HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
KHĨA HỌC 2021-2022
TÊN MƠN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TÊN BÀI THU HOẠCH:
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA
ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM GẮN VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN ĐẢNG BỘ TỈNH ST TỪ NĂM 1930 ĐẾN NAY
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
MỤC LỤC
Phần I. MỞ ĐẦU: …………………………………………………………………….
Phần II. NỘI DUNG:………………………………………………………………….
1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG
LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG
VIỆT NAM…………………………………………………………………………….
1.1. Xác định đúng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chú trọng công tác lý
luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của Đảng trong quá trình lãnh đạo
cách mạng……………………………………………………………………………...
1.1.1. Xác định đúng đắn và không ngừng bổ sung phát triển nền tảng tư tưởng lý
luận
của
Đảng……………………………………………………………………………………
1.1.2. Chú trọng công tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của Đảng
trong quá trình lãnh đạo cách mạng………………………………………………………….
1.2. Trong các chặng đưòng lịch sử, Đảng Cộng sản Vỉệt Nam đã hoạch định
được đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng…...
1.2.1. Xác định đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, sáng tạo, đáp ứng nhiệm vụ
cách
mạng
trong
từng
giai
đoạn
lịch
sử……………………………………………………...
1.2.2. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng khơng chỉ đã xác định đường lối
chính trị đúng mà Đảng cịn cần phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng………………….
1.3. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh và đội ngũ cán bộ, đảng viên
trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mọi mặt…………………………...
1.3.1. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh………….
1.3.2. Xây đựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh đốn
Đảng
đã
trở
thành
quy
luật
phát
triển
của
Đảng……………………………………………
1.4. Luôn biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và
truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng………………………………………….
2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG BỘ TỈNH ST TỪ NĂM
1930 ĐẾN NAY……………………………………………………………
2.1. Đảng bộ ST lãnh đạo Nhân dân cùng với cả nước đánh thắng thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước.................................................................................................................................
2.2. Những thành tựu nổi bật của Đảng bộ tỉnh ST qua 91 năm xây dựng và phát
triển…………………………………………………………………………...
2.3. Một số tồn tại, hạn chế của Đảng bộ tỉnh ST hiện nay…………………
3. Liên hệ của bản thân trong thực tiễn công tác tại tỉnh ST……………….
Phần III. KẾT LUẬN…………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC CÁC CHÚ THÍCH SỬ DỤNG TRONG BÀI THU HOẠCH
1
Phần I. MỞ ĐẦU
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX, sức mạnh to lớn của
dân tộc Việt Nam chỉ phát huy cao độ khi được tập hợp, đoàn kết dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một
bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu
tranh của dân tộc vào thời kỳ phát triển mới. Thực tiễn phong phú, sinh động của
cách mạng Việt Nam trong hơn 9 thập kỷ qua, kể từ ngày thành lập Đảng, đã chứng
tỏ sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. “Nó chứng tỏ
rằng, giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(1).
Những truyền thống của Đảng và những bài học lớn của cách mạng Việt Nam
cần được nghiên cứu sâu sắc để kế thừa và phát huy trong trong hiện tại. Những nội
dung đó bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh lâu dài của Đảng, từ sự vận động sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ q trình khơng ngừng
xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những bài học có giá trị truyền thống đó làm nên sức
chiến đấu của Đảng và góp phần củng cố, tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng
nhằm xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Do đó, trong khuôn khổ một bài thu hoạch tôi chọn chủ đề này để làm rõ những
điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam gắn với quá trình xây dựng và phát triển Đảng bộ tỉnh ST từ
1930 đến nay. Trong q trình thực hiện khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
rất mong nhận được sự hướng dẫn và góp ý từ q thầy cơ để hoàn thiện hơn. Xin
chân thành cảm ơn!
2
Phần II. NỘI DUNG
1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA
ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH
MẠNG VIỆT NAM.
1.1. Xác định đúng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chú trọng cơng tác
lý luận, thường xun nâng cao trình độ lý luận của Đảng trong quá trình lãnh
đạo cách mạng
1.1.1. Xác định đúng đắn và không ngừng bổ sung phát triển nền tảng tư tưởng
lý luận của Đảng
Nhận thức sâu sắc những luận điểm cơ bản của V.I.Lênin về xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản, đặc biệt vai trị của lý luận cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy” (2). Người đã xác định: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”(3).
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp cơng nhân,
phong trào cơng nhân mà cịn là vũ khí giải phóng giai cấp cơng nhân, giải phóng dân
tộc, giải phóng tồn xã hội. Trên nền tảng tư tưởng lý luận mang bản chất cách mạng
và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo vào đặc điểm thực tiễn
Việt Nam, tập hợp đông đảo các giai tầng yêu nước Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sự đồng thuận cả nước để làm nên những chiến
công oanh liệt trong 15 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, trong 30 năm kháng chiến
trường kỳ để có được một Việt Nam hịa bình, thống nhất, q độ đi lên chủ nghĩa xã
hội sau năm 1975.
3
Bước vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, xu hướng đa nguyên, đa đảng xuất hiện. Ở một số nước xuất hiện vấn đề xét lại
chủ nghĩa Mác-Lênin... Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: Muốn đổi
mới tư duy, Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tiếp thu những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm mới phong phú của
các đảng chính trị, những kiến thức khoa học của thời đạỉ; đồng thời, phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lý luận. Trên tinh thần đó, Đại hội VII (1991) của Đảng khẳng
định: Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đây là một dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa to
lớn trong lịch sử tư tưởng lý luận của Đảng và trong công tác xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, trở thành một tài sản tinh thần quý
báu của Đảng và của cả dân tộc. Việc xác lập tư tưởng Hồ Chí Minh đã thúc đẩy
mạnh mẽ tư duy sáng tạo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều
kiện, đặc điểm Việt Nam.
