Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Tiểu luận Văn hóa Việt Nam Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 85 trang )

Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay nền kinh tế ngày càng phát triển và các quốc
gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng
trở thành trung tâm của sự chú ý. Văn hóa là một lĩnh vực đang ngày càng
được quan tâm nghiên cứu nhiều trên thế giới và trong đó văn hóa của Việt
Nam cũng khơng phải là ngoại lệ. Nền văn hóa xuất hiện trong mọi mặt của
cuộc sống với mối quan hệ hai chiều, mọi lĩnh vực đều mang trong mình
tính văn hóa và văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực và tác động đến mọi lĩnh
vực.
Chỉ xét riêng về khái niệm “Văn hóa là gì ?”, tuy rằng có những điểm
chung nhưng mỗi khu vực, mỗi dân tộc, mỗi tổ chức lại có những định
nghĩa khác nhau. Bài tiểu luận này mang tính chất so sánh về văn hóa các
vùng trên đất nước Việt Nam, nhằm góp phần nhỏ bé trên con đường
nghiên cứu về nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa
cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hơi
nhập, tồn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn
của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì
dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí khơng cịn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không
chỉ là trách nhiệm của ngành văn hố mà cịn là trách nhiệm của tồn
đảng, tồn dân và tồn xã hội. Tơi quan tâm và chọn đề tài : “ Văn hóa Tây

80

Nguyên” để làm đề tài cho bài tiểu luận này



80

Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Mục Lục
I. Tây Ngun................................................................................................................................4
1. Vị trí địa hình.............................................................................................................................4
2. Khí hậu.......................................................................................................................................6
4. Dân cư.......................................................................................................................................9
II. Văn hóa- phong tục lễ hội.......................................................................................................11
1. Bản sắc văn hóa Tây Nguyên...................................................................................................11
2. Luật tục của dân tộc Tây Nguyên.............................................................................................12
3. Nền ẩm thực của dân tộc Tây Nguyên.....................................................................................23
Ẩm thực trong ngày lễ Tết ở Tây Nguyên................................................................................23
Phong tục uống rượu cần của người Tây Nguyên....................................................................26
Các món ăn đặc sản của Tây Nguyên.......................................................................................34
4. Phong tục kỳ thú ở Tây Nguyên...............................................................................................37
5. Nhà mồ Tây Nguyên................................................................................................................45
Kỹ thuật đẽo tượng nhà mồ....................................................................................................46
Tính nghệ thuật thể hiện trong tượng mồ...............................................................................47
6. Điêu khắc gỗ dân gian BaNa....................................................................................................50
III. Các hoạt động của dân tộc Tây Nguyên.................................................................................54
1. Hình ảnh trang phục nổi bậc của dân tộc Tây Nguyên.............................................................54
Trang phục nam.......................................................................................................................56
Trang phục nữ.........................................................................................................................57

2. Lễ cưới của các dân tộc Tây Nguyên........................................................................................58
3. Lễ hội cồng chiêng ở Tây Nguyên............................................................................................61
4. Lễ cúng bến nước của người Tây Nguyên................................................................................66
5. Lễ hội bắt chồng ở Tây Nguyên...............................................................................................67
6. Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.................................................................................................69
IV. Các danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Tây Nguyên..............................................................71
1. Gia Lai......................................................................................................................................71
Biển Hồ....................................................................................................................................71
2. Tỉnh Đắk Lắk............................................................................................................................72
80

Hồ lắk khó quên.......................................................................................................................73


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004
3. Ðắk Nơng.................................................................................................................................76
Thung lũng vàng, nơi của bình yên..........................................................................................76
4. Kon Tum.................................................................................................................................77

80

Thác Yaly..................................................................................................................................78


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

I. Tây Ngun(*)
Theo địa lý hành chính hiện nay, Tây

Ngun gồm có năm tỉnh, kể từ bắc
vào nam : Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc,
Đắc Nông, Lâm Đồng.Tây Nguyên là
một tiểu vùng, cùng với vùng Duyên
hải Nam Trung Bộ hợp thành vùng
Nam Trung Bộ, thuộc Trung Bộ Việt
Nam. Thời Việt Nam Cộng hòa, nơi
đây được gọi là Cao nguyên Trung
phần. Hiện nay đôi khi được gọi là Cao
nguyên Trung Bộ. Trước đó, thời Bảo
Đại làm Quốc trưởng, vùng đất này
còn được hưởng quy chế riêng là
vùng Hồng triều Cương thổ.
1. Vị trí địa hình
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía
bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đơng
giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú n, Khánh Hịa, Ninh
Thuận,Bình Thuận, phía nam giáp các
tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tâygiáp với các tỉnh Attapeu (Lào)
và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia).
(*). Tổng quát về Tây Nguyên - Nguồn: />
80

%C3%AAn


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004


Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia,
thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nơng chỉ có chung đường biên giới với
Campuchia. Cịn Lâm Đồng khơng có đường biên giới quốc tế. Tổng diện
tích của 5 tỉnh ở đây rộng 54.639 km2.
Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là
một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500
m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng
800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma
Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên
Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000
m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đơng bởi những
dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba
tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum
và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh
Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng).
Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu
vùng phía Bắc và Nam.
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600
m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp
như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang
được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây
Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam
Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bơ xít. Tây Ngun cũng là khu vực ở Việt

