Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.83 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
I.
II.
III.

Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài......................................................................1
Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................1

NỘI DUNG..........................................................................................................................2
MỤC 1: LÝ LUẬN
NGƯỜI.............................2

CỦA

CHỦ

NGHĨA

MÁC-

LÊNIN

1.1.
Quan
niệm
về
con
Mác…………………………....2


người

trong

triết

1.1.1. Quan niệm
Đông……………....2

về

con

người

trong

triết

VỀ

CON

học
học

trước
phương

1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước

Mác...........2
1.2. Quan niệm của
người…………………...3

triết

học

Mác-

Lênin

về

bản

chất

con

1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội,
trong
đó,
mặt

hội
giữ
vai
trị

quyết
định………………………………...3
1.2.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan
hệ

hội………………….....................................................................4
1.2.3. Con người là
sử………………………...5

chủ

thể



sản

phẩm

của

lịch

1.3. Vai trị của nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa………………………………………………………………………………….6
1.3.1.
Khái
niệm
cơng

hóa..............................................6

nghiệp

hóa,

hiện

đại

1.3.2. Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa..................7
1.3.3. Nguồn lực con người là nhân tố quyết định cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay…………………......………….
………7
MỤC 2: THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY................9


2.1.
Ưu
điểm
của
nguồn
Nam......................................................9
2.2.
Hạn
chế
nguồn
Nam.....................................................................9


lực

con
nhân

người

Việt

lực

Việt

2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của nguồn lực con người ở Việt
Nam………….........................................................................................................10
MỤC 3: GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở
NƯỚC
TA………….........................................................................................................................11
3.1. Gắn chiến lược phát triển phát triển con người với chiến lược phát triển kinh
tế…........………….................................................................................................11
3.2. Giảm tỷ lệ gia tăng dân số tạo điều kiện để nguồn nhân lực phát huy
tốt.........11
3.3. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học,
cao
đẳng

đào
tạo

nghề….....................................................................................12
3.4. Huy động các nguồn đầu tư cho sự phát triển nguồn lực con
người..................13
3.5. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tếxã
hội
của
đất
nước..................................................................................................14
3.6. Nhà nước quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm và quản lí nguồn
nhân lực, nâng cao đời sống cho người lao động, tránh tình trạng chảy máu chất
xám...14
3.7. Doanh nghiệp, tổ chức cần tham gia chủ động tích cực, ln có các phương
pháp
quản

phù
hợp
đối
với
người
lao
động..........................................................15
3.8. Nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn lực con
người...................15
KẾT LUẬN.........................................................................................................................16

LIỆU
KHẢO.....................................................................................................17

THAM




MỞ ĐẦU
I.

Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ điển đến
hiện đại. Từ khi triết học Mác- Lênin ra đời đã giải quyết được những nội dung liên
quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng đối
với thế giới. Đặc biệt trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay, với mục tiêu đưa đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của người dân thì nguồn lực con người là nhân tố quan trọng hàng
đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế.
Đảng ta đã khẳng định: tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ
nghĩa Mác- Lênin mãi mãi là “kim chỉ nan” cho hành động của Đảng. Thấm nhuần tư
tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trị của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc
chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ, có trách
nhiệm, cơng dân có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có
tinh thần quốc tế chân chính”.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài tiểu luận: “Quan
điểm của triết học Mác- Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”.
II.


Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Đưa ra cái nhìn tổng quan về vấn đề nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay. Từ
đó đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị để phát huy vai trò của nhân tố con người trong
q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời gian tới.
III.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài cần thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản sau

đây:
- Phân tích, làm rõ quan điểm của triết học Mác- Lênin về vấn đề con người
- Đánh giá thực trạng của nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay (những ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân của tình hình...)
- Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị mang tính khả thi để phát huy nguồn lực
con người ở Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.


NỘI DUNG
MỤC 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Từ thời kỳ cổ đại, các trường phái triết học đều tìm cách lý giải vấn đề bản chất
con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh.
Các trường phái triết học- tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận
thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên
luận. Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và
tinh thần). Đời sống con người trên trần thế chỉ là ảo giác, hư vơ. Vì vậy, cuộc đời con
người khi còn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Như vậy, dù bị chi phối bởi thế giới

