tiến của cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những
trong nghệ thuật bóc lột người lao động, mà cịn là bước tiến trong nghệ thuật
làm cho đất đai ngày càng kiệt quệ; mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng
màu mỡ cho đất đai trong một thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá
những nguồn màu mỡ lâu dài của đất đai”. Một ví dụ điển hình là ở Mỹ trước
đây, chế độ canh tác bất hợp lí đã làm cho 16 triệu ha ruộng đất vốn màu mỡ
đã trở thành bạc màu hồn tồn.
2.2.2. Địa tơ tuyệt đối
Ngồi địa tơ chênh lêch địa chủ cịn thu được địa tô tuyệt đối trong khi
cho thuê ruộng đất.
Phần trên, khi nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta đã giả định là
người thuê đất xấu chỉ thu về chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình qn,
và khơng tính đến việc phải nộp địa tơ. Thực ra khơng phải như vậy, người
thuê ruộng đất dù là đất tốt hay xấu đều phải nộp địa tô cho chủ đất. Địa tô
mà các nhà tư bản thuê ruộng đất nhất thiết phải nộp “tuyệt đối” phải nộp dù
ruộng đất tốt, xấu như thế nào, là địa tô tuyệt đối. Vậy các nhà tư bản kinh
doanh trên ruộng đất lấy đâu mà nộp?
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa , nông nghiệp lạc hậu hơn công nghiệp, cả
về kinh tế lẫn kĩ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nơng nghiệp vì vậy
thấp hơn trong cơng nghiệp. Cho nên nếu tỉ suất giá trị thặng dư tức là trình
độ bóc lột ngang nhau từ một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong công nghiệp
nhiều giá trị thặng dư hơn trong nơng nghiệp.
Ví dụ: có hai tư bản nơng nghiệp và tư bản công nghiệp ngang nhau,
đều là 100 chẳng hạn; cấu tạo hữu cơ trong tư bản công nghiệp là 80c + 20v
(4/1), của tư bản nông nghiệp là 60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng dư đều
là 100% thì sản phẩm và giá trị thặng dư sản xuất ra sẽ là.
Trong công nghiệp : 80c + 20v + 20m = 120
Trong nông nghiệp : 60c + 40v + 40m = 140
Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 20m.
Nếu là trong cơng nghiệp thì số giá trị thặng dư này sẽ được đem chia
17
chung cho các nhà cơng nghiệp trong q trình bình qn hố tỉ suất lợi nhuận.
Nhưng trong nơng nghiệp điều đó khơng thể diễn ra được, đó là chế độ
độc quyền tư hữu ruộng đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vào
trong nơng nghiệp, do đó ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình qn chung
giữa nơng nghiệp và công nghiệp. Và như vậy, phần giá trị thặng dư dơi ra
ngồi lợi nhuận bình qn ( Nhờ cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp
thấp, bóc lột được của cơng nhân nơng nghiệp nhiều hơn) được giữ lại và dùng
để nộp địa tô tuyệt đối cho địa chủ.
Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch
dơi ra ngồi lợi nhuận bình quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ của tư bản
trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng
đất nào cũng phải nộp cho địa chủ. Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm
và giá cả thực tế hình thành nên do cạnh tranh trên thị trường.
Địa tơ tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất.Chính độc
quyền tư hữu ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nơng
nghiệp khơng bị đem chia đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển
hố thành địa tơ.
Về địa tơ tuyệt đối, Mác nói: “...bản chất của địa tô tuyệt đối là:
Những tư bản ngang nhau của chúng sinh sản những khối lượng giá trị thặng
dư khác nhau” .Do độc quyền về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt
đối, do cho nên nếu khơng có chế độ tư hữu về ruộng đất, khơng có giai cấp địa
chủ, thì địa tơ tuyệt đối sẽ bị xố bỏ, giá cả nơng phẩm sẽ giảm xuống có lợi
cho xã hội .
Tóm lại, nếu điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện
kinh tế do thâm canh đưa lại ) là điều kiện hình thành địa tơ chênh lệch và độc
quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tơ chênh
lệch ấy, thì điều kiện để hình thành địa tơ tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản
trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra
địa tô tuyệt đối là độc quyền tư hữu về ruộng đất.
Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối, nguồn gốc và bản chất
của địa tô cũng chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư, do lao động không công
của công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra. Nói cách khác ,địa tơ chỉ là
một hình thái đặc thù của giá trị thặng dư mà thôi .
Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà tư bản nơng nghiệp chính là cái xác
định tính qui định về mặt xã hội của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp,
nói lên tư bản nơng nghiệp là mối quan hệ bóc lột, gắn liền với một quan hệ
bóc lột khác của địa chủ do quyền tư hữu về ruộng đất sinh ra.
18
2.2.3.Các loại địa tơ khác
Ngồi những loại địa tơ trên cịn có các loại địa tơ khác như địa tơ về cây
đặc sản, địa tô về hầm mỏ, địa tô về các bãi cá, địa tô về đất rừng, thiên nhiên …
Địa tô về cây đặc sản
Là địa tô thu được trên những đám đất trồng những cây quí mà sản phẩm
có thể bán với giá độc quyền , tức là giá cao hơn giá trị. Người tiêu thụ
những sản phẩm trên phải trả địa tô này .
Địa tô hầm mỏ
Đất hầm mỏ_đất có những khống sản được khai thác cũng đem lại địa tô
chênh lệch và địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy.Địa tô hầm mỏ
cũng hình thành và được quyết định như địa tơ đất nông nghiệp.
Địa tô đất xây dựng
Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tơ đất nơng
nghiệp. Nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng:
+ Thứ nhất, trong việc hình thành địa tơ xây dựng,vị trí của đất đai là yếu tố
quyết định, cịn độ màu mỡ và trạng thái của đất đai không ảnh hưởng lớn.
+ Thứ hai, địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của
dân số, do nhu cầu về nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào
ruộng đất ngày càng tăng lên.
Địa tô độc quyền
Địa tô luôn luôn gắn liền với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm
các đIều kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá
cả độc quyền của nông sản. Tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những
loại cây cho những sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao (như những vườn nho có
thể cho những thứ rượu đặc biệt) hay có những khống sản đặc biệt có giá trị,
thì địa tơ của những đất đai đó sẽ rất cao, có thể xem đó là địa tơ độc quyền.
Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc
quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai ấy mà nhà tư bản phải nộp cho
địa chủ_người sở hữu những đất đai đó.
Các địa tơ như địa tơ về đất xây dựng, địa tô địa tô về hầm mỏ, địa tô
về các bãi cá, địa tô về đất rừng thiên nhiên ... tuy là địa tô thu được trên
những đám đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở của địa tô nông
nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô
tuyệt đối và địa tơ chênh lệch. Mác nói: “Bất kì ở đâu có những sức tự cho
nhà cơng nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy, chẳng kể đó là thác nước,
là hầm mỏ giàu khoáng sản, là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có
vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị
19
kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm
đoạt dưới hình thái địa tơ”.
CHƯƠNG III
VẬN DỤNG LÝ LUẬN ĐỊA TƠ CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ
VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
Đất đai, chính sách đất đai là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến nay, Cách mạng tháng Tám
1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cơng hịa - Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng đặt nền móng cho
ngành Quản lý đất đai Việt Nam dưới chế độ mới.
Vấn đề ruộng đất thuộc loại vấn đề chính trị và tác động đến sự phát
triển kinh tế – xã hội của các nước trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia
đang phát triển. “Chính sách đất đai có tầm quan trọng thiết yếu đối với tăng
trưởng bền vững, quản trị quốc gia hiệu quả, phúc lợi và các cơ hội kinh tế mở
ra cho người dân nông thôn và thành thị, đặc biệt là cho người nghèo”.
3.1. Tổng quan chính sách đất đai ở Việt Nam trước đổi mới
Giai đoạn 1945 - 1954
Thực hiện chính sách giảm tơ, tịch thu ruộng đất của thực dan Pháp, Việt
gian phản động chia cho nông dân nghèo, chia lại cơng điền cơng thổ.
Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 đã đề ra
nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc xâm lược
giành độc lập dân tộc và xóa bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông
dân ”. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công; nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời đánh đấu một kỷ nguyên mới độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc
cho nhân đân; đã đặt nền móng cho chính sách ruộng đất của Nhà nước dân chủ
nhân dân. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành sắc lệnh bãi bỏ thuế thân, thuế môn bài,
giảm tô, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp, Việt gian phản động chia cho
nông dân nghèo, chia lại công điền công thổ: ngày 20/10/1945 Chính phủ ra sắc
lệnh giảm tơ 25%; ngày 26/10/1945 Chính phủ ra Nghị định giảm thuế 20%.
Tháng 1/1948 Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng đã đề ra
các chính sách ruộng đất trong thời kỳ kháng chiến; tháng 2/1949 Chính phủ ra
sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian và chia ruộng đất của của thực dân
Pháp cho dân cày nghèo; ngày 14/7/1949 Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25% so
với mức tô trước Cách mạng tháng Tám; Tháng 3/1952 Chính phủ đã ban hành
điều lệ tạm thời về sử dụng đất công điền, công thổ. Đến thời điểm này số ruộng
đất công ở 3.035 xã miền Bắc đã chia cho nông dân là 184.871 ha, chiếm 77%
dện tích đất cơng điền, cơng thổ ở các địa phương này.
20
Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng
11/1953) đã thơng qua cương lĩnh ruộng đất. Luật Cải cách ruộng đất đã được
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa thơng qua ngày 4/10/1953. Theo
quy định củaLuật Cải cách ruộng đất, ruộng đất được chia cho nông dân theo
nguyên tắc:“thiếu nhiều chia nhiều, thiếu ít chia ít, không thiếu không chia;
chia trên cơ sở nguyên canh, rút nhiều bù ít, rút tốt bù xấu, rút gần bù xa; chia
theo nhân khẩu chứ không chia theo lao động; lấy số diện tích bình qn và sản
lượng bình quân ở địa phương làm tiêu chuẩn để chia; chia theo đơn vị xã,
xong nếu xã ít người, nhiều ruộng thì thì có thể san sẻ một phần cho xã khác ít
ruộng, nhiều người, sau khi chia đủ cho nông dân trong xã”.
Giai đoạn 1955 - 1975
Tháng 9/1954 Bộ Chính trị ra quyết định thực hiện hồn thành cải cách
ruộng đất và Kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955 - 1957); Tháng 5/1955
Quốc Hội ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất nơng nghiệp nhằm khôi
phục kinh tế sau chiến tranh (khi chiến tranh kết thúc, 140.000 ha ruộng đất bị
bỏ hoang hóa; 200.000 ha khơng có nước tưới); Tháng 8/1955 Hội nghị lần thứ
Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã thơng qua chủ trương xây
dựng thí điểm hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp (HTXSXNN).
Năm 1955 có 6 HTXSXNN được thành lập ở các tỉnh Phú Thọ, Thái
Nguyên, Thanh Hóa; Năm 1956 có 26 HTXSXNN được thành lập; đến 10/1957
có 42 HTXSXNN được thành lập.
Tháng 11/1958 Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa II đã đề ra kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế miền Bắc
(1958 - 1960): “Đẩy mạnh cuộc cách mạng XHCN đối với thành phần kinh tế
cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế
tư bản tư doanh, đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh”; “Hợp
tác hóa nơng nghiệp là cái khâu chính trong tồn bộ dây chuyền cải tạo XHCN
ở miền Bắc nước ta. Mục tiêu là đến năm 1960 phải căn bản hoàn thành HTX
bậc thấp, tức là phải thu hút được tuyệt đại bộ phận nông dân cá thể vào HTX”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: “đối với nông nghiệp, phương hướng là tiếp
tục thu hút nông dân cá thể vào HTX bậc thấp, từng bước chuyển lên bậc cao;
mở rộng quy mô HTX, kết hợp hoàn thiện quan hệ sản xuất với phát triển lực
lượng sản xuất. Q trình hợp tác hóa nơng nghiệp đã diễn ra nhanh chóng, với
sự tập trung cao độ ruộng đất, lao động và các tư liệu sản xuất; từ hợp tác xã bậc
thấp chuyển lên hợp tác xã bậc cao, ruộng đất đã được tập thể hóa triệt để, chế
độ sở hữu tập thể về ruộng đất đã được thiết lập”.
