Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Dịch vụ Logistics Bất cập và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.13 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Logistics là dịch vụ có cái tên rất mới mẻ đối với nhiều người Việt Nam. Nhưng
có một vai trị rất quan trọng đối với q trình sản xuất – kinh doanh của một ngành và
cả nền kinh tế. Với doanh số hàng tỷ đô la thu về mỗi năm, dịch vụ này đang trở thành
một hoạt động hấp dẫn rất nhiều các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các
doanh nghiệp nước ngoài đã đem đến một thị trường sôi động cho hoạt động dịch vụ
này tại Việt Nam. Dịch vụ logistics là một trong 12 nhóm ngành ưu tiên trong cộng
đồng kinh tế ASEAN. Khi nước ta mở cửa thị trường này theo như cam kết thì việc xây
dựng một hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp là một điều vơ cùng quan trọng.
Nó khơng chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh dịch
vụ logistics mà còn giúp cho nước ta tận dụng được cơ hội từ việc hội nhập thị trường
này, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về
dịch vụ logistics ở Việt Nam có một ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho chúng ta có một
cái nhìn tổng qt về hệ thống pháp luật điều chỉnh loại hình dịch vụ này, từ đó có
những định hướng để hồn thiện pháp luật hơn.
Sau đây em xin đi vào phân tích một khía cạnh trong những quy định của pháp
luật về dịch vụ Logicstics, đó là “Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistic. Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện”.


Chương 1. Những vấn đề cơ bản của dịch vụ logistic ở Việt Nam.
1. Khái niệm và phân loại dịch vụ logistics.
1.1. Khái niệm về logistics.
Dịch vụ logistics đã xâm nhập vào nước ta khá lâu nhưng người Việt ta chưa
thật sự quen với thuật ngữ này, mặc dù đâu đó trong các trang mục quảng cáo về dịch
vụ giao nhận, tuyển dụng nhân viên… có đề cập đến dịch vụ logistic, nhân viên


logistic…
Theo quy định tại Điều 233 của Luật thương mại (LTM) 2005: “Dịch vụ
logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc
nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi mã ký hiệu,
giao hàng hoặc các dịch vụ khác liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách
hàng để hưởng thù lao”. Như vậy nói một cách đơn giản, dịch vụ logistics là việc thực
hiện và kiểm sốt hàng hố cùng những thơng tin có liên quan từ nơi hình thành nên
hàng hố đến nơi tiêu thụ hàng hoá cuối cùng.
1.2. Phân loại dịch vụ logistics.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà có nhiều cách phân loại dịch vụ logistics
khác nhau. Theo Điều 4 Nghị Định số 140/2007/ NĐ-CP thì dịch vụ logistic được phân
loại như sau:


Thứ nhất, Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:

- Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
- Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi
container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
- Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế
hoạch bốc dỡ hàng hóa;
- Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin
liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi logistics; hoạt động
xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt
và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.


Thứ hai, Các dịch vụ logistic liên quan đến vận tải, bao gồm:


- Dịch vụ vận tải hàng hải;


- Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
- Dịch vụ vận tải hàng không;
- Dịch vụ vận tải đường sắt;
- Dịch vụ vận tải đường bộ.
- Dịch vụ vận tải đường ống.


Thứ ba, Các dịch vụ logistic liên quan khác, bao gồm:

- Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
- Dịch vụ bưu chính;
- Dịch vụ thương mại bán buôn;
- Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập
hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
- Các địch vụ hỗ trợ vận tải khác.
2. Đặc trưng của dịch vụ logistics


Thứ nhất, chủ thể của quan hệ dịch vụ bao gồm 2 bên: Người làm dịch vụ logistics
và khách hàng. Người làm dịch vụ phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh dịch vụ
logistics. Thủ tục đăng ký kinh doanh được thực hiện theo các đạo luật đơn hành, phụ
thuộc vào hình thức pháp lý của thương nhân. Khách hàng là những người có hàng hố
cần gửi hoặc cần nhận và có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics. Như vậy khách hàng có
thể là thương nhân, hoặc khơng phải là thương nhân, có thể là chủ sở hữu hàng hố
hoặc khơng phải là chủ sở hữu hàng hoá.




Thứ hai, Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc như:
- Nhận hàng từ người gửi để tổ chức việc vận chuyển; đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu,
chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm giao hàng khác
theo thoả thuận giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển.
- Làm các thủ tục, giấy tờ cần thiết ( thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển, làm thủ tục
gửi giữ hàng hoá…) để gửi hàng hoá hoặc nhận hàng hoá được vận chuyển đến.
- Giao hàng hóa cho người vận chuyển; xếp hàng hoá lên phương tiện vận chuyển theo
quy định; nhận hàng hoá được vận chuyển đến.
- Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi bảo quản hàng hoá hoặc thực hiện việc giao
hàng hoá được vận chuyển đến đến cho người có quyền nhận hàng


Thứ ba, Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ. thương nhân kinh doanh dịch
vụ này được khách hàng trả tiền cơng và các khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung
ứng.
Chương 2. Quy định cơ bản của pháp luật hiện hành về dịch vụ logistics.
1. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics ở Việt Nam
Dịch vụ logistics được điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh
vực cụ thể:


Thứ nhất, Luật thương mại 2005, từ Điều 233 đến Điều 240 và Nghị Định số
140/2007/ NĐ-CP ngày 05/9/2007 quy định chi tiết LTM về điều kiện kinh doanh dịch
vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.