quan duy tâm hoặc nhị nguyên, suy đến cùng, con người theo quan niệm của các học
thuyết tôn giáo phương Đông đều phản ánh sai lầm về bản chất con người, hướng tới
thế giới quan thần linh.
Khổng Tử cho rằng bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối, quyết định, đức
“nhân”chính là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử quy
tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục tập quán
xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tu
dưỡng, rèn luện để giữ được đạo đức của mình. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho
rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị
đạo đức tốt đẹp.
 Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đơng
biểu hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ
chính trị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu
tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác, ngây thơ trong mối quan hệ với tự
nhiên và xã hội.
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau về con
người:
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức
vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Theo Kitơ giáo, con người
gồm hai phần: thể xác và linh hồn. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh
cửu. Do vậy việc bồi dưỡng linh hồn là điều rất quan trọng.
Triết học cổ điển Đức nhìn con người theo thế giới quan duy tâm nhưng là duy
tâm khách quan. Hêghen, nhà triết học thời kỳ này, là người đã có quan niệm rất thuyết
phục: con người là chủ thể của lịch sử, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Phoiơbắc
với cái nhìn duy vật cho rằng: con người là kết quả của sự phát triển của thế giới tự


nhiên. Ơng đề cao vai trị và trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể người.
Đó là những con người cá biệt, đa dạng, phong phú, không ai giống ai. Quan điểm này

dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính, nhằm giải phóng cá nhân
con người. Tuy nhiên, Phoiơbắc khơng thấy được bản chất xã hội trong đời sống con
người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Con người của Phoiơbắc là
phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
 Như vậy triết học phương Tây hay Phương Đông trước Mác rất đa dạng, phong
phú. Tuy nhiên hầu như theo quan điểm duy tâm, chưa phản ánh đúng bản chất con
người, xem xét bản chất con người chưa thực sự đầy đủ trên các phương diện. Nhưng
những tư tưởng ấy là tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác về con người.
1.2. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội,
trong đó, mặt xã hội giữ vai trò quyết định
Kế thừa những quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học về con người, dựa trên
những thành tựu khoa học trong đầu thế kỉ XIX, C.Mác khẳng định: con người vừa là
sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ
thể cải tạo hoàn cảnh.
Mặt sinh vật bao gồm cơ thể, mối quan hệ giữa cơ thể với giới tự nhiên xung
quanh cùng những nhu cầu sinh vật và những quy luật sinh học chi phối đời sống của
cơ thể con người. Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản
phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm
kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó là q trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ để
sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người,
điều đó đã chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của Đác- uyn. Các giai đoạn
mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy định
bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn
tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con
người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh
học, quá trình tâm- sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh
học của cá nhân con người.
Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội,

đời sống tinh thần của con người. Nói cách khác, con người sở dĩ trở thành người là do
quá trình lao động, trong đó xã hội sản xuất ra con người. Chính vì vậy, trong cơ thể
con người khơng chỉ có những nhu cầu và các quy luật tâm sinh lý, tình cảm, xã hội.
Hơn nữa, những nhu cầu tự nhiên của con người cũng khơng cịn là thuần túy tự nhiên
nữa, nó mang tính xã hội cao và ngày càng được xã hội hóa sâu sắc. C.Mác viết:
“Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thốt ra khỏi trạng thái thuần
túy là loài vật”.


Triết học Mác tuy nhấn mạnh mặt xã hội nhưng không coi nhẹ mặt sinh vật khi
xem xét con người. Vì vậy, C.Mác khẳng định: “Điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định
là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra
giữa họ với phần còn lại của tự nhiên”. Như vậy, theo quan điểm của triết học Mác,
con người khác với các sinh vật khác ở mặt xã hội. Nhiều nhà triết học trong lịch sử đã
thấy được đặc điểm này. Arixtốt đã gọi con người là một “động vật xã hội”, Franklin
cho rằng con người khác con vật ở chỗ biết sử dụng công cụ lao động hay Pascal cho
rằng con người là “một cây sậy biết suy nghĩ”. Các cách nhìn nhận này về bản chất
con người đều đúng nhưng còn phiến diện. Triết học Mác nhìn nhận bản chất con
người một cách tồn diện. Con người khác con vật ở lao động sản xuất là hoạt động xã
hội có ý thức, có mục đích và quan hệ giữa người với tự nhiên khơng phải chỉ là khai
thác tự nhiên mà còn là tái tạo lại tự nhiên. Trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất, con
người cịn có những hoạt động xã hội khác. Tính xã hội ở con người cịn được thể hiện
ở quan hệ giao tiếp và đời sống cộng đồng, ở văn hóa và đạo đức.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
-

Những quy luật sinh học chi phối đời sống cơ thể
Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức
Những quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người


Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời
sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
 Như vậy, với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng mặt
sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con
người có mối quan hệ khăng khít, khơng thể tách rời nhau; trong đó, mặt sinh học là
nền tảng vật chất tự nhiên của con người, mặt xã hội giữ vai trò quyết định bản chất
của con người.
1.2.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên
thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với
xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng
đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng
trong Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội”. Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà
là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi
cá thể riêng lẻ mà là tổng hịa của tồn bộ quan hệ xã hội. Rõ ràng, con người là con


người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong một thời đại xác
định. Thông qua các quan hệ xã hội, con người bộc lộ bản chất xã hội của mình. Thừa
nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người,
song khơng có nghĩa là triết học Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh
vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Ở đây, con người với tư cách là sản
phẩm của tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại
giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người. Quan

niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta
nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, mặt sinh vật ở con
người.
Sự hình thành, phát triển của con người là quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất
vật chất:
- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách tồn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người: “Có thể phân biệt con người
với súc vật bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được.
Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ
chức cơ thể của con người quy định”.
- “Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Tính xã hội của con người biểu
hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất,
con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình;
hình thành và phát triển ngơn ngữ tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao
động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời
hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
1.2.3. Con người là chủ thể và sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã
hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Bản chất của con người khơng phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ

thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. C.Mác đã khẳng định: “Cái
học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và


giáo dục. Cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh
và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm “Biện chứng
của tự nhiên”, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử phát triển
dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải
do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì
điều đó diễn ra mà chúng khơng hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược
lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như
vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã
hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái
lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên,
tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát
triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện
lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương
ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hồ các quan hệ xã hội”, con
người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng
qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi
sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi
của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là tồn bộ mơi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thơng qua

đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên
nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người,
sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng
con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và
hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
1.3. Vai trị của nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa
1.3.1. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trước đây, vào thế kỷ XVII- XVIII, khi cuộc cách mạng công nghiệp được tiến
hành ở Tây Âu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được hiểu là q trình thay thế lao động
thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng theo dịng thời gian, khái niệm cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ln có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã
hội, của khoa học công nghệ, tức là khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang
tính lịch sử. Dựa trên việc kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại


và rút kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa, Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ VII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt
Nam xác định: cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các nền hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử
dụng sức lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
Như vậy, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng mới là khơng bó hẹp
trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển
lao động thủ công thành lao động cơ khí như trước đây mà bao hàm cả về các hoạt
động sản xuất kinh doanh, cả về ngành dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội, được sử
dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và
công nghệ cao. Bên cạnh đó, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn cần phải

hoàn thiện cơ cấu tổ chức và vận hành xã hội, nâng cao chất lượng sống của người dân
trong cả nước, tích cực xố đói giảm nghèo, phấn đấu tăng mức thu nhập bình qn
đầu người cả nước…
1.3.2. Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới.
Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “ xã hội công
bằng, văn minh, dân giàu, nước mạnh”. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng chỉ là
cơng cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh
vực đời sống xã hội, làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành
công của q tình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa địi hỏi ngồi mơi trường chính trị ổn
định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, .... Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng tham gia vào q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng mức độ tác động và
vai trò của chúng đối với tồn bộ q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng giống
nhau. Nguồn nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, tức là nguồn nhân lực
phải trở thành động lực phát triển. Bởi khi nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Đối với nước ta, từ một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thơng qua cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và góp phần hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền
sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người
dân khơng ngừng được nâng cao, trên cơ sở đó từng bước nâng dần văn minh của xã
hội. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn làm cho khối liên minh cơng nhân,


nơng dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố, đồng thời nâng cao vai trò
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân.
Trong xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ,

trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại phát triển rất
nhanh chóng, những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời
cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra cơ hội mới, vừa cản trở, thách thức nền kinh
tế nước ta. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động, sáng tạo, nắm lấy thời cơ, phát
huy những thuận lợi để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, tạo ra thế và lực mới để
vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền
vững.
1.3.3. Nguồn lực con người là nhân tố quyết định cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thành cơng hay thất bại, nó chỉ được trả lời khi
yếu tố con người được đáp ứng. Có thể thấy rõ rằng các nguồn lực để xây dựng thành
cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đều đóng vai trị quan trọng.
Nhưng xét đến cùng, nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì
mọi nguồn lực khác đều trở nên vơ nghĩa. Sự khẳng định này khơng chỉ nói lên vai trò
quyết định của nguồn lực con người trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác mà
còn phản ánh một đặc điểm quan trọng khác của nó. Đó là nguồn lực con người là
nguồn lực duy nhất mà dựa vào đó, các nguồn lực khác mới phát huy tối đa tác dụng
và có ý nghĩa tích cực đối với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Frederik Harbison viết: “Các nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu để tạo ra của cải
của các nước. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố thụ động trong
sản xuất. Con người là tác nhân tích cực chủ động tích lũy vốn, khai thác tài nguyên
thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp phát triển
đất nước tiến lên. Rõ ràng là đất nước nào bất lực trong phát triển tay nghề và kiến
thức cho nhân dân mình và khơng sử dụng những cái đó hữu hiệu trong nền kinh tế
quốc dân sẽ không thể phát triển được bất cứ thứ gì”. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta không chỉ do yêu cầu về
phát triển kinh tế mà còn hướng vào đáp ứng yêu cầu phát triển con người và tiến bộ
xã hội.
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển
thần kỳ của các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ,... phần lớn