21
Năm 1965 Hội nghị lần thứ 11, 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
III đã đề ra nghị quyết chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức kinh tế, quốc phòng,
tiếp tục xây dựng CNXH trong điều kiện cả nước có chiến tranh; chủ trương tiếp
tục củng cố HTX nơng nghiệp. Quy mô HTX ngày càng mở rộng với mô hình
HTX liên thơn, HTX quy mơ tồn xã; trong đó HTX là đơn vị quản lý, đội sản
xuất là đơn vị nhận khoán với phương thức 3 khoán: khoán sản lượng, khốn lao
động, khốn chi phí, phân phối bình qn. Mơ hình HTX đã thích ứng với điều
kiện thời chiến, tuy nhiên phương thức điều hành theo lối hành chính đã phát
sinh yếu tố độc đoán, chuyên quyền, mệnh lệnh, vi phạm nguyên tắc dân chủ đã
kìm hãm sản xuất, nông dân vẫn không quan tâm đến hiệu quả sử dụng đất; sản
xuất trì trệ, đời sống tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Tháng 9 năm 1966 tại Vĩnh
Phúc đã xuất hiện hình thức ”khốn hộ”, thực chất là giao quyền sử dụng đất
cho hộ nông dân., tuy nhiên do trái với quy định chung đã bị phê phán và đình
chỉ.
Cuối năm 1974 Ban Bí thư ra chỉ thị 208/CT-TƯ về tổ chức lại sản xuất,
cải tiến quản lý nông nghiệp.Việc cải tiến quản lý HTX nông nghiệp được xác
định là “Xây dựng HTX thành đơn vị kinh tế thống nhất quản lý, thống nhất
điều hành, thống nhất kinh doanh, thống nhất phân phối. Tổ chức lại sản xuất,
tiến hành phân cơng lại lao động mới, hình thành các đội sản xuất cơ bản, các
đội chuyên (đội giống, đội thủy lợi, đội cầy, đội bảo vệ thực vật, đội làm
phân...). Ban quản trị HTX điều hành các hoạt động của đội sản xuất theo theo
một kế hoạch đã được xây dựng sẵn”.
Nghị quyết 24 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III tháng 9/1975
đã xác định chủ trương: “Triệt để xóa bỏ tàn dư chế độ thực dân phong kiến về
ruộng đất” với phương hướng: “Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo XHCN đối với
nông nghiệp với xây dựng nền nông nghiệp lớn XHCN, một mặt xây dựng các
nông trường quốc doanh… mặt khác phải thực hiện hợp tác hóa nơng nghiệp,
làm từng bước tích cực, vững chắc”. Thực hiện Nghị quyết 24 - Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa III), đến năm 1978 ở các tỉnh miền Trung đã xây dựng
được 114 HTX nông nghiệp với 90% ruộng đất, 80% trâu bò và các tư liệu sản
xuất khác đã được tập thể hóa; Ở Tây Nguyên xuất hiện chủ yếu hình thức các tổ
hợp tác lao động và tập đồn sản xuất; ở Nam Bộ thí điểm xây dựng HTX ở Tân
Hội (Tiền Giang), Ơ mơn (Hậu Giang), Long Thàng (Đồng Nai);Mơ hình tập thể
hóa nơng nghiệp đã đạt đến đỉnh cao, hồn chỉnh, phân cơng lao động trong
HTX nơng nghiệp theo hướng chun mơn hóa.