Thứ hai, Các quy định pháp luật liên quan điều chỉnh dịch vụ logistics: gồm có các
quy định chung như bộ luật dân sự, luật doanh nghiệp, luật Hải quan…, các quy định

chuyên ngành như luật đường sắt, luật giao thông đường bộ, luật giao thông đường
thủy nội địa….
2. Quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.

Tại Điều 234 LTM 2005 chỉ quy định rất chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ
logistics cụ thể: thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật, Chính phủ quy định chi tiết điều kiện
kinh doanh dịch vụ logistics trong các văn bản hướng dẫn thi hành
Nghị định 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về điều
kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics ban hành được coi là hành lang pháp lý quan trọng để phát triển
loại hình dịch vụ này tại Việt Nam.
 Đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ logistics chủ yếu: Theo quy định tại

Điều 5 của Nghị định này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải đáp ứng
các điều kiện sau:
“ 1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
2. Có đủ phương tiện, thiết bị, cơng cụ đảm bảo tiêu chuẩn an tồn, kỹ thuật, và có đội
ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu.


3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện
quy định tại khoản 2 điều này chỉ được kinh doanh dịch vụ logistics khi tuân thủ các
điều kiện cụ thể sau đây:
a, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hố thì chỉ được thành lập cơng ty liên
doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi khơng q 50%
b, Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì thành lập cơng ty liên doanh, trong đó tỷ
lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi khơng q 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm
2014;

c, trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập cơng ty liên doanh,
trong đó tỷ lện góp vốn của nhà đầu tư nước ngồi khơng q 51%, được thành lập
công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi kể từ năm
2014;
d, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập cơng ty liên doanh,
trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngồi khơng quá 49%; hạn chế này là 51%
kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.”
3. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quy
định tại điều 235 bộ luật thương mại 2005.
Bên làm dịch vụ logistics là bên nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm
thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký,
mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hố để hưởng thù lao.
Bên làm dịch vụ logistics có các quyền và nghĩa vụ theo thoả thuận trong hợp đồng.
3.1. Quyền của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:


Quyền được hưởng thù lao và chi phí về việc thực hiện dịch vụ:

Bên làm dịch vụ logistics được quyền hưởng thù lao và các chi phi hợp lý khác
phục vụ cho việc thực hiện dịch vụ logistics. Mức thù lao dịch vụ do các bên thỏa
thuận và ghi trong hợp đồng. Mức thù lao này có thể được xác định theo số tiền tuyệt
đối hoặc theo tỉ lệ trên giá hàng hóa. Mức thù lao do các bên thỏa thuận và phụ thuộc
vào nội dung, mức độ phức tạp của công việc giao nhận hàng hóa mà khách hàng ủy
thác cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa thực hiện. Ngồi tiền thù lao, người
làm dịch vụ logistics có thể yêu cầu khách hàng thanh tốn các khoản chi phí hợp lí
liên quan đến việc thực hiện dịch vụ nếu điều này được các bên thỏa thuận trong hợp
đồng. Trường hợp các bên trong hợp đồng khơng có thoả thuận hoặc thoả thuận không



rõ ràng thì thù lao được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong điều kiện
tương tự về phương thức cung ứng, địa điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức
thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ (Điều 86 Luật thương
mại).


Quyền được hưởng thù lao:

Mức thù lao dịch vụ do các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng.Mức thù lao
này có thể được xác định theo số tiền tuyệt đối hoặc theo tỉ lệ trên giá hàng hóa. Mức
thù lao do các bên thỏa thuận và phụ thuộc vào nội dung,mức độ phức tạp của công
việc giao nhận hàng hóa mà khách hàng ủy thác cho người làm dịch vụ giao nhận hàng
hóa thực hiện.
Ngồi tiền thù lao, người làm dịch vụ logistics có thể yêu cầu khách hàng thanh
tốn các khoản chi phí hợp lí liên quan đến việc thực hiện dịch vụ nếu điều này được
các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Để đảm bảo nghĩa vụ thanh tốn tiền thù lao và các khoản chi phí hợp lí khác,
người làm dịch vụ logistics có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa.Theo quy định tại
điều 239 Luật thương mại năm 2005 thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa có
quyền cầm giữ số hàng hóa nhất định và các chứng từ liên quan đến hàng hóa để đòi
tiền nợ đã đến hạng của khách hàng. Cụ thể pháp luật quy định thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số lượng hàng hố nhất định và các
chứng từ liên quan đến số lượng hàng hố đó để địi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng
nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng.Tuy nhiên, quyền cầm giữ
hàng hóa chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau đây:
– Khách hàng khơng thanh tốn nợ đã đến hạng thanh tốn(ví dụ khách hàng khơng
thanh tốn thù lao dịch vụ và các khoản chi phí hợp lí khác theo sự thỏa thuận của các
bên) cho người làm dịch vụ;
– Người làm dịch vụ chỉ được quyền cầm giữ số hàng hóa có giá trị tương đương với
giá trị nợ mà khách hàng chưa thanh tốn mà thơi.

– Người làm dịch vụ phải thông báo bằng văn bản ngay cho khách hàng về việc cầm
giữ hàng hóa.