là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Nhật Bản khẳng định quan chức nhà
nước đóng vai trị hết sức quan trọng đối với thành cơng của chiến lược phát triển quốc
gia. Sự thành công của Hàn Quốc trong chiến lược du nhập cơng nghệ nước ngồi để
cơng nghiệp hóa đất nước cũng đi từ phát triển nguồn nhân lực. Ở Ấn Độ, tiềm năng
trí tuệ con người, đặc biệt trong lĩnh vực toán học đã cho phép quốc gia này chuyển
nhanh vào quá trình phát triển hiện đại.


Như vậy mặt lý thuyết và thực tiễn đều chỉ ra rằng: Phát triển nguồn nhân lực,
tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề, chun mơn kỹ thuật và khả năng thích
ứng linh hoạt với những thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ sản xuất là yếu tố then
chốt cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một trong những
yếu tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị
vững vàng mà thiếu đi tri thức, kiến thức khoa học, tức là có đức mà khơng có tài thì
chẳng khác gì một ơng bụt ngồi trên tịa sen, khơng làm việc xấu nhưng cũng khơng
làm điều gì có lợi cho đời”. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết thực của mỗi con
người, bởi vì tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thơng qua trí tuệ
của họ.
Trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế thế giới, người lao động cịn phải biết chủ động
hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là hành động có chủ đích
của con người nhằm khai thác nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh đất
nước. Hội nhập quốc tế cũng chính là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên ngồi, hội
nhập nhưng khơng hịa tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và nhất là bảo vệ nền
độc lập, chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện như vậy, người lao động ngồi bản lĩnh
chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, còn cần có trình độ trí tuệ ngang tầm.

MỤC 2: THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

2.1. Ưu điểm của nguồn lực con người Việt Nam
Về quy mô nguồn lực: Việt Nam hiện có lực lượng lao động dồi dào so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Tổng số dân của Việt Nam năm 2020 là
97.757.118 người, là quốc gia đông dân thứ 3 trong khu vực Đơng Nam Á, trong đó có
54,56 triệu người (chiếm gần 58% dân số) đang trong độ tuổi lao động. Đặc biệt với cơ
cấu dân số trẻ, được coi là “cơ cấu vàng” nên số người trong độ tuổi lao động cũng
lớn, tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động cao nhất ở nhóm tuổi 25- 29. Với ưu
thế này, nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế đất
nước.
Về trình độ chun mơn kĩ thuật của nguồn nhân lực: không ngừng được nâng
cao. Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động là 22,5% tăng nhiều so với
các năm trước. So với thời điểm tháng 7 năm 2004, tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của
lực lượng lao động cả nước tăng 1,5%; trong đó tỷ lệ đã qua đào tạo nghề tăng 0,8%;
tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng 0,3%; tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng, đại học
trở lên tăng 0,4%. Liên Hợp Quốc đánh giá cao chỉ số phát triển con người của Việt
Nam: HDI đạt 0,682, cao hơn nhiều nước trong khu vực.


Về phẩm chất người lao động: nguồn nhân lực nước ta được tiếp thu truyền thống
lịch sử của đất nước. Họ được đánh giá là thông minh, cần cù, khéo léo, u lao động,
có tinh thần đồn kết, tương thân tương ái, có trình độ dân trí, học vấn khá cao so với
mức thu nhập quốc dân, ham học hỏi, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực Việt Nam
trong quá trình tham gia hội nhập.
2.2. Hạn chế nguồn nhân lực Việt Nam
Về chất lượng nguồn nhân lực:
- Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đang ở mức thấp trong bậc thang năng
lực quốc tế: theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chất lượng nguồn nhân lực
của Việt Nam đạt mức 3,79/10 điểm, xếp hạng thứ 11/12 quốc gia được khảo
sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91/10 điểm, Ấn Độ đạt 5,76/10 điểm,

