Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Những hướng tiếp cận mới về di sản lịch sử: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.74 MB, 222 trang )

Nhiều tác

giả

DI SẢN LỊCH SỬ
VÀ NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI
Tủ sách Khoa học xã hội
Chuyên khảo về khảo cổ học và lịch sử
Do Viện HARVARD YENCHING tài trợ


DI SAN LỊCH sư
VÀ NHỮNG HƯỚNG T IẾP CẬN MỚI


NHIỀU TÁC GIẢ

DI SẢN LỊCH SỬ
VÀ NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI

C hịu trách n hiệm chung
LÊ H ổng Lý
T ổ chức bản th ả o và biên tập
LÊ T hị L iền
N g u yẻn T h i P h ư ơ n g C hâm

E d ito rs
L e H on g L y
L e T h i L ien
N g u y en T h i P h u o n g C ham


Nhà xuất bản Thế Giới


T ủ sách khoa học xã hội
Chuyên khảo về Khảo cổ học và Lịch sử
D o Viện Harvard Yenching tài trợ
Social Sciences B ook Series
Monograph on Archaeology and History
Supported by the Harvard Yenching Institute
v2j0 v2j0 \2j0 v2j0 (§3

30

(50

\2j0 (3b

(30

\3o

v2j0

\^0 \3b


MỤC LỤC





C hữ v iết tắ t

vii

L ờ i n ói đ ấ u

ix

1

Nguyễn Gia Đối
Tiếp cận k h ả o cổ học môi trường sinh thái trong nghiên cứu
tiên sử ờ V iệt N am

2

Lâm Thị M ỹ Dung
T iếp cận k h ả o cổ học x ã hội và k h ả o cổ học m ộ táng
trong nghiên cứu trường hợp Miến Trung Việt N am thời Sơ sử

3

87

Phan T hanh Hải
L ịch sử Đ àng Trong nhìn từ H u ế

5


6

7

8

139

T ạ H ồng Vân
Quỹ di sản kiến trúc P háp ờ H à N ội

175

T rẩn Đức Anh Sơn
H o ạ t động thương m ại kiêm nhiệm của các sứ bộ Việt N am
ở Trung H o a thời nhà T han h

211

H oàng Anh Tuấn
“Q uốc t ế h ó a lịch sử dân tộ c " - T oàn cău h ó a cận đại sơ kỳ
và lịch sử V iệt N am th ế kỷ X V II

247

T rẩn Thị Phương Hoa
C ác cải cách giáo dục và khủng hoản g của nhà trường P háp-V iệt
ở B ắ c Kỳ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của th ế kỷ XX

9


29

N guyễn N gọc Thơ
N h ận diện vãn hóa L ạc V iệt

4

1

283

T rần Thị B ích N gọc
N am B ộ và L ịch sử x ã hội N am Bộ

325

T ó m tắ t tiến g A n h

360

G iới th iệu các tá c g iả

369

Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới

IV



CONTENTS
A b b rev ia tio n
F o re w o rd
1

Nguyen Gia Doi
N ew A pproaches to Eco-Environm entaỉ A rchaeology
in Prehistorỵ o /V ietn a m

2

Lam Thi M yD ung
A pproaches to Social an d Burial archaeology - C ase Study
on Central V ietnam during Proto-historical P eriod

3

Nguyen Ngoe Tho
Assessing L a c V iet Culture

4

Phan Thanh Hai
H istory oýD ang Trong fro m H ue Perspective

s

Ta H oang Van
French architecture H eritage in H anoi


6

T ran Duc Anh Son
C om m ercial Activities o /D ip lom atic C orpsýrom V ietnam
to c h in a during the QitigDynastỵ

7

H oang Anh Tuan
Internationalixing N ation al H istory: G ỉobalization o f Early
M odern H istorỵ an d V ietnam ese H istorỵ in X V II Century

8

T ran Thi Phuong H oa
E du cation al R ẹform s an d Crisis F aced bỵ the Franco-V ietnam ese
Schools in T onkin during the 1920's and 1930's

9

T ran Thi B ich Ngoe
Southern V ietnam and Its Social History

Ettglish A b s tra c t
Ort th e A u thors

VI

I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới



CHỮ VIẾT TẮT

BGD

Bộ Giáo dục

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

ĐHKHXH & NV

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

KHXH

Khoa học Xã hội

NCLS

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử

NCS

Nghiên cứu sinh

Nxb

Nhà Xuất bản


PGS

Phó giáo sư

Pl.

Plate (phụ bản)

SCN

sau Cơng ngun

Sđd

Sách đã dẫn

đd

đâ dẫn

Tp.

Thành phố

TCN

trước Công nguyên

Tr.


trang

TS

Tiến sĩ

UBND

ủy ban nhân dân

Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I

TJ w


LỜI MỞ ĐẦU

“D i sản lịch sử và những hướng tiếp cận m ớ i" là cuốn thứ ba trong Tủ sách
Khoa học Xã hội, được thực hiện với sự tài trợ của Viện Harvard Yenching,
tiếp theo các cuốn “Sự biến đ ổ i củ a tôn g iá o tín ngưỡng ở V iệt N a m hiện
n ay ” (2 0 0 8 ) và “N ghiên cứu văn h ọ c V iệt N am - N hững k h ả năng và th ách
th ứ c” (2 0 0 9 ). Cuốn sách tập hợp một số bài viết vê' lịch sử và khảo cổ học
- hai trong số các ngành khoa học xã hội cơ bản của Việt Nam.
Sau một chặng đường hinh thành và phát triển từ những thập niên 50-60 của
thế ki trước, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử và khảo cổ học của
Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào việc tìm hiểu lịch sử dân
tộc, phục vụ công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Cùng với
sự phát triển chung trên thế giới vể phương pháp luận và những hướng tiếp
cận mới trong nghiên cứu khoa học xã hội, sử học và khảo cổ học Việt Nam

đang đứng trước những thách thức và cơ hội mới trong việc tiếp cận, khai
thác các nguồn tư liệu, lý giải và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào giải
đáp những vấn để của lịch sử đất nước và thực tế cuộc sổng hiện nay.
Cuốn sách "Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận m ới" khơng có tham vọng
tập hợp tồn bộ những kết quả nghiên cứu mới nhất về sử học và khảo cổ học
Việt Nam, mà chỉ cố gắng giới thiệu một số kết quả nghiên cứu theo hướng vận
dụng các lý thuyết đang phổ biến trong giới nghiên cứu quốc tế; ứng dụng các
phương pháp đa ngành và liên ngành, sừ dụng kết quả của các phương pháp và
kĩ thuật hiện đại trong lĩnh vực sừ học và khảo cổ học. Đối tượng nghiên cứu
là các loại hình di sản lịch sử khác nhau, bao gổm các di sản vật thể; phi vật
thể, sử liệu, văn liệu và cả các nguồn tư liệu khơng chính thống (theo quan
niệm truyền thống), củng như các sản phấm trí tuệ của các học giả đi trước.
9 bài viết được tập hợp trong cuốn sách này - với tư cách những nghiên cứu
trường hợp - có những cách tiếp cận đa dạng và sử dụng những phương pháp
khác nhau để giải quyết hoặc xới lên các vấn để đang được quan tâm. Trong
khi có những bài thuẩn túy mang tính chất là các khảo cứu thuộc chuyên
ngành khảo cổ học hay sử học, người đọc có thể thấy một số bài vận dụng
một cách linh hoạt các hướng tiếp cận của cả hai chuyên ngành; đối tượng
và phạm vi nghiên cứu củng rất đa dạng.