1.1.2. Chú trọng công tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của
Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng nghiên cứu nâng cao
trình độ lý luận, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Đảng
cũng chú trọng nâng cao trình độ trí tuệ, nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan, nâng cao trình độ học vấn của cán bộ, đảng viên, nâng cao hiểu biết
về khoa học lãnh đạo, quản lý, tiếp cận những giá trị văn hóa của dân tộc và tinh hoa
văn hóa của nhân loại.
Thực tiễn của phong-trào cách mạng đã được Đảng tổng kết kịp thời để tiếp tục
chỉ đạo phong trào và góp phần làm sáng tỏ lý luận cách mạng, nhất là cách mạng
4
giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của
Đảng được phát triển sáng tạo và hoàn chỉnh tại các hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ sáu (11-1939), lần thứ bảy (11-1940), đặc biệt là Hội nghị lần thứ tám
(5-1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Đường lối đó là kết quả của sự phát
triển lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển
của các cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nãm
1945.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng trở thành đảng cầm quyền ở
Việt Nam, vấn đề lý luận càng được đặc biệt chú trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê
phán những biểu hiện yếu kém về lý luận, coi thường lý luận hoặc lý luận suông
không gắn với thực tiễn.
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2-1951) đã tổng kết thực tiễn 21 năm lãnh
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Những tổng kết quan trọng đó vừa phong
phú về thực tiễn, vừa làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, về chiến tranh nhân dân, về những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội và xây
dựng Nhà nước dân chủ nhân dân. Đó là cơ sở để làm rõ nhiều nội dung trong Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định mục tiêu hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc Việt Nam được hồn
tồn giải phóng và bước vào thời kỳ q độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp
tục cách mạng giải phóng dân tộc, hồn thành giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Đây cũng là thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế
đã diễn ra cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
Thời gian đầu khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Để thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
Đảng, Nhà nước đã trải qua những bước tìm tịi, khảo nghiệm và từ thực tiễn để đi
5
đến bước đột phá đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự yếu kém, chậm trễ về lý luận.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), cùng với việc quyết định
đường lối đổi mới cũng đã tự phê bình và nhận rõ sự hạn chế về trinh độ lý luận và
cơng tác lý luận. Vì vậy, đường lối đổi mới bắt đầu từ sự đổi mới tư duy lý luận, nhận
thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và những quy luật, đặc trưng của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội...
Trong khi khẳng định giá trị khoa học của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh phê
phán chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chống những quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế
lực thù địch hòng phủ nhận thành quả cách mạng và con đường phát triển đúng đắn
của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
1.2. Trong các chặng đưòng lịch sử, Đảng Cộng sản Vỉệt Nam đã hoạch định
được đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng
1.2.1. Xác định đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, sáng tạo, đáp ứng nhiệm
vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã coi trọng xây dựng cương
lĩnh, đường lối chiến lược gắn liền với rèn luyện bản lĩnh chính trị. Ngay trong quá
trình chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chú trọng
xây dựng những quan điểm chính trị cơ bản để hình thành cương lĩnh chính trị của
Đảng. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đường lối chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam, đồng thời, xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ
cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách
lược đã đề ra. Cương lĩnh đó đã từng bước được hồn thiện, cụ thể hóa trong đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc, phù hợp với thực tiễn đặc điểm là một nước thuộc
địa nửa phong kiến, với sự chuyển biển các giai tầng trong xã hội sau tác động của
quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - một cuộc cách mạng mang
6
tính nhân dân sâu sắc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), phải đối phó với kẻ thù
hùng mạnh về mọi mặt, Đảng đã xác định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, tự lực cánh sinh là chính. Trong đó, xác định rõ kẻ thù, mục tiêu trước mắt
của cách mạng, sắp xếp và tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng, sử dụng đúng đắn
và phát triển sáng tạo phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh để
tạo nên sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn
toàn của quá trình đấu tranh cách mạng và kháng chiến.
Bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, Đảng đã hoạch định đường lối cách mạng miền Nam (Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khóa II năm 1959), được thông qua tại Đại hội
lần thứ III của Đảng (9-1960). Đại hội III của Đảng xác định đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng ở hai miền và vai trị, vị trí, mối quan hệ của cách mạng mỗi
miền đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Đây là điểm độc đáo, sáng tạo của
một chính đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng một nước bị chia cắt với hai chiến lược
khác nhau. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là minh
chímg cho sự đúng đắn về đường lối chính trị của Đảng Lao động Việt Nam trong
tiến trình chiến tranh cách mạng.
Khi cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trước yêu cầu cấp bách phải đổi mới đất
nước, Đảng đã dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm, đúc rút
một trong những bài học quan trọng của Đảng là lấy dân làm gốc, mục tiêu trước hết
phải là dân giàu, nước mạnh... Đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước
những biến động chính trị của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thờỉ kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, lần đầu tiên Đảng đã đưa ra một mơ hình xã
hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
chung của nhân loại. Hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, 30 năm thực
7
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tình
hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn. Nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra
được nhận thức làm sáng tỏ và từng bước giải quyết qua các nhiệm kỳ đại hội. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã bổ sung và phát triển những nội dung
trong Cương lĩnh năm 1991 cho phù hợp với sự biến đổi của tình hình trong nước,
khu vực và thế giới. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộỉ (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn về
mục tiêu tổng quát, phưong hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ Đại hội
XII đến Đại hội XIII, Đảng đã tập trung nỗ lực để bổ sung, phát triển đường lối đổi
mới, chỉ đạo đưa đường lối đó vào thực tiễn cuộc sống.