Quyền định đoạt hàng hóa cầm giữ của người làm dịch vụ logistics chỉ phát sinh
nếu sau thời hạn 45 ngày, kể từ ngày cầm giữ hàng hóa mà khách hàng vẫn khơng
thanh tốn nợ cho người làm dịch vun giao hàng nhận hàng hóa. Đối với hàng hóa có
dấu hiệu hư hỏng thì quyền định đoạt hàng hóa phải phát sinh ngay khi có bất kì khoản
nợ nào của khách hàng.


Việc định đoạt hàng hóa cầm giữ phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện
hành. Trước khi định đoạt hàng hóa người làm dịch vụ logistics phải thơng báo bằng
văn bản về việc định đoạt hàng hóa để thu hồi nợ cho khách hàng biết.
Các chi phí liên quan đến việc cầm giữ và định đoạt hàng hóa do khách hàng
chịu. Số tiền thu được do định đoạt hàng hóa, sau khi trừ đi các khoản chi phí được sử
dụng để thanh toán cho các khoản nợ của khách hàng. Số tiền còn lại thuộc về khách
hàng.
Trường hợp cầm giữ và định đoạt hàng hóa sai trái gây thiệt hại cho khách hàng
thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa phải bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ được sử dụng số tiền thu được từ
việc định đoạt hàng hoá để thanh toán các khoản mà khách hàng nợ mình và các chi
phí có liên quan; nếu số tiền thu được từ việc định đoạt vượt quá giá trị các khoản nợ
thì số tiền vượt quá phải được trả lại cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó, thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá hoặc chứng
từ đã được định đoạt.


Khi chưa thực hiện quyền định đoạt hàng hoá theo quy định tại Điều 239 của Luật

thương mại năm 2005 thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm
giữ hàng hố có các nghĩa vụ cụ thể sau đây:
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hố có
nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn hàng hố.
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hố có
nghĩa vụ khơng được sử dụng hàng hố nếu khơng được bên có hàng hoá bị cầm giữ
đồng ý.
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hoá có
nghĩa vụ trả lại hàng hố khi các điều kiện cầm giữ, định đoạt hàng hoá quy định tại
Điều 239 của Luật thương mại năm 2005 khơng cịn.
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hố có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bên có hàng hố bị cầm giữ nếu làm mất mát hoặc hư
hỏng hàng hoá cầm giữ.



Quyền cầm giữ và định đoạt hàng hoá:


Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao và các khoản chi phí hợp lí khác,
người làm dịch vụ logistics có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa theo quy định tại
điều 239 luật thương mại năm 2005:
Theo đó, bên làm dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số lượng hàng hoá
nhất định và các chứng từ liên quan đến hàng hố để địi tiền nợ đã đến hạn của khách
hàng nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng biết. Khi bên làm dịch
vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hoá mà chưa thực hiện quyền định đoạt
hàng hố đó, thì phải có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn hàng hố, khơng được sử dụng
hàng hố nếu khơng được bên có hàng hoá bị cầm giữ đồng ý; bồi thường thiệt hại cho
bên có hàng hố bị cầm giữ nếu làm mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá cầm giữ và trả lại
hàng hoá khi điều kiện cầm giữ, định đoạt hàng hố khơng cịn.

Sau thời hạn 45 ngày, kể từ ngày thơng báo cầm giữ hàng hố hoặc chứng từ
liên quan đến hàng hố, nếu khách hàng khơng trả tiền nợ thì bên làm dịch vụ logistics
có quyền định đoạt hàng hố hoặc chứng từ đó theo quy định của pháp luật và phải
thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hố đó; mọi chi phí cầm
giữ và định đoạt hàng hoá do khách hàng chịu. Trong trường hợp hàng hố có dấu hiệu
bị hư hỏng, quyền định đoạt hàng hoá của bên làm dịch vụ logistics sẽ phát sinh ngay
khi có bất kỳ khoản nợ nào của khách hàng, nhưng với điều kiện người làm dịch vụ
giao nhận hàng hố đã thơng báo cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hoá.
Bên làm dịch vụ logistics được sử dụng số tiền thu được từ việc định đoạt hàng
hoá để thanh toán các khoản nợ mà khách hàng nợ mình và các chi phí có liên quan.
Nếu số tiền thu được từ việc định đoạt vượt quá giá trị các khoản nợ thì số tiền vượt
quá phải được chuyển trả cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó, bên làm dịch vụ
logistics hết trách nhiệm đối với hàng hoá hoặc chứng từ đã được định đoạt.
3.2. Nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:


Thực hiện công việc theo đúng thỏa thuận với khách hàng:

Đây là nghĩa vụ cơ bản nhất của người làm dịch vụ logistics. Người thực hiện
dịch vụ phải thực hiện các cơng việc liên quan đến hàng hóa đóng gói, kí mã hiệu, giao
hoặc nhận hàng hóa theo đúng những điều kiện đã thỏa thuận với khách hàng. Các điều
kiện này có thể được ghi nhận trong hợp đồng kí giữa người làm dịch vụ với khách
hàng hoặc được khách hàng hướng dẫn cụ thể trên cơ sở quy định chung của hợp đồng.
Người làm dịch vụ được quyền từ chối thực hiện những hướng dẫn không phù hợp với
các điều kiện của hợp đồng dịch vụ logistics đã kí kết với khách hàng hoặc những
hướng dẫn trái pháp luật.


Trong trường hợp các bên khơng có sự thoả thuận thì bên làm dịch vụ logistics
phải có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ logistics theo sự chỉ dẫn của khách hàng.

Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc khơng thực hiện được một phần hoặc
tồn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thơng báo ngay cho khách hàng để xin
chỉ dẫn:
Nếu việc thực hiện đúng các chỉ dẫn của khách hàng có nguy cơ gây thiệt hại
cho họ thì người làm dịch vụ phải kịp thời thông báo cho khách hàng để xin chỉ dẫn
mới. Trong những tình thế cấp bách, để ngăn chặn thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra cho
khách hàng, người làm dịch vụ logistics có thể thực hiện các cơng việc không theo chỉ
dẫn của khách hàng nhưng phải thông báo kịp thời cho khách hàng biết. Trường hợp
không thông báo kịp thời, người làm dịch vụ có thể phải chịu trách nhiệm tài sản đối
với những thiệt hại phát sinh do không thực hiện đúng chỉ dẫn của khách hàng.
Trường hợp khơng có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với
khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thực hiện các nghĩa vụ
của mình trong thời hạn hợp lý.


Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.



Thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics không phải chịu trách nhiệm về những
tổn thất đối với hàng hóa trong những trường hợp sau:
 Thứ nhất, theo Điều 294 Luật Thương mại, ta có:

Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước

có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
Vậy, thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics đầu tiên được miễn trách nhiệm về tổn
thất hàng hóa khi xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận, xảy ra
sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia, hành


vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Để được miễn trách nhiệm trong các trường hợp trên, thương nhân kinh doanh
dịch vụ Logistics phải thực hiện việc thông báo và xác nhận trường hợp miễn trách
nhiệm như sau:
- Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp
được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.
- Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo
ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thơng báo khơng kịp
thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
- Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách
nhiệm của mình.
 Thứ hai, theo Điều 237 Luật Thương mại, ta có:

Điều 237. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics
1. Ngoài những trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về những tổn
thất đối với hàng hoá phát sinh trong các trường hợp sau đây:
a) Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
b) Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng theo
những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
c) Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá;

d) Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp
luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức vận tải;
đ) Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về khiếu nại
trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
giao hàng cho người nhận;
e) Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được
thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tồ án trong thời hạn chín tháng, kể từ
ngày giao hàng.


2. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về việc mất
khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ
logistics sai địa điểm không do lỗi của mình.
Vậy việc tổn thất đối với hàng hóa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
không phải chịu trách nhiệm gồm 6 điểm trong Điều 237 Luật Thương mại 2005: tổn
thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền, tổn thất phát
sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng theo những chỉ dẫn của
khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền, tổn thất là do khuyết tật của
hàng hoá, tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định
của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức
vận tải, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về khiếu
nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
giao hàng cho người nhận và sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tồ án trong
thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng.
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, tồn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất tồn bộ
hàng hóa. Chính phủ quy định chi tiết giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán quốc tế.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn trách

nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh được
sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics cố ý hành động hoặc không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng, chậm trễ
hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiểm và biết rằng sự mất mát,
hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn xảy ra.
4. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.
Được quy định tại Điều 236 bộ luật thương mại trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác.
Khách hàng là người sử dụng dịch vụ logistics. Khách hàng có quyền hướng
dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng đã ký kết. Khi bên làm dịch vụ
logistics vi phạm hợp đồng đã ký kết, khách hàng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại. Tuy nhiên, trong thời hạn 14 ngày kí từ ngày bên làm dịch vụ logistics giao hàng
cho người nhận, khơng tính ngày chủ nhật và ngày lễ nếu khách hàng không thực hiện
việc thông báo khiếu nại và trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày đó mà khách hàng khơng
khởi kiện tại Trọng tài hoặc Tịa án thì sẽ mất quyền được yêu cầu đền bù thiệt hại.


Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khách hàng phải có nghĩa vụ cung cấp đầy
đủ chỉ dẫn cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa; thơng tin đầy đủ, chi tiết, chính
xác và kịp thời về hàng hóa cho bên làm dịch vụ logistics. Khách hàng phải có nghĩa
vụ đóng gói, ghi ký, mã hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa, trừ trường
hợp có thỏa thuận để bên làm dịch vụ logistics đảm nhận công việc này.
Nếu bên làm dịch vụ logistics đã thực hiện đúng chỉ dẫn của khách hàng hoặc
do lỗi của khách hàng mà gây ra thiệt hại thì khách hàng phải bồi thường thiệt hại,
đồng thời phải trả các chi phí phát sinh cho bên làm dịch vụ logistics nếu có.
Khách hàng phải có nghĩa vụ thanh tốn mọi khoản tiền đã đến hạn cho bên làm
dịch vụ logistics theo thỏa thuận. Khoản tiền đó có thể bao gồm thủ lao và chi phí có
liên quan đến việc làm dịch vụ như đóng gói hàng hóa, ghi ký hiệu, mã hiệu... mà
người làm dịch vụ thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Khi khách hàng chứng minh được những trường hợp tổn thất do mất mát, hư

hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do bên làm dịch vụ logistics đã hành động hoặc không
hành động với chủ ý gây ra mất mát, hư hỏng, chậm trễ hoặc đã hành động hoặc không
hành động một cách mại hiểm và biết rằng sự mất mát, hư hỏng, chậm trễ đó chắc chắn
xảy ra, thì khách hàng có quyền u cầu bên làm dịch vụ logistics bồi thường thiệt hại.
Chương 3. Một số vấn đề bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về dịch vụ logistics.
1. Những vấn đề bất cập về dịch vụ logistics

