Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TIỂU LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ( Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thời kỳ 19211924. Phân tích ý nghĩa của đường lối thực hiện chính sách Kinh tế mới ( NEP ))

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.97 KB, 13 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI :Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xơ thời kỳ 1921-1924. Phân tích ý nghĩa của đường lối
thực hiện chính sách Kinh tế mới ( NEP )


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thời kỳ 1921-1924.
1.1Nguyên nhân của sự chuyển biến mạnh mẽ từ chính sách cộng sản thời chiến
sang chính sách kinh tế mới
1.2Q trình thực hiện chính sách kinh tế mới
1.2.2 Giai đoạn nhỏ thứ nhất từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1921.
1.2.2 Giai đoạn nhỏ thứ hai từ tháng 10 năm 1921 đến lúc Lênin mất ( 1924 ) .
2. Phân tích ý nghĩa của đường lối thực hiện chính sách Kinh tế mới ( NEP )
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo

2


MỞ ĐẦU
Tháng 3-1921, V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP)
thay cho Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm
“Bàn về thuế lương thực”. V.I. Lênin đã xuất phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế
- xã hội của nước Nga lúc bấy giờ: Một là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng - kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp
của nơng dân; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư


bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đó tồn tại xen kẽ
và tác động qua lại lẫn nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong
đó, kinh tế tiểu nơng sản xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu thế, đây là đặc điểm quan
trọng nhất. Hai là, nền đại cơng nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội cịn vơ cùng non yếu; các quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát
triển. Ba là, sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội trầm trọng sau nội
chiến mới kết thúc. Bốn là, nước Nga là nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới, phải tự khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện vơ cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư bản quốc tế bao vây chống phá.
Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với sự thừa
nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa
tiền tệ, kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa
công nghiệp và nơng nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính
sách thuế lương thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và coi đó là một động
lực quan trọng để phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản
nhà nước.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thời kỳ 1921-1924. Phân tích ý
nghĩa của đường lối thực hiện chính sách Kinh tế mới ( NEP )

3


NỘI DUNG
1.Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thời kỳ 1921-1924.
Từ Đại hội X Đảng Cộng sản ( b ) Nga tháng 3 năm 1921 , nước Nga Xơ viết đã
chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến , chính sách kinh tế mới .
1.1Nguyên nhân của sự chuyển biến mạnh mẽ từ chính sách cộng sản thời
chiến sang chính sách kinh tế mới
Thứ nhất , nông dân không thể tiếp tục chịu đựng nổi gánh nặng của chế độ
trung thu lương thực thừa kiểu cộng sản thời chiến . Trong thời gian chiến

tranh , nông dân chịu gánh nặng thu mua lương thực thừa là để bảo vệ chính
quyền cơng nơng , để chiến thắng âm mưu phục thù của bọn địa chủ và tư bản ,
để giữ lấy đất đai mà mình đã giành được . Cuối năm 1920 , chiến tranh kết thúc
, nông dân không thể tiếp tục chịu đựng chế độ tập trung lương thực thừa , họ đã
liên tiếp gửi thư , gặp gỡ các cấp chính quyền Xơ viết , gửi trực tiếp cho cả
Lênin nữa , bày tỏ sự bất mãn , phản đối chế độ trung thu lương thực thừa .
Thứ hai , kế hoạch mang tính chủ quan duy ý chí của Lênin dùng biện pháp
canh tác chung ( tức công xã nông nghiệp , hợp tác xã canh tác chung và các tổ
hợp lao động , gọi chung là nông trạng tập thể ) để quá độ lên một “ nền nông
nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa ” đã không thực hiện được .
Từ tháng 1 năm 1921 việc cung cấp lương thực cho công nhân và nhân dân
thành phố đã phải nhiều lần giám định suất . Bên cạnh đó , do lãng phí trong
xây dựng do trình độ quản lý và Sự gián đoạn trong vận tải đường sắt vì thiếu
nhiên liệu nên đã xảy ra đình cơng ở nhiều nhà máy . Số đơng cơng nhân do đói
kém và nhà máy ngừng sản xuất đã ùn ùn kéo về nông thôn gây nên nạn đâu cơ
lương thực . Chính quyền Xơ viết đứng trước nguy cơ về kinh tế và chính trị
nghiêm trọng . Tháng 3 năm 1921 , xảy ra cuộc bạo động của thủy thủ và nông
dân Crôn - xtát .
Thực tiễn chứng minh rằng , trong điều kiện lúc đó , nước Nga khơng thể ưu
tiên phát triển đại công nghiệp , đặc biệt là công nghiệp nặng . Nói cách khác ,
khơng thể thực hiện q đi trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có trình
độ phát triển kinh tế - xã hội thấp kém . Điều này đã làm cho Lênin . không
những phải nhận thức lại chính sách đối với tiểu nơng và tìm một hình thức liên
minh với tiểu nơng , mà còn phải thay đổi căn bản những suy nghĩ về cơ sở của
chính sách kinh tế và về cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thích ứng với
một đất nước kinh tế tiểu công chiếm ưu thế .
Đến lúc này , những điều kiện để thay đổi chính sách cộng sản thời chiến , thực
hiện chính sách kinh tế mới đã chín muồi và trở thành tất yếu .
Lênin chỉ rõ , trong điều kiện còn tồn tại một số lớn tiểu nơng , khi nhà nước
chưa có đầy đủ hàng công nghiệp để đổi lấy nông sản phẩm của nơng dân , nếu