1.2.2. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng khơng chỉ đã xác định đường
lối chính trị đúng mà Đảng cịn cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng
Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện trước hết là sự kiên định con đường cách
mạng, bằng nhiệt tình cách mạng và trình độ trí tuệ kiên trì thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự kiên định con đường giải phóng dân tộc phù
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết
và trước hết, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra từng bước, phục vụ cho nhiệm vụ
chống đế quốc, thực hiện nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của cách mạng. Đó là quyết
định vấn đề của từng quốc gia - dân tộc phải giải quyết trong phạm vi quốc gia - dân
tộc mình theo quyền tự quyết của các dân tộc. Đó là quyết định đồng thời tiến hành
hai chiến lược cách mạng ở hai miền trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt...
Đặc biệt, trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự khủng
hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
tiếp tục kiên định con đường cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
đã nêu: “đối với nước ta, khơng cịn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực
sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của
8
chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khốt từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng”(4)
Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở những thời điểm khó khăn, cam go của
cách mạng, Đảng đã có những quyết sách sáng suốt, kịp thời, chủ động chèo lái con
thuyền cách mạng vượt qua thách thức. Đó là quyết định lựa chọn con đường cách
mạng vô sản cho cách mạng Việt Nam trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước những năm 20 của thế kỷ XX. Đó là những quyết sách tạo thời cơ và chớp thời
cơ trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Đó là quyết định ra Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý
giải tán ngày 11-11-1945) thực chất là rút vào hoạt động bí mật để bảo vệ Đảng, tiếp
tục lãnh đạo cách mạng, củng cố chính quyền cách mạng cịn non trẻ khi vận mệnh
của dân tộc Việt Nam đứng trước “tình thế ngàn cân treo sợi tóc”... Đặc biệt là
phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” để đi đến
quyết sách đổi mới toàn diện trước sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80
của thế kỷ XX...
Bản lĩnh chính trị thể hiện ở sự dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm và
kiên quyết sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, thẳng thắn tự phê bình và phê bình.
Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã dũng cảm, kịp thời chỉ rõ những hạn
chế, khuyết điểm và tích cực sửa chữa khuyết điểm nên đã lấy lại niềm tin của nhân
dân đối với Đảng.
Bản lĩnh chính trị cịn là tinh thần đấu tranh để bảo vệ lý luận Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch.
Bản lĩnh chính trị chẳng những là cần thiết trong hoạch định đường lối, chính
sách mà cả trong lãnh đạo và tổ chức thực tiễn. Bản lĩnh chính trị trở thành một nội
dung quan trọng trong xây dựng Đảng về chính trị ở các thời kỳ lịch sử trước đây và
cũng đặt ra thường xuyên hiện nay.
1.3. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh và đội ngũ cán bộ, đảng
9
viên trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mọi mặt
1.3.1. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh
Quán triệt tinh thần của V.I.Lênin về sức mạnh của tổ chức, trải qua các chặng
đường cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng
về tổ chức.
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, dù Đảng phải hoạt động bí mật dưới
sự lùng sục, khủng bố gắt gao của chính quyền thực dân phong kiến phản động,
nhưng Đảng đã gây dựng được cơ sở cách mạng trong nhân dân, được nhân dân sẵn
sàng hy sinh tính mạng để che chở, bảo vệ Đảng. Đặc biệt từ khi trở thành Đảng cầm
quyền, công tác xây dựng tổ chức đảng ngày càng được quan tâm toàn diện trên mọi
mặt. Tại Đại hội II (1951), thế và lực cách mạng ba nước Đơng Dương đã có sự
chuyển biến quan trọng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định tách ra thành ba
đảng ở ba nước để giải quyết nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước trong phạm vi quyền
tự quyết của mỗi dân tộc. Đảng Lao động Việt Nam đã căn cứ vào đặc điểm của dân
tộc Việt Nam, hoạch định Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, dẫn dắt cách mạng
Việt Nam vừa tiến hành kiến quốc, vừa chống ngoại xâm giành độc lập, hịa bình,
thống nhất cho đất nước. Sau năm 1954, trước bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt,
khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào miền Nam Việt Nam với chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập một bộ phận của
Đảng Lao động Việt Nam để trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam - Trung ương
Cục miền Nam ra đời (10-1961). Từ tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam đã
trực tiếp xây dựng hệ thống tổ chức đảng đến tận cơ sở, với phương châm “dân bám
đất, Đảng bám dân, du kích bám giặc”, bám đất, bám làng lãnh đạo cuộc kháng chiến,
đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ. Sau khi miền Nam được giải phóng, đất
nước thống nhất, nhiệm vụ lịch sử đã hoàn thành, tháng 9-1975, Trung ương Cục
miền Nam tự giải tán. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976)
- đại hội đầu tiên của đất nước thống nhất, Đảng Lao động Việt Nam trở lại tên Đảng
10
Cộng sản Việt Nam - lãnh đạo cách mạng cả nước cho đến hiện nay.
Từ ngày thành lập đến nay, qua 13 nhiệm kỳ đại hội, Đảng luôn chăm lo xây
dựng Đảng về tổ chức, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh
hoạt đảng.