Quy định khái niệm “dịch vụ logistics” ở Việt Nam chưa thể hiện rõ bản chất
của dịch vụ logistics, thiếu quy định về dịch vụ E - logistics
1.1. Về khái niệm “dịch vụ logistics”.
Một thương nhân được coi là cung ứng dịch vụ logistics khi thương nhân đó
thực hiện một số các hoạt động khác nhau nhằm hỗ trợ các hoạt động mua bán hàng
hóa hoặc dịch vụ hậu cần liên quan đến hàng hóa. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều
233 Luật Thương mại 2005, thương nhân chỉ cần thực hiện một trong các hành vi quy
định tại điều này đã là thực hiện dịch vụ logistics.


Sơ đồ trên cho thấy logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là một
chuỗi các hoạt động liên tục, có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, bao
trùm mọi yếu tố tạo nên sản phẩm, từ việc nhập nguyên liệu đầu vào cho đến giai đoạn
tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Các nguồn tài nguyên đầu vào không chỉ bao gồm vốn,
vật tư, nhân lực mà cịn bao hàm cả dịch vụ, thơng tin và công nghệ. Các hoạt động này
cũng được phối kết hợp trong một chiến lược kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp từ
tầm hoạch định đến thực thi tổ chức và triển khai đồng bộ từ mua, dự trữ, tồn kho, bảo
quản, vận chuyển đến thơng tin, bao bì, đóng gói… Nhờ vào sự kết hợp này, các hoạt
động kinh doanh được hỗ trợ một cách tối ưu, nhịp nhàng và hiệu quả, tạo ra được sự


thỏa mãn khách hàng ở mức độ cao nhất hay mang lại cho họ những giá trị gia tăng lớn

hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Ví dụ: Cơng ty X thỏa thuận với công ty Y (kinh doanh dịch vụ logistics) về
việc vận chuyển hóa chất từ kho đến cảng để xuất khẩu. Công ty Y tổ chức theo
phương án: đóng bao kiện hàng, vận chuyển kiện hàng từ kho công ty X đến bãi
contanier cảng, làm thủ tục thông kho tại kho cảng và xuất khẩu theo đường biển. Như
vậy, công ty Y đã thực hiện một số các hoạt động khác nhau nhằm hỗ trợ công ty X
trong hoạt động mua bán hàng hóa, chứ khơng đơn thuần là hoạt động vận chuyển
hàng hóa.
Vậy, nếu theo tinh thần tại Điều 233 LTM 2005, thương nhân chỉ cần thực hiện
một trong các hành vi quy định tại điều này đã là thực hiện dịch vụ logistics thì chưa
đúng thực tế. Tham khảo các quy định về dịch vụ logistics ở các nước như: Pháp, Mỹ,
Nhật Bản, Singapore… cho thấy các nước đều cho rằng dịch vụ logistics là một chuỗi
cung ứng dịch vụ có mắt xích với nhau. Trong cuốn sách hướng dẫn về dịch vụ
logistics của USAID deliver project cho rằng: “Logistics là một bộ phận cấu thành của
chuỗi cung ứng bao gồm việc lên kế hoạch và kiểm sốt hiệu quả dịng chảy của hàng
hóa theo cả hai chiều từ điểm sản xuất đến điểm tiêu thụ theo yêu cầu của khách
hàng”.2 Như vậy, khái niệm “dịch vụ logistics” ở Việt Nam chưa thể hiện rõ bản chất
của dịch vụ logistics.
1.2.

Về dịch vụ E - logistics (dịch vụ logistics điện tử)
Dịch vụ E-logistics là một loại dịch vụ hậu cần được thực hiện thông qua môi
trường Internet.
E-logistics có những khác biệt rất lớn so với dịch vụ logistics truyền thống,
mang tính hiện đại và hiệu quả cao hơn, hướng đến phát triển theo khuynh hướng dịch
vụ logistics bên thứ năm (fifth party logistics- 5PL).
Nghị định số 163/2017/NĐ-CP gián tiếp tạo điều kiện cho phép doanh nghiệp
nước ngoài tiến hành hoạt động logistics ở Việt Nam. Tuy nhiên, dịch vụ này vẫn chưa
được khái niệm cụ thể, Nghị định số 163/2017/NĐ-CP mới chỉ gọi tên một cách chung
chung về thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics3. Vì vậy, nhiều người nhầm lẫn về

khái niệm và bản chất của logistics và E - logistics, từ đó đánh giá khơng đúng vị trí,
vai trị của hoạt động này khiến hoạt động này có nhiều bất cập.
Thêm vào đó, pháp luật quy định hành vi vận chuyển hàng hóa trên đường phải
có hóa đơn, chứng từ4, “tuy nhiên cùng với sự bùng nổ của hoạt động thương mại điện
tử mỗi ngày có hàng trăm đơn hàng, có đơn hàng chỉ vài chục nghìn đồng thì thực sự
rất khó có thể kẹp hóa đơn cho từng đơn hàng”5. Như vậy, việc quy định mang tính