tiếp tục thực hiện chính sách cộng sản thời chiến sẽ là ngu xuẩn và là tự sát .
4
1.2Q trình thực hiện chính
sách kinh tế mới
Đại hội X của Đảng Cộng sản ( b ) Nga tháng 3 năm 1921 đã khẳng định chính
sách kinh tế mới , mà đặc trưng chủ yếu là thay chế độ trung thu lương thực


thừa bằng thuế lương thực , đánh dấu bước chuyển của Chính quyền Xơ viết từ
chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới .
Chính sách kinh tế mới diễn ra hai giai đoạn nhỏ .
1.2.2 Giai đoạn nhỏ thứ nhất từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1921.
Bước vào giai đoạn nhỏ thứ nhất , trong báo cáo tại Đại hội X Đảng Cộng sản (
b ) Nga và trong tác phẩm “ Bàn về thuế lương thực ” , Lênin đã luận chúng một
cách đầy đủ về những căn cứ và tính tất yếu phải thực hiện chính sách kinh tế
mới .
Lênin chỉ ra , cơ sở duy nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội là nền đại công
nghiệp , đối với một nước tiểu nông như nước Nga càng phải làm như vậy .
Nhưng trước kia , đặc biệt là vào cuối năm 1920 đầu năm 1921 , đường lối khôi
phục kinh tế bắt đầu từ đại công nghiệp là không thể thực hiện được , đã thất bại
, vì thiếu hụt nghiêm trọng về lương thực , nguyên liệu và nhiên liệu . Do đó cần
đặt xuống hàng thứ yếu vấn đề khôi phục và phát triển đại công nghiệp mà phải
bắt đầu từ nông nghiệp , tiểu công nghiệp để khôi phục và phát triển đại công
nghiệp .
Trong giai đoạn nhỏ thứ nhất này , Lênin đã hoạch định con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội như sau : Chung sống lâu dài với tiểu nông và sản xuất nhỏ , đi
từ nông nghiệp , trên cơ sở ủng hộ kinh tế tiểu nông , làm sống động kinh tế tiểu
nông để xây dựng đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa , đặt nền móng , cơ sở vật
chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Nga .
Tuy nhiên , Lênin vẫn cho rằng thế lực tự phát của kinh tế tiểu nông là rất đáng