1.3.2. Xây đựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh
đốn Đảng đã trở thành quy luật phát triển của Đảng
Những thành quả vĩ đại của dân tộc Việt Nam hơn 90 năm qua gắn liền với sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự trưởng thành về mọi mặt của đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng. Chỉ tính từ thời điểm Đại hội VI (12-1986), tồn Đảng có 1,9 triệu
đảng viên; đến Đại hội XIII (1-2021), Đảng đã có 5,2 triệu đảng viên.
Trong cơng cuộc đổi mới, nâng cao toàn diện chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên về trình độ chun mơn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo càng
được chú trọng và thể hiện ttong nhiều văn kiện của Đảng. Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) ban hành Nghị quyết về “Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đây là nghị quyết đầu
tiên của Đảng thể hiện một cách đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ: đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách
cán bộ. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đẩt nước” (5) với quyết tâm
chính tri: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu
hút, trọng dụng nhân tài”(6).
Đồng thời, với việc xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, Đảng đã luôn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt từ
khi Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng cơng tác chỉnh đốn Đảng,
nhất là khi cách mạng chuyển giai đoạn, hoặc gặp những khó khăn, thách thức. Ngay
11
khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định 4 nội
dung cần đổi mới: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy kinh tể; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo
và công tác”(7). Đến Đại hội lần VII của Đảng, vấn đề đổi mới gắn liền với chỉnh đốn
Đảng được đặt ra: “Để đảm đương được vai trị lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”(8). Đại hội XIII của Đảng (2021), Đảng
thể hiện quyết tâm cao, xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chinh đốn
Đảng...trong sạch, vững mạnh”(9) là trọng tâm đầu tiên trong các nhiệm vụ trọng tâm
để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới.
1.4. Luôn biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc
và truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành những truyền thống vẻ vang. Đó là
truyền thống độc lập, tự chủ và sáng tạo trong hoạch định cương lĩnh, đường lối,
phương pháp cách mạng. Truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ
sở chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh và điều lệ Đảng. Truyền
thống kiên cường, bất khuất, hết lịng vì nước, vì dân, vì sự nghiệp cách mạng, vì lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Truyền thống gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân tộc và nhân dân, trưởng thành và
phát triển từ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân
tộc Việt Nam. Truyền thống thủy chung, son sắt với tinh thần quốc tế trong sáng, cao
cả “giúp bạn là minh tự giúp mình”.
Truyền thống đại đoàn kết là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc,
đã được Đảng nâng lên tầm cao mới: đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở
12
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh và điều lệ của Đảng, phấn
đấu vì mục tiêu chung vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa
tạo nên sức mạnh tổng hợp của Đảng, của dân tộc, vượt qua mọi gian nguy, thử thách.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng là nguyên tắc bảo đảm sức mạnh của Đảng và
làm cơ sở để thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định, thành tựu của cách mạng có được
bắt nguồn từ chỗ Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, được nhân dân ủng hộ, có đội
ngũ cán bộ và đảng viên tiền phong chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền thống vô
cùng quý báu của cách mạng Việt Nam. Những truyền thống của Đảng làm nên sức
chiển đấu, góp phần củng cố, tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng trước đây cũng
như hiện nay.
2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG BỘ TỈNH ST TỪ
NĂM 1930 ĐẾN NAY
2.1. Đảng bộ ST lãnh đạo Nhân dân cùng với cả nước đánh thắng thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đứng lên giành
chính quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa, Nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra Kỷ nguyên mới, Kỷ
nguyên độc lập, tự do; làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Đại thắng Mùa
Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; cả nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới, nâng cao uy tín và vị thế
nước ta trên trường quốc tế. Hòa chung với lịch sử vẻ vang của dân tộc, Đảng bộ tỉnh
ST đã lãnh đạo quân và dân trong tỉnh vượt qua gian khổ, hy sinh, anh dũng chiến
13
đấu lập nên những chiến cơng vang dội, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng của dân tộc.
91 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ và nhân
dân tỉnh ST không ngừng phát huy truyền thống yêu quê hương đất nước, truyền
thống đoàn kết, quật cường trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lược và ách thống
trị hà khắc của chế độ phong kiến, tay sai, liên tục đứng lên theo tiếng gọi của Đảng
làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng 8-1945, đánh đổ phát xít Nhật, thực dân Pháp và chính quyền tay sai phản
động, lập ra chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân từ cơ sở đến tỉnh.
30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân dân ST với chân
lý khơng có gì q hơn độc lập tự do, thà hy sinh tất cả, chứ nhất quyết không làm nô
lệ, đã vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, lập nên nhiều chiến công anh hùng.
Chiến thắng ấy, bắt nguồn từ Cách mạng tháng Tám 1945 ở ST thành cơng
(25.8.1945), Đảng bộ ST chỉ có 25 đảng viên, dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng
tỉnh, các đảng viên đoàn kết, chấp hành nghiêm Chỉ thị của Xứ uỷ, sống trong lòng
dân tuyên truyền vận động, tập hợp được đông đảo các tầng lớp quần chúng, nhất là
đồng bào tín đồ Cao Đài, kiên quyết chống kẻ thù, đứng lên giành chính quyền từ bọn
tay sai phát xít Nhật.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, từ tiếng súng đầu tiên ở Suối Sâu ngày
8.11.1945 đến kết thúc cuộc kháng chiến tháng 7.1954, chiến trường ST là một trong
những nơi khó khăn nhất của “miền Đơng gian lao mà anh dũng”. Với vị trí chiến
lược quan trọng, có biên giới giáp với Vương quốc Campuchia, trấn giữ phía tây bắc
Sài Gịn; có căn cứ Phân liên Khu uỷ miền Đông và Trung ương Cục miền Nam; có
trung tâm tơn giáo Cao Đài, nên ST là nơi địch tập trung mọi âm mưu xảo quyệt:
“chia để trị”, dùng người Khmer giết người Việt, dùng bọn phản động trong tôn giáo
Cao Đài đánh Việt Minh. Chúng áp dụng chính sách “tam quang”, giết sạch, đốt sạch,
14
phá sạch và dùng đủ các loại vũ khí tối tân lúc bấy giờ nhằm triệt phá vùng căn cứ
kháng chiến.