Di sản Lịch sử và những hướng tiến cân mới I 1DC


Nhưng vấn đề cơ bản mà các bài viết đề cập đến bao gồm:
- M ột số khuynh hướng lý thuyết của khảo cố học và sử học đang hiện hành
và việc ứng dụng các lý thuyết này ờ Việt Nam.
- Các phương pháp và ki năng thu thập và khai thác tư liệu, phương pháp
nghiên cứu đa ngành, kỹ năng vận dụng các kết quả nghiên cứu của các ngành
khoa học khác nhau để giải quyết các vấn đề của khảo cổ học và sử học.
- Những hướng tiếp cận khác nhau đối với các nguổn tư liệu khảo cổ học và

lịch sử; những vấn đế có thể được giải quyết, cả trong nghiên cứu lẫn trong
ứng dụng vào thực tế.
D o nội dung củng như các vấn để thảo luận trong các bài không theo một
chủ đề nhất định, trình tự sắp xếp của cuốn sách chỉ mang tính chất tương
đối; đi từ khảo cổ học đến lịch sử, theo trình tự từ sớm đến muộn.
Nhóm bài thứ nhất thuộc lĩnh vực khảo cổ học. Hai bài viết của các tác giả
Nguyễn Gia Đối - Tiếp cận k h ảo c ổ học môi trường sinh thái trong nghiên cứu
tiên sử ờ V iệt N a m , và Lâm T h ị Mỹ Dung - Tiếp cận k h ả o c ổ học xã h ội và
k h ả o cổ học m ộ táng trong nghiên cứu trường hợp M iền Trung V iệt N am thời
Sơ sử là những thừ nghiệm công phu trong việc ứng dụng các lý thuyết và
phương pháp của Khảo cố học mới (hay Khảo cổ học Quá trình) và khảo cổ
học Hậu quá trình (hay Khảo cổ học Xã hội) vào việc nghiên cứu các xã hội
tiền sử và sơ sử ở Việt Nam.
Nguyễn Gia Đ ối khai thác tổng hợp các nguồn tư liệu có được từ các di chỉ
khảo cổ học ở miển Bắc Việt Nam, đặc biệt là tài liệu cổ nhân, cổ sinh, cổ
môi trường, để tìm hiểu và giải thích sự tiến triển của các nền văn hóa thời
kỳ Đồ Đá ở Việt Nam. Việc đặt các văn hóa này trong nền cảnh mơi trường
chung và sự thích ứng văn hóa của các xã hội tiền sử trong khu vực rộng hơn
- Nam Trung Quốc và Đông Nam Á - mở ra khả năng giải thích được những
sự khác biệt hay tương đồng, mối liên hệ và các xu hướng tiến triển của
chúng trong cơ tầng chung là văn hóa Hịa Bình vào thời kì Đá Mới.
Bằng việc tập hợp và phân tích một cách hệ thống các tư liệu, đặc biệt là về
mộ táng; Lâm T h ị M ỹ Dung dựng lại và diễn giải những đặc điểm của một xã
hội đang bước vào thời kì lịch sử - thời kì hình thành các nền văn minh và nhà
nước - ở miền Trung Việt Nam. Những yếu tố của quá trình hình thành nhà
nước như sự phân tầng xã hội, sự gia tăng quyền lực, sự m ở rộng khơng gian
văn hóa, mối liên hệ vùng và liên vùng, địa vị, mức độ tích tụ của cải... của cư
dân Văn hóa Sa Huỳnh được phân định thông qua việc diẻn giải tư liệu bằng
các phương pháp tiếp cận của Khảo cổ học Xã hội và Khảo cồ học Mới. Các
bảng thống kê chi tiết cung cấp nguồn tư liệu quý báu cho việc nghiên cứu

những vấn đề khác nhau của các xã hội và các nền văn minh trong khu vực.

X

I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới


Thông qua các nghiên cứu trường hợp trên đây, người đọc có thể hình dung
rõ ràng hơn sự khác biệt giữa khuynh hướng nghiên cứu khảo cổ học truyển
thống ở Việt Nam (phẩn nào đó gần gũi với lý thuyết Khảo cổ học Lịch sử Văn hóa của giới nghiên cứu phương tây) với các các trào lưu lý thuyết khác
đang thịnh hành hiện nay. Trong khi cách tiếp cận khảo cổ học truyển thống
thiên về lý giải các sự kiện văn hố bằng chính các sự kiện văn hố một cách
tĩnh lặng và theo hướng đơn tuyến, thì các khuynh hướng lý thuyết mới quan
tâm đến việc lý giải bản chất, nguyên nhân và cách thức của quá trình tiến
triển văn hóa trong trạng thái động và trong quan hệ đa tuyến. Các kết quả
nghiên cứu này củng cho thấy, dù các khuynh hướng lý thuyết có phát triển
đến đâu, khảo cổ học vẫn phải là khảo cổ học. Chỉ trên cơ sở tập hợp được
các dữ liệu đầy đủ, chính xác, khoa học, mới có thể có được các hướng tiếp
cận và lý giải khác nhau. Đồng thời, càng có khả năng tiếp cận từ nhiều
hướng; càng có thể tái tạo lại quá khứ với nhiều viễn cảnh khác nhau.
Nhóm bài thứ hai là những trường hợp tiếp cận, khai thác và diễn giải các
nguôn tư liệu đa ngành (khảo cổ, lịch sử, văn hóa, tư liệu vật thể, phi vật
thể...) từ nhiểu hướng và với các mức độ khác nhau để giải quyết các vấn đé
của cả sử học và khảo cổ học.
Bài viết của các tác giả Nguyễn Ngọc T h ơ - N hận diện vàn h ó a L ạ c Việt, và
Phan Thanh Hải - Lịch sử Đ àng Trong nhìn từ H uê, đưa ra các cách tiếp cận
và nghiên cứu so sánh tư liệu khác nhau, đặc biệt là với nguón tư liệu khảo
cổ học, đế giải quyết các vấn để lịch sử.
Vấn để nguón gốc và văn hóa Lạc Việt từng lôi kéo sự chú ý của các học giả
thuộc nhiểu lĩnh vực như sử học, khảo cổ học, dân tộc học, ngơn ngữ học,

văn hóa và di truyền học... Các nghiên cứu này thưởng chi đi sâu vào một
hoặc một vài lĩnh vực, dẫn đến có độ chênh nhất định trong việc diẻn giải
và nhận thức quá trình hình thành các nhóm tộc người và văn hóa. Bằng
hướng tiếp cận đa ngành; phân tích tổng hợp các nguổn tài liệu, các đặc
điểm địa - mơi trường, q trình chuyển dịch và dung hợp vê' văn hóa cũng
như ngơn ngữ và chủng tộc của các nhóm tộc người trong khối Bách Việt,
đặc biệt là vùng Lĩnh Nam, được Nguyên Ngọc T h ơ soi xét để đưa đến
những nhận định vê' sự hình thành tộc người và sự biến đổi diện mạo của văn
hóa Lạc Việt. Tác giả và một sổ nhà nghiên cứu khác chia quá trình này
thành các giai đoạn Lạc Việt Nguyên thủy và Lạc Việt Mới. Người đọc có
thể tiếp tục tranh luận vể các quan điểm và phương pháp tiếp cận tư liệu
mà tác giả đưa ra, đồng thời có thể từ đây tra tìm nguồn tư liệu phong phú,
đặc biệt là của các học giả nước ngồi; vốn ít phổ biến rộng rãi ở Việt Nam.
Lịch sử Đàng Trong nhìn tủ H u ế là bức tranh được Phan Thanh Hải xây dựng
nên từ việc phân tích các tư liệu lịch sử và minh họa bằng khối tư liệu khảo cổ

Di sản Lịch SỪ và những hướng tiếp cận mới I

XI


học phong phú và đáng tin cậy. Sự ra đời và phát triển của Đàng Trong, với vai
trò của nhà Nguyễn đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc là chủ để được bàn
đến khá nhiểu trong những năm gần đây. Phan Thanh Hải chọn một vấn đề rất
cụ thể - quá trình phát triển của các thủ phủ của Đàng Trong - để góp phần
đứa ra các quan điểm đánh giá của mình về sự phát triển của Đàng Trong trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội, thể chế chính trị... Bài viết cho thấy tác giả rất
nhuẩn nhuyễn trong phương pháp tiếp cận, khai thác và đối chiếu các nguổn tư
liệu lịch sử và khảo cổ học, cũng như việc đặt các vấn để văn hóa xã hội trong
bối cảnh môi trường và lịch sử để lý giải các hiện tượng và chứng cứ lịch sử.