sợ , thậm chí ơng cịn đặt ngang hàng với chủ nghĩa tư bản . Do vậy , cùng với
việc cho phép tiểu nông được bán lương thực thừa , nhà nước cần hạn chế mậu
dịch tự do trong phạm vi địa phương , thơng qua các hình thức chủ nghĩa tư bản
nhà nước như hợp tác xã để xây dựng một hệ thông trao đổi trực tiếp giữa nông
nghiệp và công nghiệp do | nhà nước chi phối . Đó chính là ý tưởng liên kết với
chủ nghĩa tư bản nhà nước để chống lại những thế lực tự phát của sản xuất
nhỏ ...
Như vậy , cho đến lúc này , Lênin vẫn chưa thực sự thoát khỏi tư tưởng “ quá
độ trực tiếp ” , nhưng việc thực hiện chính sách thuế lương thực , và việc thay
đổi tư duy về xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng đã là một bước tiến quyết định
trong việc thì tịi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội . Sau mấy tháng trong
giai đoạn nhỏ thứ nhất , thực hiện chính sách kinh tế mới , cho phép trao đổi
hàng hóa hạn chế trong phạm vi tư bản nhà nước , do nhà nước chi phối đã nảy
sinh tình huống : Vì tiểu nơng chiếm số đơng trong dân cư và kinh tế tiểu nông
chiếm tỷ trọng tuyệt đối , nên việc cho phép nông dân tự do mua bán làm cho
việc trao đổi hàng hóa phát triển , dẫn đến sự phá vỡ hạn chế mậu dịch tự do
trong phạm vi địa phương . Trước tình hình thực tế như vậy , Lênin cho rằng
cần phải tiếp tục lùi lại tới 5mức giảm sự chi phối của nhà nước chỉ ở phạm vi
điều tiết lưu thơng hàng hóa và tiền tệ chứ không thể hạn chế mậu dịch tự do .
Lênin viết : “ Chúng ta phải thừa nhận rằng rút lui như vậy là chưa đủ , cần kéo


dài cuộc rút lui nữa , rút lui xa hơn nữa , để chuyển chủ nghĩa tư bản nhà nước
sang chỗ thiết lập chế độ nhà nước điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền tệ ”
1.2.2 Giai đoạn nhỏ thứ hai từ tháng 10 năm 1921 đến lúc Lênin mất
( 1924 ) .
Giai đoạn nhỏ thứ hai Bước vào giai đoạn nhỏ thứ hai , trong một loạt tác
phẩm ,
Báo cáo và diễn văn ,Lênin đã luận chứng đầy đủ về vấn đề rút lui trong thương
nghiệp , rút ra một loạt kết luận mới , phát triển mạnh mẽ về mặt tư tưởng thể

hiện nổi bật trên các mặt sau :
Thứ nhất , nhấn mạnh cần phải kết hợp việc xây dựng đại công nghiệp xã hội
chủ nghĩa với kinh tế tiểu nông .
Trong giai đoạn nhỏ thứ nhất , Lênin đã chứng minh tính tất yếu của việc thực
hiện chính sách kinh tế mới , do nền công nghiệp bị phá hoại nặng nề , nhà nước
khơng có đầy đủ sản phẩm cơng nghiệp để đổi lấy nông sản phẩm của nông
dân , nhưng lại không thể khôi phục đại công nghiệp ngay lập tức . Vì vậy cần
phải , trước hết , làm sống động kinh tế tiểu nông và tiểu công nghiệp , cho
nông dân tự do bán lương thực thừa .
Lập luận này , rõ ràng , xuất phát từ những khó khăn về kinh tế , có nghĩa là
chính sách kinh tế mới chỉ là biện pháp tình huống bắt buộc , đối phó với tình
hình kinh tế khó khăn trước mắt .
Trong giai đoạn nhỏ thứ hai , trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn , cùng
với nhận thức mới về sức mạnh của kinh tế tiểu nông , Lênin khẳng định chính
sách kinh tế mới là biện pháp tất yếu phù hợp với quy luật khách quan . Lênin
nhấn mạnh :
Thứ nhất , kết hợp việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế tiểu
nông là một tất yếu khách quan . Lênin viết : “ Nhiệm vụ căn bản , quyết định ,
và nó chi phối tất cả những nhiệm vụ khác , là sự kiến lập liên minh giữa nền
kinh tế mới mà chúng ta đã bắt đầu xây dựng ... với nền kinh tế nông dân của
hàng triệu , hàng triệu nông dân ”
Tại Đại hội XI Đảng Cộng sản ( b ) Nga Lênin nhấn mạnh , cần phải thực hiện
sự kết hợp nói trên , phải “ chứng tỏ bằng hành động cho nông dân thấy rằng
chúng ta bắt đầu bằng những việc mà hiện nay họ hiểu được , mặc dù họ đang
chịu cùng khổ đủ mọi đường , chứ không phải bằng những việc xa xôi , ảo
tưởng đối với con mắt của nông dân ; mục đích của chúng ta chính là phải
chứng tỏ rằng chúng ta biết giúp đỡ họ ... Hoặc là họ sẽ đuổi cổ chúng ta đi .
Hoàn toàn chắc chắn là như vậy ?
Thứ hai , tìm được hình thức thơng qua thương nghiệp để kết hợp công nghiệp
lớn xã hội chủ nghĩa với kinh tế tiểu nông . Lênin chỉ ra , trong hồn cảnh nền