Để giành thắng lợi, Đảng bộ và Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính ST đã chỉ đạo
Mặt trận và các đoàn thể vận động tổ chức chăm lo cuộc sống cho nhân dân, dù còn
hạn hẹp. Củng cố các tổ chức Đảng thành hệ thống lãnh đạo vững mạnh. Từng bước
thống nhất các lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát triển lực lượng vũ
trang 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương và du kích lớn mạnh. Tổ chức giáo dục
lập trường, quan điểm quần chúng và luôn giữ vững tinh thần cách mạng tiến công,
vừa đánh địch tại địa phương, vừa bảo vệ căn cứ địa kháng chiến của Phân liên Khu
uỷ miền Đơng, Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo tồn Miền giành thắng lợi, chấm
dứt cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và quân dân ST lại
đứng trước những khó khăn gian khổ và ác liệt hơn. Ở từng thời kỳ của cuộc chiến
tranh chống Mỹ - ngụy, chiến trường ST luôn diễn ra ác liệt, tuy chịu nhiều tổn thất,
nhưng quân dân ST tự giác chấp nhận hy sinh, từng bước tiến lên.
Ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1960). chính quyền Ngơ
Đình Diệm với những âm mưu thủ đoạn thâm độc nhất ra sức đàn áp các lực lượng
yêu nước, tiêu diệt ý chí độc lập thống nhất nước nhà của nhân dân miền Nam nói
chung và ST nói riêng. Kẻ thù khơng từ bỏ một thủ đoạn độc ác nào để bắt, giam
cầm, tàn sát các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước. Song, những cán bộ,
đảng viên còn lại vẫn kiên cường bám trụ để lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Nhiều
phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng địi hiệp thương tổng tuyển cử thống
nhất nước nhà, đòi quyền dân sinh, dân chủ diễn ra liên tục.
Không thể chịu đựng mãi ách thống trị của Mỹ-Diệm, với tinh thần Nghị quyết
15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (01.1959) đã mở đường cho cách mạng
miền Nam tiến lên bằng chiến thắng Tua Hai (1-1960), mở đầu cho Cao trào Đồng
Khởi vũ trang tồn miền Đơng Nam bộ đánh bại chiến lược “Chiến tranh một phía”
15
của Mỹ - Diệm, mở ra tình thế cách mạng mới, từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
cơng chiến lược, buộc địch phải bị động đối phó.
Sau thất bại chiến lược “Chiến tranh một phía”, đế quốc Mỹ thực hiện các chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”; “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” ở
miền Nam Việt Nam. Trên chiến trường ST, Mỹ - ngụy đánh vào đây có tính chất huỷ
diệt, vì ST có căn cứ Trung ương Cục miền Nam - cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Quân dân ST đã vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ từng bước tiến lên trong từng thời kỳ chiến tranh, vừa chống trả kẻ thù mạnh hơn
gấp nhiều lần, cùng với toàn miền Nam lần lượt bẻ gãy các chiến lược chiến tranh tàn
bạo của đế quốc Mỹ, vừa ra sức bảo vệ vững chắc Khu Căn cứ địa cách mạng miền
Nam, góp phần cùng với qn dân tồn Miền buộc đế quốc Mỹ xuống thang chiến
tranh, ký kết Hiệp định Paris (01.1973), chấp nhận thua trận, rút quân về nước. Mỹ
cút nhưng ngụy chưa nhào, quân dân ST lại tiếp tục đứng lên tự giải phóng q
hương mình, xứng đáng với lòng tin của Đảng.
Thắng lợi 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975)
của quân dân ST, trước hết là do sự lãnh đạo sáng suốt về đường lối của Đảng, Trung
ương Cục, Quân uỷ và Tỉnh uỷ với nhiều nghị quyết đúng sát hợp. Cán bộ, đảng viên
kiên định vững vàng về quan điểm, lập trường. Đảng bộ ST xem công tác xây dựng
Đảng là yếu tố quyết định, lấy đấu tranh xây dựng nội bộ đoàn kết để củng cố và phát
triển; lấy phẩm chất, năng lực lòng trung thành làm thước đo cho sự tiến bộ và động
viên toàn Đảng bộ triệt để bám dân, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trong tổ
chức thực hiện vừa giữ đúng nguyên tắc, vừa vận dụng linh hoạt phù hợp với chiến
trường, sát đúng với tình hình địa phương, tạo được thế và lực mới để hoàn thành
nhiệm vụ.