Với Quỹ di sản kiến trúc P háp ờ H à N ội, Tạ Hoàng Vân tập hợp các kết quả
nghiên cứu và giởi thiệu khối tư liệu không mới đối với các nhà nghiên cứu
lịch sử kiến trúc và quy hoạch đô thị, nhưng tạo cơ hội tiếp cận một cách khá
đầy đủ và tổng quát cho đông đảo người đọc. Giá trị của nguồn di sản này
vô cùng phong phú và có thể được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau:
nghệ thuật; lịch sử kiến trúc và lịch sử xây dựng, môi trường cảnh quan, quy
hoạch đô thị v.v. M ột phần quan trọng của bài viết để cập đến hướng khai
thác và bảo tồn khối di sản q báu này. Câu hịi ln trăn trờ đối với các
nhà nghiên cứu và quản lý, củng như các nhà hoạch định chính sách là làm
sao giải bài tốn cân bằng giữa phát triển bển vững và bảo vệ, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc; làm sao tích hợp các giá trị của di sản văn hóa vào cuộc
sống đương đại. Những đề xuất mà tác giả đưa ra cho Hà Nội cũng sẽ là
những gợi mở bổ ích cho các vùng miển khác của cả nước.
Nhóm bài thứ ba thiên vê' lĩnh vực sử học. Bài viết của các tác giả Trần Đức
Anh Sơn - H oạt động thương m ại kiêm nhiệm của các sứ bộ V iệt N am ở Trung
H o a thời nhà T han h, và Hoàng Anh Tuấn - “Quốc tế h ó a lịch sử dân tộc”T oàn cầu hóa cận đại sơ kỳ và lịch sử Việt N am th ế kỉ X V II, đưa ra các hướng
tiếp cận khác nhau đối với các nguồn tư liệu liên quan đến vấn đề thương
mại. Trần Đức Anh Sơn bàn về hoạt động thương mại “phi chính thống”
thơng qua việc phân tích tỉ mỉ các nguồn tư liệu liên quan đến hoạt động của
các sứ bộ Việt Nam ở Trung Hoa thời nhà Thanh. Hệ quả của hiện tượng
này đối với nến kinh tế và xã hội Việt Nam sẽ là vấn đề có thể tiếp tục bàn
đến. Với kĩ năng phân tích, so sánh đối chiếu một loại hình tư liệu vật thật
- đ ồ sứ ký kiểUị với các nguồn tư liệu khác gôm sử liệu Việt Nam và Trung
Hoa, châu bản, thơ văn, và các di vật khảo cổ học khác, tác giả mở ra trước
mắt bạn đọc nhiều triển vọng nghiên cứu khác nhau cho m ột vấn để ít được
quan tâm. Khối lượng tư liệu phong phú với các thông tin chi tiết và đáng
tin cậy mà tác giả cung cấp cũng rất hữu ích cho việc nghiên cứu so sánh
các giai đoạn lịch sử trước và sau các thế kỉ XVII-XIX.
Trong khi đó Hồng Anh Tuấn, từ nguồn tư liệu chính là các số liệu thương
mại của các công ty Đông Ấn Anh và Hà Lan, kết hợp với các hướng tiếp cận


X II

I Di sàn Lịch sử và những hướng tiểp cận mới


mới của sử học, phân tích tình hình Việt Nam trong quá trình hội nhập vào hệ
thống thương mại quốc tế giai đoạn thế ki XVI-XVIII. Bức tranh quốc tế tồn
cảnh được tác giả đưa ra giúp cho việc nhìn nhận và lý giải lịch sử Việt Nam giai
đoạn này một cách chân thực và biện chứng hơn. Vấn để phân kỳ lịch sử Việt
Nam giai đoạn cận hiện đại trong bối cảnh toàn cầu cũng được đặt ra.
Với bài viết C ác cải cách giáo dục và khủng hoảng của nhà trường P háp-V iệt
ở B ắc Kỳ cuối những năm 20, đấu những năm 30 của th ế kỷ XX, tác giả Trắn
T h ị Phương Hoa đê' cập tới một lĩnh vực đang được cả xã hội quan tâm.
Mặc dù không bàn tới các vấn đế lý thuyết và phương pháp luận, tác giả có
cách tiếp cận và khai thác hiện đại đối với các nguồn tư liệu trong việc xới
lên và cố gắng giải quyết các vấn đề đặt ra. Người đọc được cung cấp một
bức tranh khá hồn chinh về tình hình giáo dục, ngun nhân của những
thành bại và những nỗ lực cải cách trong một giai đoạn khơng dài nhưng có
tác động lớn tới xã hội Việt Nam. Có thể thấy nhiểu bài học cùa cơng cuộc
cải cách giáo dục này vẫn cịn có giá trị tham khảo cho xã hội hiện nay.
Cùng với các tác động của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân phương
Tây (từ thế ki X V II đến nửa đầu thế kỉ X X ), xã hội Việt Nam trải qua những
biến động sâu sắc vế mọi mặt. Các nguồn sử liệu chính thống khơng đủ khả
nấng phản ánh đầy đủ những biến động đó; kể cả đối với chính những vấn
đê' lịch sử chính trị và ngoại giao, vổn được các sử gia phong kiến chú tâm
ghi chép. Mặc dù có các mức độ thành công khác nhau, các bài viết về lĩnh
vực lịch sử của các tác giả Trần Đức Anh Sơn, Hoàng Anh Tuấn và Trần
Thị Phương Hoa là những ví dụ khá điển hình của xu hướng hiện nay trong
việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu, khai thác và xử lý tư liệu.


Cuốn sách được khép lại bằng bài viết của tác giả Trẩn Thị Bích Ngọc N am Bộ và L ịch sử xã hội N am Bộ, lấy các tác phẩm nghiên cứu về Nam Bộ
và bối cảnh xã hội Nam Bộ làm đối tượng để đánh giá và chi ra những thiếu
hụt về phương pháp luận trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử hiện nay. Các
trường phái nghiên cứu lịch sử trên thế giới được tác giả giới thiệu một cách
khái quát với các dẫn chứng tiêu biểu. Phương pháp nghiên cứu ỉịch sử mớiy
có sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu nhân học và lịch sử văn h ó a , quan
tâm đến mối quan hệ giữa điểu kiện sinh thái tự nhiên với bối cảnh kinh tế
và tâm lý x ã hội... có khả năng đưa đến những hiểu biết đầy đù hơn về lịch
sử nhìn từ bên dưới. Hiểu biết và vận dụng một phương pháp mới như thế
nào để giải quyết những vấn đê' của từng khu vực, từng xã hội và mỗi quốc
gia, cụ thể ở đây là vùng đất Nam Bộ, là vấn đề được tác giả nêu ra và phân
tích cụ thể. Bài viết vi vậy rất có ý nghĩa cho những nhà nghiên cứu lịch sử
trẻ, khi băn khoăn tìm cho mình một hướng đi và một cách tiếp cận hợp lý
đối với các đối tượng nghiên cứu khác nhau.

Di sàn Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I DC111


Như ]à những cố gắng thử nghiệm, các kết quả nghiên cứu được trình bày
trong cuốn sách một mặt cung cấp nguồn tư liệu phong phú, nêu lên các
vấn đề phức tạp, đa dạng, được đặt ra trong phạm vi rộng lớn, góp phấn đưa
đến những cách tiếp cận và khai thác tư liệu mới; nhận thức mới; mặt khác
củng bộc lộ và đặt ra nhiều vấn để vể nhu cầu phát triển các ngành khoa
học phụ trỢ; phương pháp luận, các kĩ năng và các vấn để nghiên cứu mà sừ
học và khảo cổ học Việt Nam cẩn tiếp tục hướng tới trong thế kỉ XXI.
Cũng như cách thức đã thực hiện với hai cuốn sách đã xuất bản, Nhóm Biên
tập gồm PGS. TS. Lê Hổng Lý (Viện Nghiên cứu Văn hóa, Trưởng nhóm),
TS. Nguyễn Thị Phương Châm (Viện Nghiên cứu Văn hóa, T h ư kí), T S. Lê
Thị Liên (Viện Khảo cổ học, Biên tập chính), T S . Trần Hải Yến (Viện Văn

học), PGS. TS. Nguyễn Kim Sơn (Đại học Khoa học xã hội Nhân văn thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội); T S. Lê Ngọc Hùng (H ọc viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh) tham gia vào việc tổ chức bản thảo, tìm kiếm
các nhà nghiên cứu có uy tín để xin ý kiến phản biện, trao đổi và làm nhịp
cầu nối các tác già với người phản biện. Các bài viết được trình bày là két quả
cơng sức làm việc kiên trì của các tác giả, các phản biện độc lập và Nhóm
Biên tập, nhằm cố gắng đạt đến chuẩn mực cao nhất có thể vể hình thức và
phương pháp trình bày. Đồng thời, để đảm bảo tính khách quan khoa học
và phản ánh một cách sát thực nhất tinh hình nghiên cứu sử học và khảo cổ
học Việt Nam hiện nay, Nhóm Biên tập tơn trọng và giữ ngun các quan
điểm và ý kiến bàn luận của các tác giả; sau khi họ đã trao đổi và bổ sung
theo các góp ý của các phản biện độc lập. Trong q trình biên soạn cuốn
sách; chúng tơi cũng đã nhận được một số bài viết của các tác giả khác, để
cập tới những vấn đề rất có ý nghĩa của khảo cổ học và lịch sử. Tuy nhiên
do một số lý do nhất định, các tác giả chưa có đủ thời gian để hoàn thiện bài
viết theo yêu cẩu của Nhóm Biên tập. Chúng tơi hy vọng sẽ tiếp tục được
quay lại với các cơng trình nghiên cứu này trong tương lai.
Cuốn sách được hoàn thành nhờ sự hỗ trợ quan trọng của Viện Harvard
Yenching vê' mặt tài chính và sự hợp tác của đội ngũ lãnh đạo; các biên tập
viên kĩ thuật; thiết kế,... của Nhà xuất bản T h ế giới.
Dù còn nhiều vấn để cần tiếp tục được tranh luận, nhiều phương pháp cần
được bổ sung và cập nhật, nhiều thiếu sót cịn bộc lộ do khâu biên tập,
chúng tơi tin rằng cuốn sách sẽ có ích ở nhiểu góc độ khác nhau. Cuối cùng,
chúng tơi xin được độc giả gần xa lượng thứ cho những khiếm khuyết của
cuốn sách và đóng góp những ý kiến q báu để những tác phẩm tiếp theo
ngày càng có chất lượng tốt hơn.
H à N ội, X uân 2011
Ban Biên tập