cơng nghiệp của nước Nga vô cùng yếu ớt và bị chiến tranh tàn phá nghiêm
6
trọng thì ngồi thương nghiệp
ra khơng cịn một mối liên hệ kinh tế nào khác
giữa công nghiệp và nông nghiệp , khơng cịn con đường nào khác là phải phát
triển thương nghiệp dưới sự lãnh đạo và giám sát của nhà nước cơng nhân , từng
bước nâng cao trình độ cơng - nơng nghiệp . Lênin nhấn mạnh đây chính là thực


chất chính sách kinh tế mới và rút ra kết luận : “ Bên cạnh hàng chục triệu
người tiểu nông khơng có một nền đại cơng nghiệp mạnh , cơ khí hóa ... thì
trong trường hợp đó , thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có
giữa hàng chục triệu tiểu nơng với nền đại cơng nghiệp ” . “ Nhà nước vô sản
phải trở thành một “ chủ nhân ” thận trọng chu đáo và khôn khéo , trở thành một
nhà buôn sỉ đúng mức – nếu không , nhà nước vô sản không thể khôi phục được
nước tiểu nông này về mặt kinh tế . Ngày nay , trong những điều kiện hiện tại ,
bên cạnh phương Tây tư bản chủ nghĩa ( lúc này vẫn còn là tư bản chủ nghĩa ) ,
chúng ta như trên , nghĩa xã hội . khác được ” . Kết luận để thực hiện sự quả độ
từ kinh tế tiểu không thể tiến lên chủ nghĩa cộng sản bằng con đường nào hồng
lên chủ nghĩa xã hội không thể vượt qua giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa
( giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ) hoặc nói khác đi phải thực hiện “ quả
độ gián tiếp ” là một “ phát hiện ” , là sự đột phá rất sâu sắc trong nhận thức về
chủ
Thứ ba , thay đổi về căn bản cách nhìn nhận đối với tiểu nồng . Từ mùa xuân
năm 1918 và trong thời gian thực hiện chính sách cộng sản thời chiến , Lênin
coi lực lượng tự phát của tiểu nông thật là đáng sợ , và cho rằng sau khi giai cấp
vô sản chiến thắng giai cấp tư sản , thì lực lượng tự phát của sản xuất nhỏ sẽ trở
thành kẻ thù chủ yếu nguy hiểm nhất , sản xuất nhỏ ở mõi đình , mỗi hộ “ từng
ngày , từng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản ” ; cần phải đấu tranh với lực lượng sản
xuất đó trong suốt thời kỳ lịch sử dài , cho đến khi thực hiện hoàn toàn chủ

nghĩa xã hội .
Giai đoạn đầu ( giai đoạn nhỏ thứ nhất ) thực hiện chính sách kinh tế mới ,
Lênin vẫn cho rằng kẻ thù chủ yếu của giai cấp vô sản là nền sản xuất nhỏ tự
phát , và đã chỉ rõ : sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là liên minh với
chủ nghĩa tư bản nhà nước để chống nền sản xuất nhỏ . Điều này hoàn toàn
thống nhất với quan niệm về xây dựng một mơ hình mục tiêu xã hội chủ nghĩa ,
một nền kinh tế kiểu “ đại công xưởng ” , nghĩa là vẫn theo một kế hoạch chặt
chẽ , thống nhất trong toàn quốc , “ quá độ trực tiếp ” .
Ở giai đoạn nhỏ thứ hai của chính sách kinh tế mới , đặc biệt là từ cuối năm
1922 , Lênin đã thay đổi hoàn toàn quan niệm về nền sản xuất nhỏ . Ở giai đoạn
này , Lênin nhiều lần nói đến tính hợp lý của kinh tế tiểu nơng . Trước đây là
liên minh với chủ nghĩa tư bản nhà nước để chống sản xuất nhỏ , còn bây giờ đã
thay đổi , liên minh với tiểu nông và sản xuất nhỏ để chống giai cấp tư sản : “
Chúng ta liệu có tổ chức được tầng lớp tiểu nơng lại trên cơ sở phát triển lực
lượng sản xuất tiểu nơng hay khơng , có dùng chính quyền vơ sản mà giúp đỡ
cho sự phát triển đó được khơng , hay là bọn tư bản sẽ chinh phục được tầng lớp
tiểu nông ? Cuộc đấu tranh sẽ kết thúc như thế nào là do điều đó quyết định ” .
Thứ tư , tổng kết có tính phê phán đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội .
7
Trước khi có chính sách kinh
tế mới , Lênin đã nhấn mạnh đến những tác dụng
và tính tất yếu phải áp dụng chính sách cộng sản thời chiến , nhưng khi nói về
sự cần thiết phải chuyển sang chính sách kinh tế mới , Lênin lại chỉ rõ , chính
sách cộng sản thời chiến chỉ là chính sách thích ứng với thời chiến , một chính