ràng buộc và không mở rộng cho các dịch vụ E - logistics là không phù hợp với điều
kiện thực tế xã hội.
1.3. Quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics làm hạn chế quyền tự do
kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics đang phải tuân thủ
cùng lúc ít nhất 2 tầng điều kiện kinh doanh, một là điều kiện cho ngành riêng lẻ trong
chuỗi và hai là điều kiện chung của chuỗi logistics khi bị gọi là ngành nghề kinh
doanh.
Mỗi hoạt động này tương ứng với một ngành, nghề kinh doanh và được
điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành. Do vậy, doanh nghiệp phải thỏa mãn điều kiện
về khai thuế hải quan hay vận tải hàng hóa, đồng thời phải có cái “mũ” điều kiện
của ngành Logistics nếu đăng ký kinh doanh theo tên này. Điều này là vô lý, vừa không
phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước, vừa làm tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp6.
Việc đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics ở nước ta vẫn cịn nhiều hạn chế, vốn
dĩ khơng hề tồn tại một “ngành, nghề” dịch vụ logistics độc lập, nên nếu cứ tiếp tục giữ
logistics là ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp sẽ bị hạn chế quyền
tự do kinh doanh.
1.4. Bất cập về quy định quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ
Logistics.
Một là, chưa quy định cụ thể thế nào là “chi phí hợp lý” hoặc “lý do chính đáng”
khi xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lgistics.
Như đã phân tích, các chủ thể kinh doanh dịch vụ logistics có quyền thỏa thuận

với nhau về quyền và nghĩa vụ. Sự thỏa thuận của các chủ thể được pháp luật đặt lên
hàng đầu, trong trường hợp các chủ thể không thỏa thuận được thì theo quy định họ có
các quyền và nghĩa vụ tại Điều 235 LTM 2005, đó là quyền được hưởng thù lao dịch
vụ và các chi phí hợp lý khác. Tuy nhiên, “chi phí hợp lý khác” là chi phí gì thì chưa có
văn bản hướng dẫn.
Mặt khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân thủ các quy định
của pháp luật và các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trong đó có việc tuân thủ
các chỉ dẫn của khách hàng. Nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách
hàng. Song hiện nay chưa có văn bản nào giải thích thế nào là lý do chính đáng. Việc
áp dụng chủ yếu dựa vào sự thỏa thuận của các bên, nếu các bên không thỏa thuận thì
rất khó giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.


Hai là, các quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng dịch vụ
Logistics nằm rải rác trong nhiều văn bản.
Các quy định về hợp đồng dịch vụ logistics không được tập trung tại một văn
bản pháp lý nhất định mà nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, gây khó khăn trong
q trình kí kết giữa hai bên. Đặc biệt, nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
theo chuỗi quá trình thì việc hình thành hợp đồng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn ở các văn
bản khác nhau là điều rất khó, nhất là trong chuỗi dịch vụ vận tải.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật về dịch vụ logistics khơng có quy định nào điều
chỉnh về các thủ tục, chứng từ. Đây cũng là một thiếu sót của pháp luật Việt Nam về
dịch vụ Logistics.
1.5. Quy định trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics khi tổn thất là do khuyết tật của hàng hóa.
Khuyết tật của hàng hóa có 2 loại: thứ nhất là lỗi nội tỳ, đây là lỗi hàng hóa mà
người ta có thể nhận ra được bằng mắt thường; thứ hai là lỗi ẩn tỳ, đây là lỗi mà mắt
thường và các thiết bị hiện đại cũng khó phát hiện ra. Theo đó, đối với lỗi ẩn tỳ thì việc
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm khi tổn thất xảy ra là

điều đương nhiên. Nhưng đối với lỗi nội tỳ, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
có trách nhiệm phải biết hàng hóa có thể xảy ra hiện tượng đổ vỡ, hỏng hóc... và từ tình
trạng ấy, thương nhân kinh doanh dịch vụ phải lên phương án vận chuyển, lưu kho…
sao cho đảm bảo được hàng hóa an tồn, khơng hư hại. Trong trường hợp này, theo quy
định của LTM 2005, dù đây là lỗi của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thì họ
vẫn được miễn trách nhiệm. Theo tác giả, điều này khơng hợp lý vì sẽ gây bất lợi cho
khách hàng sử dụng dịch vụ logistics.
1.6. Quy định định mức bồi thường thiệt hại và giới hạn trách nhiệm của thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Nghị định số 163/2017/NĐ-CP8 ấn định mức 500 triệu cho mỗi yêu cầu bồi
thường, nghĩa là khơng cần tính đến lượng hàng hóa là bao nhiêu, thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics cũng chỉ bồi thường tối đa 500 triệu đồng cho tất cả tổn thất.
Cụ thể, trường hợp khách hàng khơng có thơng báo trước về giá trị của hàng hóa thì
giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường. Quy định
này dẫn đến 2 bất cập như sau:
Một là, việc khống chế mức bồi thường có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tính chất
bình đẳng trong hoạt động dịch vụ logistics. Vì nó gián tiếp buộc khách hàng phải khai
báo trước giá trị hàng hóa nếu muốn được bồi thường thỏa đáng trong trường hợp có


thiệt hại xảy ra. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp giá trị hàng hóa cũng là một bí mật
kinh doanh của thương nhân, việc khai báo có thể gây ra nhiều hậu quả bất lợi cho họ.
Hai là, bên cạnh quy định khống chế mức bồi thường tối đa là 500 triệu, giới
hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cịn được quy định
“khơng vượt q giá trị của hàng hóa đó9”. Quy định này càng khơng hợp lý, trong
thực tế có những tổn thất xuất hiện tại thời điểm hàng hóa bị hư hỏng, nhưng có những
tổn thất có tính tương lai, chẳng hạn do hàng hóa bị chậm ảnh hưởng đến thu nhập hình
thành trong tương lai của khách hàng. Vì vậy, quy định này ảnh hưởng đến quyền lợi
của khách hàng thuê dịch vụ logistics.
1.7. Quy định về thẩm quyền quản lý dịch vụ logistics thiếu đồng bộ