ĨCYU


I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới


TIẾP CẬN KHẢO C Ổ H Ọ C MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI TRONG NGHIÊN

cứu TIỀN sử

Ở VIỆT NAM
Nguyễn Gia Đối*

TÓ M T Ắ T
Về cơ bản, khảo cổ học Việt Nam là bộ môn được xếp vào một ngành của
khoa học lịch sử. Hệ thống lý thuyết, phương pháp tiếp cận mang tính chất
trường phái khảo cổ học lịch sử - văn hố. Đó là việc coi trọng các khía cạnh
về mặt niên đại, các đặc trưng, các mối liên hệ văn hố theo chiều lịch đại
và các q trình lịch sử, lý giải các sự kiện văn hố bằng chính các sự kiện văn
hoá. Khảo cổ học trên thế giới hiện đang thịnh hành là khảo cổ học nhân
học. Nó xem xét con người trong các mối liên hệ với mơi trường, hệ sinh
thái. N ó giải thích các sự kiện văn hố bằng các sự kiện mơi trường, sinh
thái gắn với các q trình thích ứng và biến đổi văn hố. Bên cạnh đó; nghiên
cứu về mặt con người trong các mối liên hệ với cộng đổng và hình thái cấu
trúc của các xã hội cổ đại cũng đang là trào lưu của khảo cổ học hiện đại.
Diện tiếp cận của khảo cổ học ngày nay ngày càng mở rộng với các hình
thức liên ngành và đa ngành. Đó là các tiếp cận khảo cổ học môi trường;
khảo cổ học sinh thái, địa khảo c ồ , khảo cổ học cư trú, khảo cổ học hành vi,
khảo cổ học sinh kế, khảo cổ học cộng đổng; khảo cổ học xã hội; khảo cổ
học giới v.v. Phương pháp luận sử dụng lý thuyết các hệ thống tổng quát,
phương pháp diễn dịch và khảo cổ học nhận thức.

Trong nghiên cứu khảo cổ học ờ Việt Nam, bên cạnh cách tiếp cận truyền
thống; gần đây đã xuất hiện một số cơng trình sử dụng các phương pháp
tiếp cận mới mang tính hệ thống và giàu tính lý thuyết, bước đầu đem lại
hiệu ứng đối với giới nghiên cứu. M ột số ví dụ v ế hướng nghiên cứu bối
cảnh môi trường sinh thái nhằm lý giải nguyên nhân và xu hướng của sự tiến
*

TS. Viện Khảo cổ học.

Di sàn Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I I


triển của các nền văn hóa thời kỳ T iển sử ờ Việt Nam sẽ được trình bày
trong bài viết này.

D ẪN LUẬ N


M ơi trường mà con người sống thường được coi như là một loạt các quyển
(spheres) như khí quyển, thủy quyển, thạch quyển, sinh quyển. M ơi trường
nhân văn bao gồm những nhân tố bên ngoài chủ yếu vể mặt sinh học và vật
lý thiết lập nên trường hoạt động của con người. Nó đưa lại những cơ hội và
thách thức cùng những phản hồi mang tính văn hóa của con người. M ơn
sinh thái nhân văn nghiên cứu sự tương tác giữa con người với môi trường
của họ. Viễn cảnh nghiên cứu con người và văn hóa như là các thành tố của
m ột hệ sinh thái sẽ hợp nhất được nhiều cách tiếp cận riêng rẽ trước đó
trong nghiên cứu nhản học (Evan and 0 ’Conno 1999; Recherson and
M cEvoy 1976).
Trong nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam trước đây, các cuộc điền dã khai
quật, ngoài di vật khảo cổ (artifacts) người ta cũng đã chú ý thu thập các di

tồn của tự nhiên (ecofacts) như di cốt động vật, di tích thực vật, mẫu đất đá
v.v. để tìm hiểu về mơi trường sống của cư dân di chỉ. Tuy nhiên, các phân
tích mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận diện thành phần giổng lồi mà chưa chỉ
ra những thơng tin vé cổ mơi trường sinh thái cũng như tương tác của nó với
các bối cảnh văn hóa. M ột số tiến bộ mới trong tiếp cận khảo cổ học môi
trường sinh thái cũng như nghiên cứu so sánh đã đạt được sau các cuộc khai
quật gấn đây tại hang Làng Tráng; M ái đá Điều, Hang Chổ, hang Con
Moong, hang Ma Ươi và hang Đười Ươi. Các kết quả đó khiến cho bức tranh
thời Tiền sử miền Bắc Việt Nam được phục dựng lại đầy đủ và nhiéu màu
sắc hơn.

1. M ôi t r ư
V iệ t Nam

ờ n g

s in h

t h á i h ậ u

k ỳ

P l e is t o c e n e ở b ắ c

Cho đến nay nhìn chung mơn phân tích về địa chất, địa tầng; thạch học
chưa thực sự phát triển nên các hóa thạch động vật, di tích thực vật trong
các di chỉ hang động là tư liệu chủ yếu để tìm hiểu về các điểu kiện cổ môi
trường sinh thái giai đoạn hậu kỳ Pleistocene ở Bắc Việt Nam. Trước đây
một số hang động có trẩm tích chứa hóa thạch động vật được nghiên cứu


2. I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới


như Thầm Ổm (Nghệ An), Thung Lang (Ninh Bình), Thẩm Khuyên, Kéo
Lèng, Phai Vệ (Lạng Sơn); Hang Hùm (Yên Bái).v.v. Trong khoảng hai
thập kỷ gần đây; một sổ hang động được khai quật quy mô hơn với các SƯU
tập khá phong phú, tiêu biểu cho quẩn động vật thời kỳ này (Hình l ) .
Hang Làng T ráng
Hang Làng Tráng (B á Thước, Thanh H óa) được khai quật vào các năm
1989 và 1992 do nhóm các nhà khoa học hợp tác Việt-M ỹ tiên hành
(Nguyễn Văn Hảo và Lê Trung Khá 1990; Ciochon et al. 1992).
Hóa thạch động vật ở Làng Tráng chủ yếu là các loài sau: Pongo pỵgmaeus sp.
(đười ươi), M acaca m ulatta (khỉ vàng); M acaca sp. (khi); H ỵlobates
sp.(vươn); Prebytis sp.(voọc); ư rsus thibetanus (gấu ngựa); H eỉarctos
m aỉaỵanus (gấu chó), A iỉuropoda m elanoleuca (gấu trúc); Arctonyx collaris
rostratus (lửng lợn); cf. M elogale m oschata (chổn bạc má), Lutrogale
perspicỉlata (rái cá); cí.Pagum a ỉarv ata (cẩy vòi m ốc); cf. P aradoxurus
hermaphroditus (cẩy vịi đốm); Viverra sp. (cầy); Cuon antiquusịavanicus (chó
rừng Java); Cuon alpinus (chó rừng); cí.C anis sp.(chó sói); P an thera tigris
(h ổ ); cí.P an thera pardu s (báo); cf.N eofelis nebulosa (báo gấm) cf.Felis
gengaỉenis (m èo); Felis temmincki (b eo ); Hỵstrix subristata (nhím); Atherurud
macrourus (don); Rhizomus troglodytes (dúi); Rattus sabanus (chuột); Rattus
rattus (chuột núi); Chiroptera gen. et. sp. indet. (dơi); A rchidiskodon sp. (voi
cố); Elephas namadicus (voi phương nam); Stegodon orientaỉis (voi răng kiếm);
cf. P alaeoloxodon aff. N am adicus (voi cổ châu Á) Tapirus ( m egatapirus)
augusthus (heo vòi lớn); Tapirus sp. (heo vòi); Rhinoceros sinensis (tê giác);
D icerorhinus sum atraensis (tê giác hai sừng); Sus scrofa (lợn rừng); Rusa
unicolor (nai); Cervus sp. (hươu); M untiacus muntịak (hoẵng); cf.Tragulus
ịavanicus. (cheo cheo); Bibos gaurus (bị tót); Bos sp. (bò); Bubalus bubalis
(trâu); Capricom is sumatraensis (sơn dương); Cỵclophorus (ốc núi). Ngồi ra