Do nhận thức đúng đắn sức mạnh của quần chúng, Đảng bộ xây dựng Mặt trận
dân tộc ngày càng rộng rãi, vững mạnh trong từng giai đoạn cách mạng. Mặt trận quy
tụ đông đảo các tầng lớp quần chúng, đặc biệt là quần chúng tín đồ Cao Đài. Mặt trận
16
đã huy động và tổ chức quần chúng từ nông thôn đến thành thị, thánh thất, nhà thờ,
nhà chùa, trường học, ấp chiến lược, biên giới hợp sức đấu tranh bằng mọi hình thức
thích hợp, nửa hợp pháp đến khơng hợp pháp, biến thành bạo lực cách mạng đập tan
mọi âm mưu của địch, qua đó xóa được hận thù dân tộc, đoàn kết người Việt với
người Khmer cùng chống kẻ thù chung là đế quốc xâm lược, xóa bỏ hận thù giữa
người có đạo và người khơng có đạo, đoàn kết đạo và đời cùng chống giặc; tạm cấp
ruộng đất cho đồng bào bung ra sản xuất. Từ đó, nơng thơn và thành thị nối liền, xóa
vành đai cách biệt, cùng chịu đựng gian khổ, vượt qua khó khăn, tự lực tổ chức hậu
cần tại chỗ, tự cường chống giặc giữ làng, đồng thời tranh thủ sự chi viện của cấp
trên, sự ủng hộ của các tỉnh bạn, tập trung lực lượng đánh vào kẻ thù.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến trường, Đảng bộ ST đánh giá đúng tương quan lực
lượng địch ta tại tỉnh và từng khu vực, từng huyện để vận dụng được sức mạnh tổng
hợp và thực hiện phương châm đánh địch bằng 2 chân, 3 mũi, phối hợp chặt chẽ 3 thứ
quân. Qua mỗi lần gặp khó khăn, Đảng bộ nghiêm túc rút kinh nghiệm, nghiêm khắc
phê bình và tự phê bình, kiên quyết khắc phục, sửa chữa để vượt khó khăn vươn tới
giành thắng lợi hồn tồn bằng chính lực lượng của tỉnh, góp phần giải phóng Sài
Gịn - Gia Định trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau ngày 30/4/1975, trong khi cả nước được độc lập, bắt tay khắc phục hậu quả
chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội thì ST phải tiếp tục bước vào một cuộc chiến
mới, cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Thực tế ST đã mất gần 5 năm không có hịa bình trọn vẹn. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ, quân dân ST cùng một lúc vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa phải
chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; vừa ngăn thù trong, vừa cứu đói
dân mình, lại cưu mang gần 3 vạn dân Campuchia tị nạn; vừa phải khôi phục và phát
triển sản xuất nhằm đảm bảo lo cho đời sống nhân dân ST trên các mặt, ăn ở, đi lại,
chữa bệnh và học hành. Có thể nói 5 năm đầu sau ngày giải phóng đầy gian khổ,
Đảng bộ và quân dân ST đã thể hiện rõ tinh thần tự lực tự cường, quyết tâm cao trong
17
tổ chức thực hiện để hoàn thành 2 nhiệm vụ chiến lược là cải tạo, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi giúp nước Campuchia thốt khỏi nạn diệt chủng do Pơn-Pốt gây
ra, theo sự chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ và quân dân ST vẫn tiếp tục chi viện sức
người, sức của giúp tỉnh Kom-Pong – Chàm (Campuchia) chí tình, chí nghĩa trong 10
năm (1979-1989).
Thời kỳ 1975-1985, quân dân ST tập trung vào nhiệm vụ chính là cải tạo, xây
dựng và phát triển nền kinh tế theo Nghị quyết Đại hội IV và V của Đảng đề ra, chủ
yếu lấy sản xuất lương thực làm nhiệm vụ trung tâm hàng đầu, cho nên từ chỗ ST
phải nhận sự chi viện của Trung ương đã phấn đấu không những tự lực được lương
thực, mà còn làm nghĩa vụ với Trung ương và từng bước tháo gỡ những khó khăn,
đưa nền kinh tế - xã hội đi vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra những vùng chuyên
canh lớn: mía, đậu phộng, cao su, lúa. Hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể
quần chúng được củng cố kiện toàn, dân chủ được mở rộng, chính trị ổn định, tạo tiền
đề cho sự phát triển mới.
2.2. Những thành tựu nổi bật của Đảng bộ tỉnh ST qua 91 năm xây dựng và
phát triển
Sau năm 1975, tỉnh nhà được giải phóng, Đảng bộ, quân và dân ST bắt tay vào
xây dựng cuộc sống mới từ một xuất phát điểm rất thấp. Cơ sở hạ tầng bị phá huỷ
nặng nề, 60/73 xã trong tỉnh bị tàn phá hoàn toàn, hơn 9.000 người bị phơi nhiễm
chất độc da cam/dioxin. Tồn tỉnh khơng có một cơng trình thuỷ nông quan trọng nào
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; hoạt động cơng nghiệp gần như khơng có; đại bộ
phận Nhân dân sống trong nghèo khó, hàng vạn đối tượng chính sách cần được chăm
lo.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, với truyền thống “trung dũng, kiên cường”,
với tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo, nỗ lực vượt qua khó khăn, Đảng bộ,
chính quyền, qn và dân ST đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, quyết tâm cao độ
18
để vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa phấn đấu xây dựng tỉnh nhà. Trong 10
năm 1975-1985, ST tập trung cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo Nghị
quyết Đại hội IV và V của Đảng đề ra, chủ yếu lấy sản xuất lương thực làm nhiệm vụ
trung tâm hàng đầu, cho nên từ chỗ ST phải nhận sự chi viện của Trung ương đã phấn
đấu khơng những tự lực được lương thực, mà cịn làm nghĩa vụ với Trung ương và
từng bước tháo gỡ những khó khăn, đưa nền kinh tế - xã hội đi vào quỹ đạo xã hội
chủ nghĩa.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ tỉnh các nhiệm kỳ đã tập trung
trí tuệ, tìm quyết sách lãnh đạo, khai thác, tận dụng tiềm năng - lợi thế, xác định đúng
đắn chiến lược phát triển cùng lộ trình và bước đi phù hợp, tạo bước đột phá vươn
lên, đưa ST không ngừng phát triển, giành được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) của tỉnh liên tục tăng, cụ thể GRDP bình quân giai
đoạn 2016-2020 đạt 7,2%, cao hơn mức bình quân của cả nước. GRDP bình quân đầu
người năm 2020 đạt 3.135 USD, cao gấp 1,51 lần so năm 2015. Từ một tỉnh thuần
nông, ST đã tăng trưởng cơng nghiệp khá, nằm trong nhóm các địa phương dẫn đầu
cả nước về điện mặt trời (tỉnh đã đưa vào hoạt động Cụm nhà máy điện mặt trời Dầu
Tiếng có tổng vốn 9.100 tỷ đồng, đưa ST thành một trong những "thủ phủ" về điện mặt
trời của cả nước). Đến 2020, tồn tỉnh có 350 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn
đăng ký 7,77 tỷ USD. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được Trung ương và tỉnh đầu
tư, đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh. Diện mạo từ thành thị đến nông thôn
khang trang, sạch đẹp hơn trước. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Năm 1985, tổng thu
ngân sách của tỉnh chỉ khoảng 3 tỷ đồng, đến năm 2020, con số này là 10.022,4 tỷ
đồng, đạt 100,2% so dự toán, tăng 4,4% so cùng kỳ.