Bất cập lớn nhất hiện nay là hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics
chưa đồng bộ, chưa quy định rõ ràng về trách nhiệm và giới hạn quản lý giữa các cơ
quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động logistics, nhất là giữa Bộ Cơng Thương và
Bộ Giao thơng Vận tải. Qua đó, đã làm cho việc quản lý và điều hành hoạt động
logistics cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Ví dụ: Theo quy định của Nghị định số 87/2009/NĐ-CP về vận tải đa phương
thức và Nghị định số 144/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định về vận tải đa phương thức
(Nghị định số 87/2009/NĐ-CP) thì Bộ Giao thông Vận tải là cơ quan cấp giấy phép
kinh doanh vận tải đa phương thức. Trong khi đó, theo quy định của LTM 2005, Bộ
Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước về logistics, việc đăng kí kinh doanh lại do
Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Mặt khác, theo quy định của Điều 8 Luật Giao dịch
điện tử năm 2005, nếu hoạt động Logistics thông qua các phương tiện điện tử thì hoạt
động này cịn chịu sự quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi diễn ra hoạt động giao dịch điện tử.
Như vậy, để thực hiện một dịch vụ logistics, thương nhân kinh doanh dịch vụ
phải thông qua nhiều thủ tục hành chính với sự quản lý chuyên biệt của nhiều cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Điều này làm khó cho các thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics khi thành lập doanh nghiệp, thực hiện nghiệp vụ của mình. Bên cạnh đó, các
khoản phí, lệ phí cũng nhiều hơn. Ngồi ra, có nhiều cơ quan tham gia quản lý, nhưng
lại chưa có một cơ quan điều hành chung về logistics. Chúng ta cần có bước đột phá
trong cơng tác quản lý hoạt động logistics để tạo thuận lợi cho các hoạt động này phát
triển.
2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam


Việt Nam muốn hồn thiện pháp luật nói chung và dịch vụ logistics nói riêng,
việc phải đáp ứng yêu cầu của tự do hóa thương mại - là việc dỡ bỏ những hàng rào do
các nước lập nên nhằm làm cho luồng hàng hóa di chuyển từ nước này sang nước khác
được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Nếu pháp luật về dịch vụ logistics
khơng được đặt trong mối tương quan với yêu cầu của tự do hóa thương mại thì sẽ bị

lạc hậu, rời rạc. Do đó, bài viết đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch
vụ logistics như sau:
2.1. Hoàn thiện các khái niệm có liên quan đến dịch vụ logistics và E- logistics

- Hoàn thiện khái niệm dịch vụ logistics
Đối với khái niệm dịch vụ logistics, tác giả xin đề xuất giải pháp sau: thay thế
cụm từ “một hoặc nhiều công việc”, thành “một số hoặc tất cả các công việc”.
Cụ thể, Điều 233 LTM cần được sửa đổi như sau: “Dịch vụ logistics là hoạt động
thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một số hoặc nhiều công việc, bao
gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ
khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ
khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch
vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lơ-gi-stíc”. Với cách quy định như
vậy, để trở thành thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, thương nhân phải cung cấp
ít nhất 2 loại hình dịch vụ trong chuỗi logistics trở lên. Họ có thể vừa cung cấp dịch vụ
vận tải, kho bãi và cả thông quan. Điều này sẽ thể hiện đúng bản chất của dịch vụ
logistics trên thế giới và cũng góp phần đa dạng hóa loại hình dịch vụ này. Đồng thời,
phân biệt rõ ràng giữa dịch vụ logistics và dịch vụ vận chuyển hàng hóa.
Ví dụ: Đối với thương nhân chỉ tham gia vận chuyển hàng hóa đường sắt thì
được gọi là kinh doanh vận chuyển hàng hóa đường sắt, khi đó chỉ chịu sự điều chỉnh
của Luật Đường sắt 2017. Chỉ khi thương nhân tiến hành liên tục (2 loại hình) trong
các hoạt động của chuỗi logistics thì mới được gọi là thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics.
- Hoàn thiện khái niệm về E-logistics
Đối với E-logistics, tác giả mạnh dạn đề xuất khái niệm như sau: “E-logistics là
chuỗi các hoạt động hỗ trợ di chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng thông
qua các giao dịch điện tử”. Ngoài ra, pháp luật cũng cần minh bạch các quy định riêng
biệt về dịch vụ logistics truyền thống và dịch vụ E -logistics để tạo hành lang pháp lý
rõ ràng cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ điện tử, đồng thời bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử.