sách tạm thời và khơng bình thường . Bây giờ chiến tranh đã kết thúc , cần phải
thực hiện chính sách kinh tế bình thường . Ở giai đoạn thứ hai của chính sách
kinh tế mới , khi phân tích về chính sách cộng sản thời chiến , Lênin đã chỉ ra
ảnh hưởng của yếu tố chủ quan , cho rằng với thắng lợi của cuộc Cách mạng

Tháng 10 , nước Nga có thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội ,
trong một đất nước tiểu nơng có thể dùng pháp lệnh của nhà nước vơ sản để
điều tiết sản xuất và phân phối ...
2. Phân tích ý nghĩa của đường lối thực hiện chính sách Kinh tế mới
( NEP )
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin cho phép sử dụng ở từng khâu sản xuất và
lưu thông những phương thức kinh tế đa dạng và đang từ từ biến đổi với quy mơ
lớn; có chú ý tới trình độ trang bị kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả năng của
tất cả các thành phần kinh tế khác nhau và từng bước liên kết chúng, trong khi
vẫn duy trì và phát huy vai trị chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng hoạt động
của nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý nghĩa chiến
lược này có tác dụng mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất và thiết
lập một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó chính là phương sách đúng đắn như V.I.Lênin
đã chỉ ra: “Để chúng ta có thể làm trịn một cách thắng lợi nhiệm vụ của chúng
ta, tức là chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu những đường
lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những
quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”. Chính chủ nghĩa tư bản
cũng phải bắt đầu bằng cách ấy. Nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản như là
phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã kiên trì giải thích
rằng, nước Nga chưa đủ sức để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất sang chủ nghĩa
xã hội, và trong điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định là
không tránh khỏi, giống như sản phẩm tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi
hàng hoá; nhưng nhiệm vụ trực tiếp là: “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư
bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước)
làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương
tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất
lên”.
Đương nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đúng với nghĩa của nó khơng phải là
giải pháp trực tiếp đưa nền sản xuất nông nghiệp sang nền nếp xã hội chủ nghĩa.
Song, theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước Nga, chủ

nghĩa tư bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại và chịu sự quản
lý, điều tiết của chính quyền Xơviết. Vì vậy, cho dù giữa hình thái kinh tế tư bản
chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội cịn có sự cạnh tranh, song đó chính là động lực
phát triển của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản nhà
nước cịn đóng vai trị hỗ trợ cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xơviết có
8
được lợi ích trước mắt dưới
dạng phát triển lực lượng sản xuất và tăng khối
lượng sản phẩm cho những nhu cầu thiết yếu trong một thời gian ngắn. Đây là
lý do cắt nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một phương
tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Để phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết trong những năm 20
của thế kỷ XX, cần thiết phải sử dụng không những chủ nghĩa tư bản trong
nước, mà cả ở nước ngoài nữa, khi cần phải học tập kinh nghiệm của phương
Tây, và nói chung, cả kinh nghiệm của những nước phát triển. V.I.Lênin chỉ rõ:
“Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngồi: Chính quyền xơ viết +
trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo
dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = tổng số = chủ nghĩa xã hội”. Liên quan tới vấn
đề này, V.I.Lênin còn thẳng thắn phê phán những đảng viên chỉ muốn mơ ước
về “sự trong sạch” của chủ nghĩa cộng sản, sính thảo ra những dự án, quy chế
và quy tắc khác nhau nhưng lại không thúc đẩy được công việc thực tế tiến lên.
Như vậy, có thể nói, khi vạch ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin
đã coi thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước là điều kiện cần thiết để
chuyển sang chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nơng như nước Nga. Ơng đã chỉ
rõ vai trị đặc biệt và vị trí cần thiết của thành phần kinh tế này đối với nền kinh
tế nước Nga: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với
nền kinh tế hiện nay của nước ta… Chủ nghĩa tư bản nhà nước khơng có gì là
đáng sợ đối với Chính quyền Xơviết, vì nước Xơviết là một nước mà trong đó