Về thu hút đầu tư, ST nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố có tỷ lệ thu hút đầu tư
nước ngồi cao. Tồn tỉnh có 10 khu, cụm công nghiệp đang hoạt động; đến tháng
6/2021, đã thu hút được 972 dự án (339 dự án đầu tư nước ngoài và 633 dự án trong
nước) với tổng vốn đăng ký 7.983 triệu USD và 93.548 tỷ đồng. Các dự án đầu tư
19
trong và ngoài nước là nguồn lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh tăng
trưởng cao trong thời gian qua. Nhiều nhà đầu tư lớn, có thương hiệu quốc gia như Sun
Group, Vingroup, TTC Group… đã có dự án đầu tư tại ST. Tỉnh cũng đã khánh thành và
đưa vào sử dụng hệ thống các tuyến cáp treo lên đỉnh núi Bà Đen và các công trình phụ
trợ, tạo tiền đề vững chắc để ST đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
đến năm 2030.
Từ chỗ khơng có mặt hàng nào xuất khẩu, trong giai đoạn 2016 - 2020, kim
ngạch xuất khẩu của ST đạt 19 tỷ USD, tăng bình quân 10%/năm; xuất khẩu chủ yếu
dựa vào nhóm hàng cơng nghiệp (chiếm 81,8%), trong đó mặt hàng dệt may chiếm tỷ
trọng lớn nhất là 20,3%. Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng xuất khẩu các mặt
hàng, sản phẩm tinh chế, mở rộng mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là tìm kiếm thị
trường xuất khẩu mới.
Xây dựng nông thôn mới và quá trình đơ thị có nhiều chuyển biến tích cực. Đến
năm 2020, có 45/71 xã đạt chuẩn nơng thơn mới, đạt 63,4% (trong đó, có 01 xã đạt
chuẩn nơng thơn mới nâng cao); bình qn tồn tỉnh đạt 16,8 tiêu chí/xã, tăng 3,2 tiêu
chí so với năm 2016. Thành phố ST và thị xã Hịa Thành hồn thành nhiệm vụ xây
dựng nông thôn mới. Năm 2020, Thành phố ST cơ bản đạt tiêu chí đơ thị loại II, huyện
Trảng Bàng và huyện Hịa Thành được cơng nhận là đơ thị loại IV và trở thành thị xã;
tỷ lệ đơ thị hóa của tỉnh đạt 48,5%.
Cùng với kinh tế, các lĩnh vực văn hoá - xã hội đạt nhiều thành tựu nổi bật. Chất
lượng khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá”, xây dựng thiết chế văn hoá cơ sở… tiếp tục được triển khai sâu
rộng và đạt kết quả tốt. Các chính sách xã hội, chương trình Quốc gia về giải quyết
việc làm, xóa đói giảm nghèo được triển khai có hiệu quả. ST đã cơ bản giải quyết
nhà ở cho gia đình chính sách và hộ nghèo. Đến tháng 6/2021, ST là tỉnh có tỷ lệ hộ
nghèo thấp thứ 3 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố (sau thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
20
Bình Dương). Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đến tháng 6/2021 ước đạt 83,67%
so với dân số tồn tỉnh.
Cơng tác quốc phịng, an ninh được các cấp uỷ đảng, chính quyền tập trung chỉ
đạo thực hiện có hiệu quả, gắn với xây dựng khu vực phịng thủ, xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Lực lượng vũ trang tỉnh
được quan tâm xây dựng vững mạnh toàn diện; thực hiện tốt công tác huấn luyện,
diễn tập; đề ra nhiều phương án, biện pháp phòng ngừa, xử lý các tình huống có thể
xảy ra trên địa bàn. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được đẩy mạnh,
nhiều mơ hình tự quản về an ninh trật tự được nhân rộng. Quan hệ hợp tác với các
tỉnh giáp biên thuộc Vương quốc Campuchia được tăng cường, xử lý kịp thời những
vấn đề phức tạp nảy sinh, không để xảy ra “điểm nóng” trên tuyến biên giới.