Malaysia đạt 5.59/10 điểm.
- Số lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chun mơn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng kém về năng
lực thực hành và ứng dụng công nghệ cao vào quá trình lao động. Một bộ phận
lớn người lao động hiện nay chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công
nghiệp, tùy tiện giờ giấc và hành vi, khả năng làm việc theo nhóm, tính chun
nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn
nhân lực cịn rất hạn chế. Trong mơi trường làm việc có yếu tố nước ngồi,
ngoại ngữ, hiểu biết văn hố thế giới ln là điểm yếu của lao động Việt Nam.
Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc, thiếu
khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng chế và chia sẻ kinh
nghiệm làm việc.
- Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử
dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
- Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so
với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là
để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam
trong chuỗi giá trị đó.
 Như vậy chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam thấp và có khoảng cách lớn
với các nước trong khu vực.
Về năng suất lao động: mặc dù có xu hướng tăng nhưng vẫn còn rất thấp so với
các nước trong khu vực: Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch- Đầu tư năm 2019,
năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7,6% mức năng suất của Singapore; 19,5%
của Malaysia; 37,9% của Thái Lan; 45,6% của Indonesia; 56,9% của Philippines,
68,9% của Brunei. So với Myanmar, Việt Nam chỉ bằng 90% và chỉ bằng 88,7% Lào.


Trong khu vực Đông Nam Á, năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn
Campuchia.

Về thể chất của lực lượng lao động: về cơ bản, thể chất của người lao động Việt
Nam đã được cải thiện, nhưng còn thấp so với các nước trong khu vực, thể hiện ở các
khía cạnh tầm vóc, sức khoẻ, sức bền, khả năng chịu áp lực….
Về việc sử dụng nhân lực: Tỷ lệ đào tạo đại học, cao đẳng so với trung cấp, cơng
nhân kỹ thuật nghề là 7/3 dẫn tới tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Nhóm những người
có trình độ cao đẳng và đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất cả nước (tương
ứng là 6,07% và 4,26%).
2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của nguồn lực con người ở Việt Nam
-

-

-

-

-

Quản lý Nhà nước về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề bất
cập so với yêu cầu, chưa có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực toàn diện và
dài hạn, mang tầm quốc gia để định hướng các cơ quan, đoàn thể cùng phố hợp
hành động; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.
Hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông, đến đào tạo nghề, đại học, sau đại học là lực
lượng nịng cốt trong q trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực còn bộc lộ
nhiều hạn chế, dù đã trải qua rất nhiều cải cách, đổi mới. Công tác phân luồng
định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông
chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu
cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham gia phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị
sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về

chuyên môn nghiệp vụ; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm
định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu
giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng….
Quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực
chưa theo kịp q trình hội nhập kinh tế, văn hố, xã hội ngày càng sâu rộng của
Việt nam. Hệ thống giáo dục chưa bắt kịp với mơ hình hệ thống giáo dục và đào
tạo nhân lực phổ biến của các nước trong khu vực và thế giới. Đào tạo ngoại ngữ
của Việt Nam cịn nặng tính hình thức, lý thuyết nhưng lại yếu kém trong thực
hành.
Nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của phần lớn các
gia đình cịn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng các
hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân
sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều
các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực.
Nhiều người dân vẫn chưa ý thức được vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực
con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.


MỤC 3: GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN
LỰC CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
3.1. Gắn chiến lược phát triển phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế
Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế, khoa
học kỹ thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng
trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược phát
triển nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây, đã có sự quan tâm, gắn kết chiến
lược phát triển nguồn nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế, thể hiện qua xu hướng
đào tạo theo nhu cầu xã hội, sự hợp tác giữa các nhà trường với các doanh nghiệp đào
tạo nhân lực. Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ
giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Giải

quyết được điều này chúng ta mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt nhân lực có
trình độ tay nghề và kỹ năng cần thiết cho sự phát triển kinh tế, biến gánh nặng dân số
hiện nay thành lợi thế cạnh tranh của nước ta trong quá trình hội nhập.
3.2. Giảm tỷ lệ gia tăng dân số tạo điều kiện để nguồn nhân lực phát huy tốt
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nhận định: “Gia
tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát
triển kinh tế- xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế phát triển
về trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nịi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì
trong tương lai khơng xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí
những nguy cơ về nhiều mặt”. Trong những năm qua, tốc độ gia tăng dân số ở nước ta
đã giảm chỉ còn dưới 2%. Nhà nước thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ
có 1-2 con để nuôi dạy cho tốt. Thế nhưng từ năm 2003, dân số nước ta lại có dấu hiệu
tăng nhanh trở lại, vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện chính
sách kế hoạch hóa dân số và gia đình để trong tương lai đảm bảo tốc độ tăng dân số
trong độ tuổi lao động hàng năm hợp lý, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao,
tiến tới cân bằng cung và cầu lao động. Việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số đem lại những
lợi ích rất quan trọng cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
- Về kinh tế: góp phần vào tăng năng suất lao động, góp phần đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế đất nước, tăng thu nhập bình quân đầu người,...
- Về nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động: tạo điều kiện để nâng cao về
y tế, chữa bệnh, chăm sóc con cái, giáo dục, cải thiện đời sống, thụ hưởng các phúc lợi
xã hội, tăng tuổi thọ,...
- Về môi trường: giảm áp lực đến tài nguyên và môi trường sống.
3.3. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học,
cao đẳng và đào tạo nghề
Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra nguồn nhân lực
chất lượng cao ở nước ta hiện nay. Ngay từ các bậc học, nhất là bậc học phổ thông