chính quyền của cơng nhân và nông dân nghèo đã được bảo đảm”. Không chỉ
thế, ơng cịn nhấn mạnh rằng, “đối với thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đã cho
phép tồn tại, thì cần phải để cho nó tồn tại. Nếu chủ nghĩa tư bản đó là qi đản
và khơng tốt, thì chúng ta có thể uốn nắn nó, vì chính quyền nằm trong tay
chúng ta, và chúng ta chẳng có gì mà sợ cả. Tất cả mọi người đều thừa nhận
điều đó, và sẽ là lố bịch nếu lẫn lộn điều đó với việc gieo rắc tâm trạng hoang
mang. Nếu chúng ta sợ thừa nhận điều đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ tiêu vong.
Nhưng chúng ta sẽ học tập điều đó, chúng ta sẽ có quyết tâm học tập điều đó;
đây là điều đã được chứng minh trong ba, bốn, và năm năm nay là những năm
mà chúng ta đã học tập được những điều còn phức tạp hơn trong một thời gian
ngắn hơn”.
V.I.Lênin cho rằng, chúng ta có thể học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước của
người Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó và khơng ngại dùng biện pháp độc tài
để đẩy nhanh nước Nga cổ dã man bắt chước con đường phát triển của Tây Âu
đó và khơng ngần ngại dùng những thủ đoạn dã man để đấu tranh với tình trạng
dã man.
Chính sách kinh tế mới cịn có ý nghĩa to lớn đối với nông thôn, nông dân. Mặc
dù thực chất của vấn đề là ở sự điều chỉnh mối quan hệ trao đổi giữa thành phố
(công nghiệp) và nông thôn (nông nghiệp), song đó chính là sự sống cịn của
nơng thơn và người nông dân.Không phải vô cớ mà V.I.Lênin đánh giá rất cao
vai trị của chính sách thuế lương thực và cơ chế thị trường. Trên thực tế, thực
hiện chính sách thuế lương thực không chỉ là sự thay thế việc trưng thu lương
thực thừa, mà cịn có nghĩa 9là tự do bn bán lúa mì thừa và các sản phẩm khác
sau khi đã nộp thuế. Đây là một chính sách thơng minh và hợp lý. Bởi lẽ, thứ
nhất, nó củng cố khối liên minh công nông với tư cách nền tảng giai cấp của chủ
nghĩa xã hội tương lai; thứ hai, tạo ra sự phát triển thương mại tự do, chủ động


và góp phần khơi phục tồn bộ nền kinh tế thông qua việc hồi sinh các quan hệ
tư bản tư nhân. Theo V.I.Lênin, tự do thương mại chính là địn bẩy phát triển lực

lượng sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp và tiểu công nghiệp, cũng như mở
rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu trong kinh tế. Ông viết: “Cơ
sở kinh tế” của sự tiêu vong của chủ nghĩa quan liêu, của sự tiêu vong các tầng
lớp trên và tầng lớp dưới, của sự tiêu vong sự bất bình đẳng...” là ở “việc trao
đổi hàng hố với nông dân”. Rằng, “kinh tế nông dân, với tư cách là một nền
kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu khơng có một sự tự do trao
đổi nào đó, và khơng có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao
đổi đó”. Do vậy, theo ơng, với nước Nga khi đó, thương nghiệp là “phương sách
kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là “mối ghép” duy nhất, là cái có thể
liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản với nơng dân để từ đó, mới có thể
có sự phát triển kinh tế.
Nhờ có chính sách kinh tế mới và q trình sản xuất nên chỉ trong vịng một
năm rưỡi nhân dân Liên Xô đã đạt được những kết quả rực rỡ, có ý nghĩa quyết
định trong kinh tế; tình cảnh của nông dân và đa số những người tiểu sản xuất
đã được cải thiện; trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ đã có sự tiến triển, khơng cịn
cảnh cơng nhân bất bình; trong lĩnh vực cơng nghiệp nặng đã bắt đầu tích luỹ
được vốn cần thiết để vực nền cơng nghiệp nặng đi lên. Thế nhưng, không phải
tất cả những người bơnsêvích đều ủng hộ chính sách kinh tế mới, trong dư luận
xã hội vẫn cịn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, điều quan
trọng là phải hiểu đúng thực chất của chính sách kinh tế mới. Bởi lẽ, một số
người cho rằng, chính sách kinh tế mới chỉ là biện pháp nhất thời; số người khác
lại coi đó chỉ là thời kỳ khơi phục kinh tế đất nước sau nội chiến; số thứ ba thì
nhìn nhận đó là tổn thất của cách mạng, là sự chệnh hướng sang tư bản chủ
nghĩa. Chỉ có một số người hiểu đúng rằng, chính sách kinh tế mới là một trong
những hình thức, phương thức hợp lý nhất để chuyển từ “chế độ cộng sản thời
chiến” sang chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, ở đây là cả một quá trình, trong đó cách đặt vấn đề về xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin đã có sự thay đổi. Nhưng
bản thân V.I.Lênin vẫn chưa nói đến việc thay đổi căn bản quan niệm về chế độ
xã hội chủ nghĩa. Công thức về “chế độ của những người xã viên văn minh” dĩ