ở đây cịn phát hiện được răng hóa thạch của người khôn ngoan H om o sapiens.
Quan điểm phổ biến trước đây coi loại trầm tích màu vàng chứa các hóa
thạch đặc trứng thuộc phức hệ Pongo - Sgegodon - Ailuropoda ờ miền Bắc
nước ta có tuổi khoảng 4-5 vạn năm, thuộc quần động vật Hoa Nam, dạng
hình Quảng Tây; Trung Quốc. Những nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng;
những hóa thạch ở Làng Tráng cũng rất tương đổng với quẩn động vật trong
các hang động Lida Ajer, Djambu và Sibrambang (Sumatra), hang Punung
(Java), hang Niah (Malaysia). Tuy nhiên, trong thành phẩn các giống lồi
có một số khác biệt như quần động vật Sumatra khơng có các lồi Stegodon,
Ailuropoda, trong khi đó ớ Làng Tráng lại khơng có các lồi thuộc quần
động vật Sumatra như Bos javatĩicu s và Sur barbatu s. Các nghiên cứu so

Di sàn Lịch s ừvà những hướng tiếp cận mới I

3


Vịnh Bác Bộ

HồkfSa

s

16°«.

THÁI LAN

Hình 1
Các di tích Cơ Sinh - Cơ Nhân, Đá Cũ - Sơ kỳ Đá Mói tiêu biểu ở Việt Nam
1. Thẩm Khuyên, 2. Thầm Hai, 3 .Thầm ò m , 4. Hang Hùm, 5. Làng Tráng, 6. Hang Đười Ươi,

7. Th u n g Lang, 8. Kéo Lèng, 9. Núi Đọ, 10. Xuân Lộc, 11. Đồi Thông, 12. Làng Vạc,
13. Sơn Vi, 14. Chũ, 15. Cùa, 16. Lung Leng, 17. NgƯờm, 18. Mái Đ á Đ iều, 19. Hang Áng Má,
20. Hang Chổ, 21. Hang Muối, 22. Xóm Trại, 23. Hang Dơi
A Di tích Cổ nhân - c ổ sinh; • Di tích Đ á Cũ; ■ Di tích Hậu kỳ Đá Cũ - Sơ kỳ Đá Mới

4

I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới


sánh trên cho thấy, có nhiêu khả năng quần động vật trên các đảo ờ
Indonesia và Malaysia cũng mang nhiéu yếu tố cúa quần động vật Nam
Trung Quốc. Điều đó cho thấy vào thời Pleistocene, những động vật này đã
phía nam t ớ i các đảo Java và Kalimantan k h i đ ó cịn nối liến với
Đơng Nam Á lục địa bởi thếm Sundaland. Mức độ tương đổng cao giữa
quấn động vật Làng Tráng và quần động vật Sumatra củng gợi ý rằng chúng
có cùng một niên đại thuộc Pleistocene muộn như ở Sumatra và Niah, với
d i C IÍ v ế

các niên đại tuyệt đối được xác định vào khoảng 50.000-80.000 năm cách
ngày nay.
H ang Đười Ư ơi/M a Ươi
Hang Ma Ươi (T ân Lạc, Hịa Bình) được thám sát và khai quật vào các năm
2003, 2 0 0 4 và 2006 (Rousse’ et al. 2003 ; Bacon et al. 2004, 2006; Demeter
etal. 200 4, 2 0 0 5 ).
Thành phẩn động vật hang Đười Ươi mang tất cả những tính chất của một
tập hợp động vật có vú của Pleistocene muộn với tuổi sinh học phù hợp với
niên đại U / T h ( 6 6 ± 3 ka). Về khía cạnh này, nó tương đối giống với các
quẩn động vật có cùng tuổi như Làng Tráng (80-60 nghìn năm trước) (de
Vos and Long 1993; Long và cộng sự 1 9 9 6 )) hoặc sớm hơn một chút như

ờ Hang Hùm (14 0 -8 0 nghìn năm trước) (Nguyễn Lân Cường 1985; Olsen
and Ciochon 1990). Tuy nhiên, hang Đười Ươi khơng có các thành phần
động vật cổ đã được tìm thấy trong các địa điểm trên, như khơng có
Stegodon orien talis như Làng Tráng, hay khơng có E lep h as n am adicu s,
M egatapirus augusthus như ở Hang Hùm. T ư liệu ở hang Đười Ươi đã cho

thấy rằng, vào khoảng 66 nghìn năm trước, những loài động vật hiện đại đã
sống ở khu vực này. Như vậy ở hang Đười Ươi, đã có mặt quần động vật
hiện đại có niên đại cổ nhất hiện biết ở Đông Dương. Sự tương đổng giữa
quần động vật hang Đười Ươi và các quần động vật ở các địa điểm khác
cùng thời như Punung và Gunung Dawung ờ Java; Lida Ajer, Sibrambang
và Dịambu ở Sumatra là điểm đáng lưu ý. Trong số này, sự tương đổng rõ
rệt nhất là giữa Đười Ươi và Sibrambang ờ Sumatra, một đảo gần bán đảo
Malay nhất. Hầu hết các thành phần có mặt ở hang Đười Ươi đều xuất hiện
trong các địa điểm ớ Sondai. Thậm chí chúng cịn chứa các thành phần động
vật hiện đại di cư như Pongo pygm aeus, H elarctos m aỉayanusỊ E lep h a s
m axim us, Sus scrofa v.v. (de Vos 1 9 8 3 ). Có lẽ vào khoảng 70 nghìn năm
trước, tương đương tuồi quần động vật của hang Đười Ươi, quần động vật
đặc trưng của thềm Sunda là những loài hiện đại. Sự có mặt của Pongo ở
hang Đười Ươi cũng như ở Punung và Sibramban gợi ý rằng, vào thời kỳ
này những cánh rừng nhiệt đới bao phủ xuyên suốt cả một vùng rộng lớn của

Di sản Lịch sử và

những hướng tiếp cận

mới I

5



thềm Sunda. Ngay cả khi rừng bao phủ thềm Sunda khơng thực sự trùng
với thời gian tiếp nối thì sự di cư của những loài sống dựa vào rừng như
Pongo hay Hylobates địi hỏi phải có sự tồn tại tiếp tục của rừng để sinh
tổn. Theo giả thuyết của Van den Bergh và cộng sự (Van den Bergh et al.
1996, 2 0 0 1 ), sự di CƯ của quần động vật hiện đại này diễn ra suốt giai đ oạn
sau của Oxygen Isotopic Stage 5 ( O IS 5 ), khoảng giữa 110 và 70 nghìn năm
trước, khi mực nước biển hạ thấp 50m so với hiện nay, đủ điểu kiện để nối
các đảo lớn như Borneo, Java, Sumatra với bán đảo Malay (Voris 2 0 0 0 ).
Điều kiện khí hậu khi đó vẫn đặc trứng là ấm và ẩm giai đoạn trước 70 nghìn
và sau băng hà cực đại 125 nghìn năm trước (Chappell and Shackleton
1987; Prentice and Denton 1 988 )
Môi trường, sinh thái cuối Trung kỳ - đầu Hậu kỳ Pleistocene ở BắcViệt
Nam được xác định với tính chất là các vùng rừng bao phủ và một số khu vực
thơng thống với các chỉ định là tỷ lệ cao hóa thạch của các lồi thuộc bộ ăn
thịt (Carnivora), bộ guốc chẵn (Artiodactyla) và bộ linh trưởng (Primates).
Trong điều kiện khí hậu ấm và ẩm vào khoảng 140-80 nghìn năm tương ứng
với tuổi trầm tích, hóa thạch hang Hùm (Olsen and Ciochon 1 9 9 0 ), trẩm
tích hang Làng Tráng và hang Đười Ươi, khoảng 6 0 -8 0 nghìn năm trước
(Bacon et al., 2 0 0 6 ). Sự hiện diện của Pongo ở hang Đười Ươi, Làng Tráng
và các hang động khác cho thấy rằng vào khoảng 66 nghìn nảm trước, khí
hậu Bắc Việt Nam vẵn mang tính chất á nhiệt đới và nhiệt đới. Các lồi khác
phản ánh các điểu kiện mơi trường sống khá đa dạng, nhưng thường đặc
trưng bời rừng và các vùng có cây cối rậm rạp. Hệ sinh thái này trải rộng
khắp cả thềm Sundaland. Lồi heo vịi sống trong những cánh rừng nhiệt
đới ẩm và những vùng đẩm lầy trải rộng từ bán đảo Malay tới Sumatra.
Chúng hiếm khi được tim thấy ờ độ cao trên 1500m so với mực nước biển.
Chúng cũng sống theo mùa trong nhiểu kiểu sinh thái trải từ vùng rừng cây
lá kim khô hạn tới các vùng rừng cây rụng lá theo mùa hoặc rừng thường
xanh (Brooks et al. 1997; Nowak 1999). Loài ăn cả thức ăn động thực vật