trung học, giáo viên và phụ huynh học sinh phải định hướng tương lai cho con em

mình trong việc chọn lựa ngành nghề phù hợp với năng lực, thế mạnh của bản thân. Từ
đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng chun sâu về một ngành, lĩnh vực mà mình u
thích, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng sau khi hồn thành khoá học.
Đặc biệt, các trường cao đẳng, đại học và các trường dạy nghề phải làm tốt công
tác tuyển chọn, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của
người học, đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ của xã hội, của quá trình hội nhập, mở cửa,
phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay. Chú trọng đến việc thực hành các thao tác, các
bước của hoạt động lắp ráp, sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ; sử dụng
thành thạo các trang thiết bị kỹ thuật, nhất là máy móc hiện đại, điều khiển từ xa, tự
động hoá.
Thực tiễn nguồn lực chất lượng cao ở nước ta khơng có nhiều, do đó hầu hết việc
sản xuất, sử dụng cơng nghệ máy móc, thiết bị đều nhập khẩu từ nước ngoài, xin ý
kiến chuyên gia nước ngồi đến hỗ trợ.
Theo đó cần:
- Tiến hành rà sốt lại chương trình đào tạo ở các trường
- Tăng cường thời gian học thực hành, giảm thời gian học lý thuyết
- Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các trường, các
chuyên ngành đào tạo với nhau, nhất là với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đầu
tư, công ty
- Tuyển dụng học sinh vào đào tạo phải bảo đảm chất lượng, không chạy theo số
lượng
- Các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng cao:
như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới, cơng
nghệ sinh học... để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc cách mạng số
hóa bùng nổ như hiện nay
- Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ: sơ
cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và liên thơng giữa các trình độ, đồng
thời chuyển sang đào tạo theo định hướng cầu lao động, đào tạo gắn với sử
dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất, cung cấp lao động có chất lượng về tay
nghề, sức khỏe, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp và các phẩm chất khác

để đáp ứng được thị trường trong nước và nước ngồi
- Đa dạng hóa các loại hình trường, lớp, dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và
quốc tế, hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật
- Quan tâm xây dựng hệ thống trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trường cao
đẳng dạy nghề, trong đó có các trường đạt tiêu chuẩn khu vực; các tỉnh, thành
phố đều có trung tâm dạy nghề, phát triển cơ sở dạy nghề ngồi cơng lập.
- Bằng nhiều hình thức đa dạng đảm bảo cho mọi người được học, nhất là người
nghèo và con em các gia đình thuộc diện chính sách. Động viên phong trào tồn
dân thi đua xóa mù chữ, hồn thành phổ cập trung học cơ sở, trung học phổ
thông. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, phải
tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lịng u nước,
ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước


3.4. Huy động các nguồn đầu tư cho sự phát triển nguồn lực con người
Ngoài việc chi từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho
sự phát triển nguồn lực con người trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn
cầu. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục: ưu tiên xây dựng kết cấu
hạ tầng, kêu họi nhà đầu tư....
Công nghiệp hố , hiện đại hố địi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở rộng quy
mơ huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện, tiền đề quan
trọng để cơng nghiệp hố, hiện đại hố thành cơng. Vốn để cơng nghiệp hố, hiện đại
hố có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngồi nước. Nguồn vốn trong
nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là
lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường
cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội
trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và cơng nghệ, hợp lý hố sản xuất. Nguồn vốn
trong nước cịn phụ thuộc vào tỉ lệ tiết kiệm. Vì thế, cần coi “tiết kiệm là quốc sách”,
đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí. Nguồn vốn trong nước giữ vai trị