nhiên không thể bao hàm tất cả bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như cơng
thức “Chính quyền xơ viết cộng với điện khí hóa tồn quốc”. Chúng ta khơng
thể tán thành quan điểm cho rằng, dường như chính sách kinh tế mới là mơ hình
“mới” của chủ nghĩa xã hội do V.I.Lênin nghĩ ra lúc cuối đời. Chính sách kinh
tế mới khơng phải là mơ hình mới của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là hướng mới
trong việc xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế,
thông qua việc lợi dụng nền kinh tế nhiều thành phần để tránh chủ nghĩa giáo
10
điều trong việc quản lý kinh
tế của nhà nước. Cơ chế kinh tế của chính sách
kinh tế mới theo quan niệm của V.I.Lênin, về cơ bản, vẫn là cơ chế đặc trưng
không phải cho chủ nghĩa xã hội, mà là cho thời kỳ quá độ xây dựng cơ sở vật
chất của chủ nghĩa xã hội.


Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mới là sự kết hợp nhiều hình thức sở hữu khác
nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan hệ sản
xuất khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ nhằm tăng cường
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp và nơng nghiệp để nó
đủ khả năng phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát triển nhanh lực lượng sản
xuất ở nước Nga Xôviết. Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin qua đời,
chính sách kinh tế mới đã sớm bị dừng lại, không được tiếp tục hồn chỉnh, bổ
sung trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo
chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta.
Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành
phần. Nếu thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có một thành phần kinh tế là
“thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu

vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi
khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự
chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”.
Đây là lúc thực tiễn đặt ra cho chúng ta cần phải nhận thức đúng đặc điểm của
nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như V.I. Lênin đã chỉ ra là có những thành
phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện đó, khơng thể xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ bằng thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa; nghĩa là khi đề ra đường lối kinh tế phải tính tới tất cả
các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, không được bỏ sót một
thành phần kinh tế nào. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi tiềm
năng của sản xuất, khai thác được sức mạnh của toàn dân trong tất cả các thành
phần kinh tế, mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

11


KẾT LUẬN
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thời kỳ 1921-1924 Ở
giai đoạn NEP, tư duy về xã hội xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đã “lùi
một bước để tiến hai bước”. Bước lùi trên thực tiễn thực chất lại là bước tiến
của tư duy: Từ “quá độ trực tiếp” (kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước Xơ-Viết
nắm giữ tồn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, phân phối trực tiếp bằng
hiện vật…) sang “quá độ gián tiếp” với những bước đi phù hợp để xây dựng xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chấp nhận quan hệ sản xuất có tính chất đa dạng trên cơ
sở của sản xuất hàng hóa - thị trường để phát triển lực lượng sản xuất là bước
tiến đúng đắn của tư duy từ NEP.Chính sách kinh tế mới chuyển nền kinh tế LX
từ bao cấp sang cơ chế thị trường.Thúc đẩy kinh tế quốc dân chuyển biến rõ rệt,
giúp nhân dân Xô viết vượt qua khó khăn, hồn thành khơi phục kinh tế.Chính
sách kinh tế mới để lại nhiều kinh nghiệm cho các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước

khác
trên
thế
giới.

12


Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình mơn chủ nghĩa xã hội khoa học , trường đại học kinh doanh và
công nghệ Hà Nội
2.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1978, t. 45
3.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội

13



×