2.2. Hoàn thiện quy định về điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh

dịch vụ logistics.
Tác giả kiến nghị nên bỏ dịch vụ logistics ra khỏi ngành nghề kinh doanh có
điều kiện, vì hiện nay các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đang chịu 2 tầng
điều kiện kinh doanh, đây là gánh nặng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, làm tăng
các khoản phí tuân thủ của doanh nghiệp khi bị gọi là ngành nghề kinh doanh.
2.3. Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch

vụ Logistics.
Một là, nên bổ sung các quy định giải thích rõ các cụm từ “chi phí hợp lý khác”,
“lý do chính đáng” để tạo điều kiện đảm bảo cho các thương nhân trong quá trình thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tránh trường hợp lợi dụng việc pháp luật không quy
định cụ thể gây hại đến quyền và nghĩa vụ của bên còn lại. Đồng thời, việc quy định rõ
ràng hơn những vấn đề này sẽ tạo thuận lợi trong quá trình giải quyết các vụ việc khi
tranh chấp xảy ra.
Hai là, hoàn thiện quy định về hợp đồng dịch vụ logistics và quy định về chứng
từ trong hoạt động dịch vụ logistics.
Dịch vụ logistics là một chuỗi các hành vi thương mại hết sức phức tạp nên phải
quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Hoàn thiện quy
định về hợp đồng dịch vụ logistics cần bổ sung các quy định sau:
- Đề xuất bổ sung điều luật quy định về hình thức hợp đồng: “Hợp đồng dịch vụ
logistics phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương”.
- Đề xuất hình thành mẫu hợp đồng logistics theo chuỗi để các chủ thể tham gia dễ
dàng tiến hành thỏa thuận, kí kết.
- Về nghĩa vụ cung cấp chứng từ, trong dịch vụ logistics. Các chứng từ có thể là chứng
từ vận tải, chứng từ nhập kho, xuất kho hoặc có thể là hóa đơn thương mại trong dịch
vụ bán bn bán lẻ... Vì vậy các nhà làm luật cần thể chế hóa vấn đề này trong pháp

luật về dịch vụ logistics để các bên đưa vào điều khoản bắt buộc trong hợp đồng.
2.4. Trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ

logistics.
Theo tác giả, nên sửa đổi quy định về trường hợp miễn trách nhiệm “tổn thất là
do khuyết tật của hàng hóa” tại điểm c, khoản 1, Điều 237, LTM 2005 thành 2 nội dung
là:


- Trường hợp miễn trách nhiệm đối với lỗi ẩn tỳ: Miễn trừ trách nhiệm đối với thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong trường hợp lỗi ẩn tỳ hoặc do tính chất tự nhiên
của hàng hóa.
- Trường hợp miễn trách nhiệm đối với lỗi nội tỳ: Miễn trừ trách nhiệm đối với thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong trường hợp lỗi nội tỳ và lỗi này đã được phát
hiện trước khi nhà cung cấp dịch vụ logistics nhận hàng.
Thứ năm, hoàn thiện quy định về giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics
Tác giả đề xuất bãi bỏ quy định giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối
với mỗi yêu cầu bồi thường, và thay thế điểm a, khoản 3, Điều 5 NĐ 163/2017/NĐ-CP
bằng quy định sau: “Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận thì giới hạn trách nhiệm
đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ được giới hạn bằng một đơn vị
tính tốn cho mỗi đơn vị hay mỗi kilogram hàng hóa”. Việc quy định đơn vị tính tốn
và đơn vị hàng hóa được quy định tại các văn bản liên quan đến lĩnh vực đó. Việc này
đồng nghĩa mức tối đa bồi thường sẽ thay đổi tùy theo số lượng hay khối lượng hàng
hóa.
2.5. Hồn thiện quy định về thẩm quyền quản lý dịch vụ logistics

Đối với thẩm quyền quản lý dịch vụ logistics, tác giả đề nghị thành lập Ủy ban điều
phối liên ngành về logistics. Điều này sẽ giúp cho hoạt động quản lý ngành đạt hiệu
quả cao hơn, góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển của ngành dịch vụ Logistics ở Việt

Nam.
Trên đây là một số bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật điều chỉnh dịch vụ
logistics và các kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, để dịch vụ logistics phát triển mạnh
mẽ hơn thì các luật chun ngành có liên quan như Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm
2015, Luật Giao thơng đường bộ… cũng cần được hồn thiện theo hướng thống nhất
và đồng bộ về việc điều chỉnh dịch vụ logistics.

Lời Kết
Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng đã rất
phát triển trên thế giới. Đây là một dịch vụ mang lại muồn lợi lớn cho các doanh
nghiệp có điều kiện khai thác, đồng thời đẩy nhanh q trình lưu thơng hàng hóa, tạo


điều kiện thuận lợi cho việc giảm thời gian, chi phí do phải qua nhiều khâu. Bên cạnh
những quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, những quy định mang tính
bảo vệ quyền và lợi ích cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng ngày càng
được quan tâm. Có như vậy thì dịch vụ logistics mới thu hút được sự đầu tư kinh doanh
của các doanh nghiệp trong và ngồi nước, thúc đẩy q trình ln chuyển hàng hóa,
tạo nên nguồn thu lớn cho doanh nghiệp và nhà nước.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thương mại 2005.
2. Nghị định 163/2017/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ logistics.
3. Giáo trình luật thương mại 2.
4. Dịch vụ logistic và những trường hợp thương nhân chịu trách nhiệm về tổn thất

hàng hóa.
5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nhân kinh doanh dịch vụ logistic.
6. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics. -


Tập chí Công Thương.
7. Thông tư liên tịch số 64/2015/TTLT-BTC-BCT-BCA-BQP ngày 8/5/2015.



×