(omnivorous) như gấu chó (H elarctos m alayan u s) sống trong các khu rừng
rậm tại tất cả các độ cao khác nhau (Lekagul and McNeelỵ, 1988 ). Loài gấu
ngựa thường sống ở vùng rừng cây rụng lá theo mùa ẩm ướt và rừng cây bụi
rậm rạp, đặc biệt là ở các vùng đồi núi (Nowak 1 9 9 9 ). Các loài hươu và
hoẵng thích nghi với các vùng có cây cối rậm rạp.
Lồi tê giác Rhinoceros unicornis hiện cịn sống ở các bãi cỏ ven sơng và các
vùng đầm lẩy có vành đai cây cối rậm rạp, rừng cây chai hơi khô hạn hoặc
rừng cây hạnh nhân nhiệt đới bao quanh. T ư liệu thu thập được về môi trường
sống của loài tê giác Ấn Độ trước đây gồm một số dạng như vùng đất thấp đám
lầy với cỏ cao hay bụi rậm, thỉnh thoảng có suối và đầm lầy; rừng cây to xen

Ổ I

Di sàn Lịch sử và những hướng tiếp cặn mới


lản cây thân bụi ven sông; rừng hỗn giao hơi khô hạn (Laurie et al.; 1983;
Nowak; 1999). T ê giác Ấn Độ là lồi động vật chủ yếu ăn cị (chiếm 70-89%
lượng thức ăn, trong đó bao gồm cả quả, lá, cành cây và cây thân bụi). Tê giác
Ấn Độ uống nước hàng ngày và thỉnh thoảng đến những nơi đất mặn để liếm
muối (Laurie et al. 1983; Nowak 1999). T ê giác Sondai ( Rhinoceros
sondaicus) ưa thích cỏ cao, các vùng đất thấp nhiểu lau sậy trong các vùng
rừng mưa nhiệt đới, nơi đảm bảo về nguổn cung cấp nước và nhiéu vũng bùn
để chúng đầm mình. T ê giác Java và tê giác Sumatra là các loài chuyên ản
cành; chồi non, tán lá non và quả (Nowak 1999), chúng phân tán theo mùa
vi liên quan đến nền khí hậu gió mùa (Groves and Kurt 1972; Nowak 1999).
Tóm lại; SƯU tập quần động vật hang Đười Ươi cho thấy rằng vào khoảng 66
nghìn năm trước tổn tại những khu vực rừng bao phủ và một số môi trường
quang đãng dưới các điểu kiện khí hậu ấm và ẩm. Phấn hoa thu được ở hang
Đười Ươi quá nghèo nàn do mức độ bảo tổn rất kém của chúng trong trám

tích, không thể cung cấp thông tin sâu hơn vể cổ môi trường và cổ dân tộc
thực vật học.
Sự phong phú của một số lồi động vật có vú lớn như Rhinocerotids, Elephas,
Bubalus bubalisf T apirus indicus phản ánh các điều kiện khí hậu ẩm ướt. Các
điều kiện khí hậu ẩm đã tón tại trong khu vực này từ trung kỳ Pleistocene ở
Việt Nam, tương đương tuổi trầm tích hóa thạch hang Thẩm Khuyên với
niên đại 4 7 5 ± 1 2 5 ka; và Yenchingkuo ờ Nam Trung Quốc.
C ác nguổn tư liệu từ các di chỉ khác
Mỏi trường và các hệ sinh thái tương ứng với các quần động vật nói trên cịn

được duy trì cho đến khoảng trên dưới 3 vạn năm cách ngày nay, tuy nhiên
nó đã có biến đổi ít nhiểu.
Phân tích thành phần thạch học trong đơn vị địa tầng I di chỉ mái đá Điểu
(khoảng 24-30 nghin năm) cho thấy trầm tích vụn cơ học lắng đọng gồm
dăm đá sắc cạnh, cát kết, bột sét kết, silic, thạch anh, oxýt sắt, lẫn ít bã thực
vật và mảnh vụn vị nhuyễn thể bị kết vón thành khối tảng rắn chắc màu
vàng có tuổi Pleistocene muộn. Hóa thạch động vật ở tầng I Mái đá Điểu
gổm một số lồi gần gũi với hóa thạch cổ sinh Làng Tráng, tuy nhiên chủng
loài đã giảm đi đáng kể, thiếu vắng một số loài đặc trưng cho hậu kỳ
Pleistocene như gấu tre, voi răng kiếm, voi cổ (Palaeoloxodon), heo vòi
.v.v. nhưng vẩn còn hiện diện của Pongo. Mặt khác, vể mức độ hóa thạch
của di cốt ở Mái đá Điều cũng thấp hơn Làng Tráng. Tương tự như Mái đá
Điều, hóa thạch tìm được trong lớp trẩm tích màu vàng có tuổi khoảng từ
23-30 nghìn năm ở Mái đá Ngườm (Ngườm I) củng có mặt Pongo nhưng

Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I

7



khá nghèo vể chủng loài và thiếu vắng một số lồi đặc trưng như đã nói ở
trên. Trong lớp sâu nhất của địa tẩng Hang Chổ có niên đại khoảng trên
dưới 22 nghìn năm phát hiện được một phần răng của Stegodon. Đây là vết
tích voi răng kiếm muộn nhất được biết tới ở Việt Nam.
Có thể nói rằng sau khoảng trên dưới 30 nghìn năm trước, nền khí hậu ở
Bắc Việt Nam đâ bắt đầu có sự biến đổi theo chiều hướng lạnh khơ. M ột
số lồi động vật đặc trưng cho hậu kỳ Pleistocene trước đây như Pongo;
Stegodon, Ailuropoda do khơng thích ứng với điều kiện mơi trường mới đã
phải di CƯhoặc bị tuyệt diệt. Về cơ bản vào khoảng 18 nghìn năm trở vể sau
khơng cịn dấu vết của các lồi động vật nói trên. Hệ thực vật thời kỳ này
ở Bắc Việt Nam có lẽ đặc trưng bởi kiểu rừng hỗn giao á nhiệt đới và ôn đới,
rừng cây lá rộng rụng lá theo mùa như họ F a g a c ea e (sổi d ẻ), C arỵa (hồ
đào), Ịu g lan d aceae (ó c c h ỏ ) , Carpinus (cáng lò) hiện diện trong tập hợp
bào tử phấn hoa mái đá Ngườm. Rừng vùng núi cao phía bắc có thể cịn
chứa các yếu tổ cây lá kim và vùng vi độ thấp hơn hồn giao với cây lá rộng
thường xanh.
Ở di chỉ Mái đá Điểu, khung niên đại chi định cho lớp sâu nhất của địa
tầng (Điểu I) là khoảng trên 20 nghìn đến 30 nghìn năm, niên đại của lớp
giữa khoảng 20-12 nghìn năm. Mái đá Điểu khơng có lớp dăm đá vôi như
Ngườm nhưng sự khác biệt giữa đơn vị địa tầng I và II là khá rõ biểu hiện
qua trình độ di cốt hóa thạch và thành phần động vật. Đơn vị địa tầng I
chứa hóa thạch, trong đó có Pongo; khá hiếm vỏ nhuyễn thể và kích thước
của chúng cũng khá nhị, phản ánh giai đoạn này có chế độ nhiệt ẩm thấp
(Nguyễn Gia Đối; 1998, 1999). Đơn vị địa tầng II chứa di cốt động vật bán
hóa thạch, khơng có đại diện các lồi động vật đặc trưng của Pleistocene
muộn, các loài ốc núi Cyclophorus và ốc suối Antimelania costula xuất hiện
nhiều hơn.
Gần đây dự án nghiên cứu vê' cổ khí hậu bằng phương pháp phân tích từ
cảm (M agnetic Susceptibility) mẫu đất trong các địa tầng hang con
M oong (Thanh H ó a), Hang Lán M ò, Hang T ọ (S ơ n L a) và đặc b iệt là