quyết định vì đây là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, là tiền đề để huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Việc đề cao
nội lực trong tình hình hiện nay là vơ cùng cần thiết và đúng đắn. Bên cạnh đó, cần
đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngồi (FDI, ODA…) để đổi mới
cơng nghệ, tạo ra thêm nhiều việc làm nâng cao trình độ tay nghề của người lao động.
Khuyến khích Việt kiều chuyển tiền về nước để tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất
kinh doanh, tạo mở thêm việc làm cho người lao động. Thực tế đã cho thấy rằng nguồn
vốn này khá lớn, năm 2004 số tiền Việt kiều chuyển về nước gần ngang bằng vốn đầu
tư nước ngoài vào nước ta.
3.5. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tếxã hội của đất nước
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế- xã hội nước ta có bước tăng trưởng khá
cao, tương đối ổn định, nhưng do tác động của bối cảnh thế giới, khu vực và đặc biệt
là đại dịch Covid- 19 gần đây đã làm cho một số ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Tình hình đó ảnh hưởng phần nào đến nguồn nhân lực nước ta, đặc biệt là
nguồn nhân lực có chất lượng cao. Theo đó, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi
trường làm việc với điều kiện tế của mỗi ngành, lĩnh vực ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa
phương. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải lựa chọn chính xác nhân
lực vào làm việc, năng lực, trình độ đi liền với phẩm chất đạo đức, lối sống; phát huy
truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc; tích cực, chủ động tự học, bồi dưỡng, rèn
luyện về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của xu thế tồn cầu hố, mở cửa, hội
nhập và phát triển nền kinh tế tri thức. Trọng dụng nhân tài đồng bộ, tạo cơ hội cho
người tài phát huy năng lực và thu hút nhân lực trình độ cao là người Việt đang làm
việc ở nước ngoài, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.


3.6. Nhà nước quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm và quản lí nguồn
nhân lực, nâng cao đời sống cho người lao động, tránh tình trạng chảy máu chất
xám
Chúng ta phải quản lý có hiệu quả về nhân lực trước những yêu cầu mới của phát
triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và cạnh tranh. Nhà nước cần phân định rõ thẩm

quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác chỉ
đạo, tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân
lực.
Hàng năm, nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở
Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được để kịp thời rút ra những kinh
nghiệm. Trên cơ sở đó xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về
nguồn nhân lực. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh đất nước khi đang
trong giai đoạn cách mạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, so sánh nguồn lực với tư
cách là điều kiện tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì nguồn nhân lực có vai trị quyết định. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác,
nguồn nhân lực phải chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế. Việc phát triển
và sử dụng nguồn lực có hiệu quả cao là một vấn đề bức thiết, đặc biệt là trong thời đại
ngày nay- khi giữa tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân
chính trong các cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ
ràng thì nhân tài của đất nước sẽ lại “rơi lả tả như lá mùa thu”, “vàng thau lẫn lộn” làm
cho những người thật sự có tài năng khơng phát triển được, trong khi đó những người
cơ hội “ăn theo nói leo”, xu hướng nịnh bợ lại tồn tại trong các cơ quan của cả hệ
thống chính trị.
Bên cạnh việc tạo mở thêm việc làm cho người lao động, đồng thời cũng đi đôi
với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Người lao động được quan
tâm đến cả đời sống vật chất và tinh thần. Họ cần được quan tâm chăm lo cho việc ăn,
việc ở ngày càng tốt hơn, các doanh nghiệp khám bệnh cho người lao động định kỳ để
đảm bảo tốt sức khỏe có thể lao động tốt. Người lao động có thời gian vui chơi, giải trí
để tái sản xuất sức lao động. Khi mà những nhu cầu về chất, tinh thần của họ được
đảm bảo thì họ có thể chuyên tâm vào hoạt động sáng tạo, đảm nhiệm tốt cơng việc
của mình.
Hiện nay tình trạng “chảy máu chất xám” ở nước ta rất đáng lo ngại. Nhân tài
đang có xu hướng muốn làm việc ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó họ được
đáp ứng tốt về điều kiện làm việc cũng như sinh hoạt gấp hàng chục lần trong nước.
Mất mát về người tài có nguy cơ làm cho nền kinh tế nước ta khó mà phát triển nhanh

chóng. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích họ như tạo điều kiện về nhà ở, trả
lương cao với đúng năng lực của họ và cung cấp mọi cơ sở vật chất tốt nhất để họ có
thể phát huy năng lực cống hiến cho cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Chính
sách này đã được áp dụng ở một số tỉnh, thành phố và thu được những tín hiệu đáng
mừng, tuy nhiên cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.