Cơng tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh tồn diện, bản lĩnh
chính trị, tư duy và năng lực lãnh đạo được nâng lên. Cấp uỷ các cấp tập trung thực
hiện hai nhiệm vụ “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng đảng là then chốt”, kiên
định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh; chủ
động lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm, đổi mới tư duy, sáng tạo trong triển khai, tổ chức
thực hiện. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở
thành việc làm thường xuyên trong các tổ chức đảng, đảng viên, tạo sự lan tỏa, hưởng
ứng trong toàn xã hội. Tỉnh đã kịp thời sắp xếp tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị sau
Đại hội XI và bầu cử chính quyền theo đúng quy định của Đảng và pháp luật Nhà
nước. Công tác cán bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định; công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng được thực hiện thường xuyên, toàn diện, chặt chẽ, đúng quy
định; cơng tác phịng, chống tham nhũng được thực hiện gắn với nhiệm vụ xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm.
Cơng tác dân vận được triển khai tồn diện; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội tích cực đổi mới, hoạt động ngày càng hiệu quả. Hoạt động của chính quyền
21
được củng cố, kiện toàn ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cải cách hành chính đạt
kết quả quan trọng.
Trải qua chặng đường 91 năm (1930-2021), dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng
bộ ST cùng sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức, chiến sĩ
các lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh đã vượt qua những bước thăng trầm
của mỗi thời kỳ cách mạng để giành lấy thắng lợi. Thắng lợi đó bắt nguồn từ truyền
thống yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo của Đảng bộ, quân và
dân ST, nhất là thời kỳ sau giải phóng, tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, quốc phịng, an ninh … đều khơng ngừng phát triển, làm “thay da đổi thịt”
mảnh đất vô vàn khó khăn, gian khổ của các cuộc chiến tranh. Đó là hiện thực của
cuộc sống mà bất kỳ người dân ST nào cũng không được quyền phủ nhận.
2.3. Một số tồn tại, hạn chế của Đảng bộ tỉnh ST hiện nay
Bên cạnh những thành tựu nổi bật qua 91 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ
tỉnh ST cũng còn một số tồn tại, hạn chế trong giai đoạn hiện nay, cụ thể như:
- Về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
Kinh tế tuy tăng trưởng nhanh, một số lĩnh vực đạt kết quả nổi bật, song nhìn
chung vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Quy mô, năng lực, sức cạnh tranh
của nền kinh tế tuy có nâng lên nhưng cịn thấp, năng suất lao động chưa cao. Công
nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến phát triển chưa nhiều.
Tốc độ tăng trưởng nơng nghiệp cịn thấp; giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1 ha
đất trồng trọt chưa cao, mơ hình sản xuất theo chuỗi giá trị, nông nghiệp sạch, nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa nhiều. Một số chính sách hỗ trợ nơng nghiệp
triển khai chậm. Kết quả xây dựng nơng thơn mới có mặt thiếu vững chắc; nguồn lực
xây dựng nông thôn mới chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước. Kinh tế cửa khẩu chưa
được phát huy tốt. Doanh nghiệp phát triển chậm, kinh tế hợp tác cịn khó khăn , hợp
tác xã kiểu mới chưa nhiều. Các dự án FDI phần lớn thuộc nhóm ngành nghề sử dụng
nhiều lao động, cơng nghệ trung bình. Xây dựng cơ bản, cơng tác đền bù giải phóng
22
mặt bằng cịn khó khăn. Hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển; vệ sinh môi trường nông thôn, trật tự đơ thị cịn nhiều yếu
kém. Quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng, môi trường, đầu tư có mặt cịn hạn chế.
Chất lượng quy hoạch, quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch, sự gắn kết, liên thơng
với quy hoạch vùng chưa cao.
Văn hóa - xã hội có một số chỉ tiêu chưa thực chất. Giáo dục thường xuyên, dạy
nghề chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là công tác đào tạo nghề cho lao động nông thơn.
Năng lực y tế; một số thiết chế văn hóa hoạt động chưa hiệu quả; công tác bảo tồn,
phát huy giá trị các di tích, di sản văn hóa có nơi chưa kịp thời tu bổ, tôn tạo và phục
hồi di tích; một số phong trào thi đua kết quả chưa toàn diện, thiếu vững chắc. Hoạt
động khoa học - cơng nghệ chưa theo kịp q trình phát triển kinh tế - xã hội. Cải
cách hành chính có mặt chưa đồng bộ; biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực có lúc, có nơi
chưa giải quyết triệt để. An ninh, trật tự trên tuyến biên giới có lúc cịn diễn biến phức
tạp; phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có mặt cịn hạn chế. Cơng tác quản
lý, giáo dục, điều trị người nghiện ma tuý chưa hiệu quả, người nghiện tăng.
- Về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị
Cơng tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị tuy có nhiều đổi mới, chất lượng
hiệu quả hoạt động được nâng lên nhưng vẫn cịn những hạn chế, yếu kém, có mặt
chưa đáp ứng yêu cầu.
Chỉ tiêu Đảng bộ xã biên giới hoàn thành tốt nhiệm vụ chưa đạt Nghị quyết.
Việc nắm tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và định hướng dư luận có lúc chưa kịp
thời; một số ít cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
một số tổ chức cơ sở đảng chưa cao; công tác xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chính
trị - xã hội trong doanh nghiệp ngồi khu vực nhà nước cịn khó khăn, nội dung, hình
thức sinh hoạt chưa phù hợp. Đảng viên bị xóa tên, xin ra khỏi Đảng cịn cao. Cơng