Hang Chổ (H ịa B ình) cũng cho thấy rằng vào khoảng trên dưới 3 0 - 20
nghìn năm trước là m ột thời kỳ khí hậu ơn hịa xen kẽ các đợt lạnh, trong
đó có một đỉnh rất lạnh và khô vào khoảng 2 3 -2 2 nghìn năm (Lưu
Phương Lan và Ellwood; 2 0 0 9 ). Có lẽ đợt lạnh này đã tác động đến sự
cân bằng sinh thái khu vực, mà rõ ràng nhất là sự di chuyển của một số loài
động vật Ưa nóng như Pongo xuống phía nam. Hóa thạch Pongo muộn
nhất hiện biết ở nước ta là ở Mái đá Ngườm, niên đại 2 3 .0 0 0 năm cách
ngày nay. Hóa thạch Ailuropoda muộn nhất ở Mái đá Ơng Quyển, niên
đại 18.000 năm. Hóa thạch Stegodon muộn nhất đựỢc phát hiện gần đây

8

I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới


ở lớp đáy Hang Chổ, niên đại vào khoảng 2 2 .0 0 0 năm cách ngày nay (Yi
Seonbok et al. 2 0 0 8 ) . Nhìn chung, trong các di tích hang động ở Việt
Nam, khoảng sau 18 nghìn năm cách ngày nay hắu như khơng cịn phát
hiện được các loài động vật thuộc phức hệ Pongo - Stegodon Ailuropoda, được cho là đặc trưng cho vùng Nam Trung Quốc và Bắc Việt
Nam vào giai đoạn hậu kỳ Pleistocene.
Theo các nhà nghiên cứu cổ khí hậu Đệ T ứ Kỷ Trung Quốc, giai đoạn 50
- 10 nghìn năm trước là giai đoạn khô và lạnh nhất của thế Cánh Tân
muộn. Trong giai đoạn này, thời kỳ đầu khí hậu ơn hịa và giai đoạn sau
(sau 32.000 năm) khơ và lạnh, nó tương ứng với giai đoạn muộn băng hà
Wưrm của châu Âu. Khoảng 5 0 .0 00 năm trước, ở phía bắc Trung Quốc
thám thực vật thể hiện một chế độ khí hậu ơn hịa và bán ầm; nhiệt độ
trung bình được cho là thấp hơn hiện nay 4 ° c . Thực vật chủ yếu bao gồm
các loài C h en o p o d ia cea e, G ram in eae và C om p ositae cùng với loài voi
C oeloảon ta anitiquitatis. Sau 23.000 năm khí hậu trở nên khắc nghiệt hơn
rất nhanh, các khu vực sa mạc lảnh nguyên và đồng cò rộng lớn xuất hiện

ở đơng bắc Trung Quốc. Nhiệt độ trung bình hàng năm được ước tính thấp
hơn hiện nay 1 2 °c . Sự khắc nghiệt cùa khí hậu lạnh đả làm cho các lồi
động vật ở phía bắc Trung Quốc di chuyển xuống phía nam. Vào khoảng
50-40 nghìn năm trước, mực nước biển hạ xuổng thấp hơn ngày nay khoảng
75-88m . Sau đó qua một đợt biển tiến rất ngắn vào qng 39 nghìn năm,
khí hậu bước vào một giai đoạn lạnh nhất vào khoảng 21-12 nghìn năm
trước, mực nước biển hạ xuống khoảng 150m so với hiện nay. Thém lục địa
rộng lớn trờ thành đất liến, các đảo ngoài khơi như Đài Loan và Hải Nam
được nối liển với lục địa. Biển thối cũng tạo ra một nển khí hậu khơ hạn
hơn và hoạt động của gió tây được tàng cường. Khoảng 22-18 nghìn năm
tntịc gió mùa thổi từ vịnh Bengal rất khô và yếu (Tong Goubang and Shao
Shixiong 1 9 9 1 ).
Các cơng trình nghiên cứu về cổ mơi trường khí hậu ở từng khu vực cũng
cho thấy rằng, vào khoảng từ trên 3 vạn năm cách ngày nay, khí hậu ở
Nam Trung Quốc đã dẩn chuyến từ ấm và ấm sang lạnh và khô hơn.
Tro n g khoảng 3 0 -2 0 nghìn năm, khí hậu ở khu vực Bạch Liên Đ ộng
(Quảng Tây, Trung Q uốc) mát lạnh và khỏ hơn hiện nay thúc đây quần
động vật nhiệt đới di cư xuống phía nam và một số lồi động vật có vú lớn
nào đó bị tuyệt diệt, khoảng 20-15 nghin năm khí hậu ở vùng này cũng
cịn tương đối lạnh và khơ (Khổng Chiêu Thẩn và cộng sự 1 9 9 4 ). Khoảng
36 nghìn đến 20 nghìn năm trước, ở khu vực di chỉ Menghai (Vân N am )
mùa đông ẩm ướt hơn và nhiệt độ hàng năm chỉ thấp hơn hiện nay chút
ít. Khoảng 17-16 nghìn năm trước, ở khu vực Er Yuan (C ôn M inh), nhiệt

Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I

9


độ hạ xuống khoảng từ 2,5° đến 4 ° c . T ừ 17-10,5 nghìn năm trước, lượng

mưa hàng năm đã cao hơn nhưng tất nhiên là còn thấp hơn so với hiện
nay (An et al. 1 9 9 3 ).
Một số cơng trình nghiên cứu vế cổ mơi trường ở Đông Nam Á cho rằng từ
32.000 năm trở đi có một thời kỳ khơ lạnh. Khi phân tích thành phán vi
lượng trong các lớp đất địa tầng hang Niah ở Sarawak, Peterson đã nhạn ra
rằng, tầng đất có niên đại 32,000 năm đến 20,000 năm trước tương ứng với
một giai đoạn lạnh và khơ, do tẩng này có hàm lượng mangan và phốt pho
rất thấp (Peterson, R.M. 1969). Trong khoảng 18-16 nghìn năm trước, các
đảo ở Philippin và thềm Sundaland, nhiệt độ thấp hơn ngày nay 2-4° c
(Peterson 1978). Verstappen nghiên cứu ở Malaysia cũng đi đến kết luận
rằng, trong các thời kỳ băng hà đã tổn tại các điếu kiện khô với sự hạ nhiệt
độ và một mùa khô kéo dài (Verstappen 1975).
Tại di chỉ Mái đá Ngườm (Võ Nhai, Thái Nguyên); tầng nằm dưới lớp đá
dăm được cho là biểu thị một giai đoạn nóng ẩm và tầng trên chuyển sang
khí hậu khơ hạn. Khoảng trước 2 3 .0 0 0 năm là giai đoạn lạnh nhất, phần
phía bắc lục địa Đơng Nam Ả, khí hậu càng lạnh hơn. Đó chính là giai đoạn
hình thành lớp dăm đá vôi ở Ngườm (H à Văn Tấn 1985).
Khoảng sau 20 nghìn năm cách ngày nay; khí hậu ở Bắc Việt Nam có dấu
hiệu ấm dấn trở lại, độ ẩm và lượng mứa cũng phẩn nào tăng lên. Bước
sang giai đoạn đơn vị địa tầng II của Mái đá Điều, bắt đầu từ độ sâu 3,4m
đến 3m đã tìm thấy một số mảnh nhũ đá vôi, di cốt động vật và vị nhuyễn
thể bị vụn nát, nó được cho là bằng chứng chỉ thị một giai đoạn ấm và ấm
hơn (Đ ặng Hữu Lưu 1991 ). Phân tích các mẫu đất thu được từ cuộc khai
quật năm 1986 đã thu được một số mảnh hạt quả hóa than ở độ sâu trên
dưới 3m, được giám định là loài giống hạt gắm (W alnut) hay dẻ
(Chestnut) thuộc Gnettum sp. Phân tích bào tử phấn hoa ở mái đá Ngứờm
giai đoạn này gồm những loài thuộc họ sồi dẻ (Fagaceae); hổ đào (Carya),
óc chó (Juglandaceae) và cáng lị (Carpinus). Gắm hay dẻ cùng các đại
diện khác như sồi (Q u ercu s), dương liễu (Salix), cáng lò (Carpinus),
Lithocarpus là thực vật đặc trưng của rừng ơn hịa mát mẻ; chúng hiện