3.7. Doanh nghiệp, tổ chức cần tham gia chủ động tích cực, ln có các phương
pháp quản lý phù hợp đối với người lao động
Các tổ chức, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến nhóm yếu tố phát triển các
nguồn lực như sự phù hợp giữa con người lao động với tổ chức, lương và các khoản
thu nhập, đào tạo và phát triển nghiệp vụ phục vụ chức nghiệp, các cơ hội thực hiện
nhiệm vụ đầy thách thức và yếu tố tổ chức như hành vi của lãnh đạo, mối quan hệ
trong tổ chức, văn hóa và các chính sách của tổ chức, môi trường làm việc...
3.8. Nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn lực con người
Chúng ta xác định đây không phải là trách nhiệm của nhà nước mà cịn là nhiệm
vụ của tồn xã hội. Bởi nguồn lực con người quý giá là động lực cho sự phát triển kinh
tế. Phát triển nguồn nhân lực không chỉ giúp ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà
còn là tiền đề cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có những
chính sách tác động đến nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các phương tiện thơng tin đại chúng cũng cần thông tin
kịp thời đến người dân về vai trò và tầm quan trọng của nguồn lực con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Từ đó giúp mọi người có cái
nhìn tồn diện nhất về nguồn nhân lực Việt Nam, biến suy nghĩ thành hành động để
đáp ứng nhu cầu của xã hội về chất lượng lao động.
 Phát huy nguồn lực con người có vai trị quan trọng đối với mỗi quốc gia. Việc
nhận thức được con người là nguồn lực trung tâm của sự phát triển có tác động mạnh
mẽ đến phát triển các nguồn lực khác trong xã hội, để từ đó ở mỗi cấp độ quản lý từ vĩ
mô đến vi mô đồng bộ đưa ra các giải pháp phù hợp để phát triển nguồn lực này. Các
cơ quan quản lý từ giáo dục đào tạo, kinh tế, tài chính, nơng nghiệp, lao động đều phải

vào cuộc tích cực để mang lại nguồn lực chất lượng phục vụ cho phát triển kinh tế- xã
hội.

KẾT LUẬN
Ở nước ta, con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều tất yếu để nước ta
phát triển và hội nhập với thế giới, đưa nước ta từ một nước kém phát triển đạt được
những thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội. Qua những phân tích ở trên, chúng ta thấy
rằng tư tưởng Mác- Lênin hoàn toàn có thể đáp ứng mọi yêu cầu được đặt ra. Do vậy,
chúng ta cần phải lấy việc áp dụng triệt để chủ nghĩa Mác- Lênin làm “kim chỉ nan”
cho sự phát triển của đất nước, là mục tiêu, nhiệm vụ tiên quyết được đặt ra cho Nhà
nước, Chính phủ và nhân dân Việt Nam.
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và thực trạng về nguồn nhân
lực đất nước đã và đang đặt ra cho chúng ta những yêu cầu bức thiết về nhân tố con
người phải có tri thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức để phục vụ sự nghiệp phát triển
đất nước. Chưa bao giờ trong lịch sử, nhân tố con người lại đóng vai trò quan trọng


trong phát triển kinh tế như thời đại ngày nay. Trong hội thảo “Phát triển bền vững dựa
trên tri thức”, Đặng Hữu từng chia sẻ: “Máy móc khơng chỉ thay thế lao động cơ bắp
mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ con người, lực lượng sản xuất chuyển từ dựa vào vật
chất sang dựa nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con người, sức sáng tạo của
con người là vô hạn, tài nguyên là hữu hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri thức mở ra
những triển vọng to lớn, những khả năng vô hạn của con người, giải quyết những vấn
đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải đối mặt”. Việc phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng và Nhà nước ta
xác định đúng hướng. Nguồn nhân lực con người Việt Nam chính là nguồn lực quan
trọng nhất, là động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế.
Để hoàn thành xuất sắc mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, chúng ta cần tạo ra mối quan hệ hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt;

lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích cá nhân. Bên cạnh đó, cần khơng ngừng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng u cầu q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa;
xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhưng vẫn luôn coi trọng
những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, khơng đánh mất mình. Từ đó xây dựng và
phát triển Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ khi thực hiện thành công công cuộc
cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước, chúng ta mới vượt qua được ngưỡng cửa của
nghèo nàn và lạc hậu.
Do kiến thức và tầm hiểu biết còn hạn chế nên bài tiểu luận của em vẫn không
tránh khỏi những thiếu sót và điểm hạn chế, em rất mong được thầy cho ý kiến đánh
giá và nhận xét để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình kinh tế chính trị Mác Lênin, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình triết học Mác Lênin, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đặng Hữu (2004), Phát triển bền vững dựa trên tri thức, Tạp chí lý luận chính trị,
số 11, tr 9- 10.
5. Hồ Chí Minh tồn tập (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Hữu Nghĩa (2000), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội.
7. 11/12/2021, Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay, .





×