Giai đoạn 1976 - 1985
22
Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV tháng 12 năm 1976 quyết
định đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước. Chủ trương xây dựng
cấp huyện, hồn thiện xây dựng HTX quy mơ tồn xã, tổ chức nông nghiệp sản
xuất lớn được tiếp tục khẳng định: “Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo
hướng tập trung, xóa bỏ kiểu tổ chức sản xuất và ăn chia theo đội. Thực hiện
việc quản lý, sử dụng ruộng đất tập trung, thống nhất trên quy mô HTX. Các
HTX phân phối lại ruộng đất cho các đội trên nguyên tắc tiện canh tiện cư với
quy mô lớn, tránh phân tán, chia sẻ ruộng đất manh mún”; “Chuyển sản xuất
tập thể từ kiểu làm ăn phân tán, tự cấp tự túc sang sản xuất theo quy hoạch và
kế hoạch thống nhất của huyện”; “Về cải tiến quản lý, tổ chức lao động theo
hướng tập trung, dưới sự điều hành thống nhất của ban quản trị HTX. Trên cơ
sở định mức lao động, xếp bậc cơng việc, tiêu chuẩn tính cơng, HTX xây dựng
kế hoạch 3 khoán”.
Thực hiện Chỉ thị 57/CT-TƯ ngày 14/3/1978 Bộ Chính Trị “về việc nắm
vững và đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp miền Nam” và Chỉ thị 43 CTTƯ ngày 15/11/1978 Bộ Chính Trị “ về việc xóa bỏ các hình thức bóc lột của
phú nơng, tư sản nơng thơn và tàn dư bóc lột phong kiến, thực sự phát huy
quyền làm chủ của nông dân lao động, đẩy mạnh cải tạo XHCN đối với nông
nghiệp ở các tỉnh phía Nam”
Ngày 13/1/1980 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 100
về “Cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và người lao
động trong HTX nơng nghiệp”. Chỉ thị nêu rõ: “HTX nông nghiệp phải quản lý
chặt chẽ và sử có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, sức kéo,
phân bón, các cơng cụ và cơ sở vật chất kỹ thuật của tập thể”; “Tổ chức tốt việc
giao diện tích ruộng đất cho đội sản xuất, cho nhóm và người lao động sử dụng
để thực hiện sản lượng khoán, tránh để đồng ruộng bị chia cắt manh mún, khi
diện tích giao khốn cho người lao động được phân bố hợp lý, thì có thể ổn định
vài ba năm để xã viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó”. Chỉ thị 100 của
Ban Bí thư đã tạo cho xã viên được quyền sử dụng đất trong khn khổ rộng rãi
hơn, thiết thực và gắn bó hơn với lợi ích của người lao động, một mốc son có ý
nghĩa về chính sách ruộng đất nơng nghiệp thời kỳ này.
Ngày 3/5/1983 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 19 “về
hoàn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo XHCN với nông nghiệp ở
các tỉnh Nam Bộ”
Ngày 29/11/1983 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 29CT-TW về việc đẩy mạnh giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh
doanh theo phương thức nông lâm kết hợp, chủ trương giao đất, giao rừng cho
23
hộ nơng dân nhằm khuyến khích nơng dân trồng rừng trên đất trống, đồi núi
trọc; nông dân được quyền thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công
nghiệp dài ngày.
Ngày 18/1/1984 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 35/CTTW “về khuyến khích và hướng dẫn phát triển kinh tế gia đình”:“Về đất cho
phép các hộ gia đình nơng dân tận dụng mọi nguồn đất đai mà HTX, nông lâm
trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản xuất”; “Về thuế, nhà nước không đánh
thuế sản xuất, kinh doanh đối với kinh tế gia đình, chỉ đánh thuế sát sinh và đất
thuộc; đất phục hóa được miễn thuế nông nghiệp”; “Về lưu thông, hộ gia đình
nơng dân được quyền tiêu thụ các sản phẩm làm ra”.
Ngày 29/1/1985 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 56 về
việc củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn miền núi, cho phép áp dụng linh hoạt
các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao; ở vùng núi cao, không nhất thiết
tổ chức HTX mà phát triển kinh tế hộ gia đình và thiết lập quan hệ nhà nước nông dân theo đơn vị bản, bn; trong HTX áp dụng hình thức khốn gọn cho
hộ xã viên.