đang phổ biến ở những vùng có vĩ độ cao ờ Bắc Việt Nam. Theo Aigner
nhiệt độ của đới rừng bao phủ khu vực này thấp hơn khoảng 5°c so với
rừng mưa hiện tại (Aigner 1 9 7 9 ).T h e o biểu đổ phân tích từ cảm ở Hang
Chổ, khoảng 20-13 nghìn năm trước khí hậu ơn hịa trờ lại, lượng mưa và
độ ẩm tăng lên. Tuy nhiên vẫn có đợt mát lạnh ngắn xen kẽ vào khoảng 19
nghìn năm và vào khoảng 14 nghìn năm cách ngày nay. Popov, người tham
gia khai quật Mái đá Điểu trong các năm 1988-1991 đã thông báo rằng
trong Mái đá này, từ lớp 7 có niên đại khoảng 24 nghìn năm lên đến lớp

IO

I Di sản Lịch sừ và những hướng tiếp cận mới


6a có niên đại khoảng 13 nghìn năm cách ngày nay, các loài ốc suổi
Antimelania costula và ốc núi Cyclophorus xuất hiện rất ít. Số lượng của
chúng chỉ tăng lên rõ rệt từ lớp 5 với niên đại khoảng 11.700 năm vế sau
(P o p o v 1 9 9 1 ). Như vậy có thể nhận định rằng; khoảng trên 30 đến
khoảng 20 nghìn năm trước nển khí hậu ôn hòa mát mẻ và xen kẽ các thời
kỳ khô lạnh. Khoảng 20-12 nghìn năm trước khí hậu ấm trở lại nhưng độ
ẩm vẫn còn thấp, chi từ khoảng 12 nghìn năm trờ về sau, khí hậu mới thực
sự trở nên nóng ẩm (H à Văn T ấ n 1 9 9 2 ).
Phân tích độ từ cảm hang Con M oong cũng cho thấy vào khoảng 13-14
nghìn năm trước nền khí hậu tương đối ơn hịa mát mé. Khoảng trên dưới
12 nghìn năm trước có một đợt khí hậu chuyển sang nóng ẩm. Khoảng trên
dưới 11 nghìn năm đến khoảng 10 nghìn năm trước khí hậu trở lại trạng
thái hơi khô lạnh tương ứng với thời kỳ Younger Dryas (Y D ) ở châu Âu
(LƯU Phương Lan và Elhvood 2 0 0 9 ).
Phân tích bào tử phấn hoa hang Con Moong gần đây cho thấy ở mức dưới
có các niên đại tuyệt đối khoảng 13-15 nghìn năm trước, phổ biến các loài

cây thân gỗ nhứ: c.astan ea sp., C astanopsis sp., Ilex sp. Rhus sp., B etula sp.;
M rỵca sp., Ịugỉans s p M elia sp.; E n gelhardtia sp., Platỵcarỵa sp., và Uỉmus
sp. Các loài Castanea, Castanopssis, Betula, Juglans là những lồi cây tẩng
cao, thích nghi rộng, ưa ầm và mát (Nguyễn Mai Hương và Phạm Văn Hải
2 0 0 9 ). Đây có thể là thảm thực vật đặc trưng cho rừng á nhiệt đới hỗn giao
giữa cây lá rộng rụng lá và cây thường xanh.
Ở Mái đá Điểu, bắt đẩu từ phân vị địa tẩng III, khoảng sau 12 nghìn năm,
xuất hiện nhiều tảng đá vơi kích thước lớn 40-60cm và nhũ vơi 10-20cm.
Các nhà nghiên cứu cho rằng nó liên quan đến một thời kỳ mưa lớn, nước
mưa chứa axít đã xâm nhập vào những khe nứt của mái đá cùng những ảnh
hưởng vận động của vỏ trái đất làm hàng loạt những tảng đá vôi rơi đổ
xuống nền di chỉ (Đặng Hữu Lưu 1 9 8 6 ). Lượng mưa lớn làm tăng diện tích
bể mặt nước, tạo mơi trường sinh sản thuận lợi của các loài động vật thủy
sinh, đặc biệt là ốc suối và cua đá. Trám (canarium) - một loài cây ưa nóng
ẩm - cũng xuất hiện nhiều nhất trong tầng vị này. Ở Đông Nam ÁỊ giữa 11
và 10 nghìn năm trước, khí hậu chuyển dần sang ẩm ướt (Flenley 19 79).
Lượng mưa hàng năm tăng kèm theo sự mở rộng của rừng mưa (Belhvood,
199 3; Heaney 19 91). T ư liệu vể cổ thực vật ờ Trung Quốc xác định nhiệt
độ gia tăng khoảng 2-3°C trong suốt giai đoạn 10-9 nghìn năm trước.
Những di tích thực vật ở Hang Spirit, Đơng Bắc Thái Lan cho thấy điểu
kiện khí hậu thời kỳ này chỉ khác nhau rất ít so với hiện nay (Gorman 1971;
Y en 1977 ).

Di sản Lịch sừ và những hướng tiếp cận mới ị I I


2. C ác

hệ th ỗ n g văn hóa


Hệ th ốn g Sơn Vi

Về cơ bản, nến khí hậu từ Trung kỳ Pleistocene muộn đến trước hậu kỳ
Pleistocene muộn ở Bắc Việt Nam và các vùng lân cận tương đối ổn định.
C ơ tầng văn hóa dựa trên thích ứng môi trường hay cấu trúc các hệ thống
sinh thái nhân văn ở Việt Nam tương ứng với hệ thống cư trú, kiếm sống
và hành vi công cụ được gọi là văn hóa Sơn Vi; các dạng gẩn Sơn Vi và các
mức sớm hơn như Làng Vạc (N ghệ A n), Đổi Thông (H à Giang) mà
chúng tôi gọi chung là hệ thổng Sơn Vi hay cơ tẩng Sơn Vi. Cho đến nay
có khoảng 140 địa điểm thuộc hệ thống này đã được phát hiện. Các địa
điểm này phân bố chủ yếu ở vùng thượng-trung du các sông Hổng, sông
Lô, sông Đà, sông Lục Nam, sông Mã; sông Lam. M ột số phân bó trên
thềm sơng thuộc miền Trung và Tây Ngun. Nghiên cứu các hình thái CƯ
trú của các nhóm CƯ dân này cho thấy hầu hết họ sống ở ngồi trời, trên
các thểm sơng các gị đổi ven sơng. Phẩn lớn là các địa điểm SƯU tập di vật
đá trên bể mặt; chỉ có một vài địa điểm có tầng văn hóa nhưng nhìn chung
cũng khơng dày, khoảng 0 ,6 - lm . Điểm đáng chú ý ờ đây là hẩu hết các
địa điểm đéu nằm ở ngã ba sơng suối, rất hiếm các điểm cách xa sơng. Có
lẽ vào khoảng đầu và giữa Hậu kỳ Pleistocene, khí hậu nóng ẩm, phẩn lớn
đất đai có rừng bao phủ, chỉ có vùng ven sơng là tương đối quang đãng.
Khu vực ngã ba sơng suối, thềm, đồi gị ven sơng có lẽ là giải pháp tốt nhất
chọn làm nơi cư trú lúc bấy giờ vì khơng gian thơng thống hơn, gần
nguồn nước, nguổn đá cuội, nguồn thức ăn. Khu vực ngã ba sơng suối
thường là nơi tập trung của các lồi cá vì có khoảng nước lặng và giàu thức
ăn hơn. V en sơng cũng là nơi các lồi thú thường đến uống nước và đằm
mình nên có th ể dẻ săn bắt hơn. T h eo quy luật sinh học thi ở đâu có nhiều
lồi động vật ăn cỏ như hươu, nai, trâu, bị, thì cũng có nhiều lồi động vật
ăn thịt tìm đến đó để săn mồi. M ối hiểm họa đến từ thú dữ là tiềm tàng
nên việc chọn nơi cư trú ở ngã ba sơng suối có hai phía được che chở bởi
nước là giải pháp hữu hiệu. Các khu vực cư trú của cư dân Sơn Vi và các

mức sớm hơn thường không lâu dài vi những di vật đá chủ yếu nằm trên
bê' mặt hoặc có chăng chỉ trong các lớp địa tầng tương đối mỏng. Có thể
cho rằng hình thái cư trú của các nhóm CƯ dân này là di động khai thác
nguồn thức ăn tự nhiên. Sự di chuyển địa vực cư trú theo tuyến tính, dọc
theo các triển sơng. Tuy nhiên q trình này khơng phân định đéu đặn vê'
thời gian mà có quãng dài ngắn khác nhau phụ thuộc vào điếu kiện sống
ờ mỗi địa vực. Chính vì vậy trong các chuổi di tích ven sơng chúng ta thấy
có nơi cư trú khá lâu dài, diện phân bố rộng và tập trung hơn (bases), có

12.

I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới


×