3.2. Thực trạng chính sách đất đai thời kỳ đổi mới kinh tế
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặc phát triển
trong đời sống kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Sự đổi mới trong tư duy kinh tế góp
phần chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và tạo nên diện mạo mới của đất nước, con người Việt
Nam hơm nay.
Q trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường là
tất yếu khách quan phù hợp với tình hình thực tiễn trong và ngồi nước. Nó đáp
ứng kịp thời tính thúc bách của hoàn cảnh lúc bấy giờ: siêu lạm phát, thất nghiệp
tăng cao, sản xuất đình đốn, lưu thơng ngưng trệ, cán cân thương mại thâm
hụt… hầu hết các chỉ số vĩ mơ đều dưới mức an tồn, đời sống kinh tế – xã hội
khủng hoảng nghiêm trọng.
Khởi đầu cho công cuộc chuyển đổi ở Việt Nam là các chính sách, pháp
luật đất đai trong nông nghiệp nông thôn được đánh dấu từ Chỉ thị 100, năm
1981 của Ban Bí thư hay cịn gọi là “Khốn 100” với mục đích là khoán sản
phẩm đến người lao động đã tạo ra sự chuyển biến tốt trong sản xuất nông
nghiệp. Sau kết quả khả quan của “Khoán 100” năm 1988, Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị đã có bước đột phá quan trọng khi lần đầu tiên thừa nhận các hộ gia
đình là đơn vị kinh tế tự chủ.
24
Luật Đất đai ra đời năm 1993 nhằm thể chế hóa các chính sách đất đai đã
ban hành, đồng thời, qui định và điều chỉnh các quan hệ kinh tế – xã hội theo
hướng dài hạn.
Nhờ những đột phá quan trọng trong các chính sách đất đai đã mang lại
những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn và tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam gần 20 năm qua góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
Tuy nhiên, chính sách đất đai mới chủ yếu điều chỉnh các quan hệ kinh tế
– xã hội và ruộng đất trong nông nghiệp nông thôn. Trong khi nền kinh tế thị
trường hiện đại địi hỏi chính sách đất đai bao quát rộng và toàn diện trên các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đầu tư, du lịch, qui hoạch, giao thơng, kinh doanh
bất động sản… chứ khơng bó hẹp trong nơng nghiệp, nơng thơn. Vì vậy, trong
những năm gần đây, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, nhu cầu sử dụng,
chuyển nhượng, kinh doanh đất đai ở các lĩnh vực, các vùng ngày càng lớn đã
phát sinh nhiều vấn đề mà chính sách đất đai khó giải quyết. Đặc biệt, thị trường
bất động sản trong thời gian qua biến động khó lường gây lúng túng nhiều phía
từ các tầng lớp dân cư, nhà đầu tư và cả những người làm chính sách. Vì sao
vậy? Có phải chăng là do cơ chế thị trường biến động hay là kết quả tất yếu của
nền kinh tế đang trở mình phát triển nhưng bị ràng buộc bởi cơ chế đất đai
không phù hợp?
Tình hình trên đã được các cấp chính quyền địa phương (tùy theo tình
hình cụ thể) đưa ra cách giải quyết khác nhau, thậm chí tùy tiện gây bất bình
trong dư luận. Nhìn chung, các giải pháp đó chỉ mang tính tình thế. Trước tình
hình đó, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo, ban hành và chỉnh sửa các điều khoản
của Luật Đất đai (Luật Đất đai sửa đổi năm 1998, 2001); và các văn bản dưới
luật khác cho phù hợp.
Vấn đề đặt ra là đã đến lúc cần đánh giá nghiêm túc và tồn diện vai trị, ý
nghĩa của chính sách đất đai trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế, làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách đất đai phù
hợp với thời kỳ chuyển đổi kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
3.2.1. Giai đoạn triển khai về chính sách đất đai
Đây là thời kỳ mơ hình kinh tế tập trung bao cấp bộc lộ một cách toàn
diện mặt tiêu cực của nó, mà hậu quả là cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu sắc
vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Đầu thập niên 1980, sản xuất lương
thực không đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân, hàng năm vẫn phải
nhập trên 1 triệu tấn lương thực.
25