80

Nam cịn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng,



Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

trữ lượng khống sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng
du lịch lớn, Tây nguyên còn được coi là mái nhà của miền trung.
2. Khí hậu
Khí hậu ở Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt, mùa khơ từ tháng 11 đến giữa
tháng 5, và mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Đất bazan là loại đất
không giữ nước, nước mưa trượt đi trên bề mặt, , trong đó tháng 3 và
tháng 4 là hai tháng nóng và khơ nhất, về mùa khơ Tây Ngun gần như
hồn tồn khơng có nước. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các
cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao
nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm
như vùng ơn đới.
3. Q trình hình thành của Tây Nguyên
Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng
đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc
thiểu số, chưa phát triển thành một quốc
gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa,
các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở
thành nạn nhân trước các cuộc tấn công
của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nơ lệ. Tháng 2
năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân
chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Chăm
Pa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Chăm Pa thời đó vào Đại Việt.
Hai phần Chăm Pa cịn lại, được Lê Thánh Tơng chia thành các tiểu quốc
nhỏ thuần phục Đại Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do

80


viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh
Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía Tây
núi Thạch Bi, tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành
nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam Bàn vương.
Sau khi Nguyễn Hồng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa
Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái
một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc
thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn
khơng có thói quen bn bán nô lệ. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn
manh mún và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng
đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong một số tài
liệu vào thế kỷ 16, 17 đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách
(Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bồ
Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa
(Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay.
Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn
thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều
chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn,
đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang
Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789) . Tây Sơn thượng đạo, vùng đất
phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn
thủa ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây Sơn là người
vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc.
Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây


80

Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

lãnh thổ Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ 1834). Người Việt vẫn chú yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc
biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán
sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ). Trong
cuốn Đại Việt địa dư tồn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: Thủy
Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng
đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đơng núi ấy, ... Hỏa
Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân
Lạp, phía Nam thì là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sơng
Đại Giang, phía dưới là sơng Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy.....
Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện
hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước
đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất
phác này.
Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông
Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ
lạc thiểu số. Ơng ta thành lập Vương quốc Sedangcó quốc kỳ, có giấy bạc,
có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất. Nhận
thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna
về châu Âu,chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang”
thay Mayresna. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của
Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán.

Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao
nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một

80

thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây
Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam. Vì vậy, năm
1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao
cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ. Năm
1898, vương quốc Sedang bị giải tán. Một tịa đại lý hành chính được lập
ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc
vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức
hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây.
Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định
chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây
Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp.
Năm 1907, tịa đại lý ở Kontum đổi thành tịa Cơng sứ Kontum, cùng với
việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những thực
dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng các đồn điền đồng thời cũng
ngăn cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó, thị
xã Đà Lạt được thành lập.
4. Dân cư
Nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân
tộc Việt (Kinh) ở Tây Nguyên như Ba

Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ
Nơng... Chính quyền Việt Nam cộng
hòa gọi chung những dân tộc này là
"đồng bào sắc tộc" hoặc "người Thượng";
"Thượng" có nghĩa là ở trên, "người Thượng" là người ở miền cao hay
nguyên miền Trung.Năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm

80

miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

18 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 853.820 người (chiếm
69,7% dân số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35
dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.050.569 người (chiếm
44,2% dân số). Năm 2004 dân số Tây Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46
dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người (chiếm
25,3% dân số) . Riêng tỉnhĐắc Lắc, từ 350.000 người (1995) tăng lên
1.776.331 người (1999), trong 4 năm tăng 485% . Kết quả này, một phần
do gia tăng dân số tự nhiên và phần lớn do gia tăng cơ học: di dân đến Tây
nguyên theo 2 luồng di dân kế hoạch và di dân tự do. Người dân tộc đang
trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân
số và nạn nghèo đói, kém phát triển và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần
đây, mỗi năm vẫn có tới gần một nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá ) đang
là những vấn nạn tại Tây Nguyên và thường xuyên dẫn đến xung đột. Theo
kết quả điều tra dân số 01/04/2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là
5.107.437 người, như thế so với năm 1976 đã tăng 3,17 lần , chủ yếu lả

tăng cơ học. Hiện nay, nếu tính cả những di dân tự do không đăng ký cư trú
với cơ quan chính quyền ước lượng dân số Tây Nguyên thực tế vào khoảng
5,5 đến 6 triệu người.
Trước 1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Cao nguyên Trung Phần
thành các tỉnh: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên
Đức và Lâm Đồng với tổng cộng gần một triệu dân với 50% dân số tập
trung vào hai tỉnh Darlac và Tuyên Đức. Từ 1976 đến đầu thập niên 1990,
Tây Nguyên gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Công Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Sau đó
tỉnh Gia Lai-Cơng Tum được chia thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum (thay
đổi cả cách viết chính thức tên tỉnh). Tỉnh Đắc Lắc chia thành hai tỉnh: Đắk
80

Lắk và Đắk Nông.


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nơng, Lâm Đồng.

II. Văn hóa- phong tục lễ hội
1. Bản sắc văn hóa Tây Nguyên (*)
Là nơi hội tụ nhiều nét văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc Êđê,
Jarai, M’nông… cùng với những phong tục, tập quán, lễ hội đã tạo cho Tây
Nguyên trở thành vùng văn hóa dân gian đa dạng và đặc sắc.
Các lễ hội của đồng bào dân tộc Tây Nguyên ra đời từ niềm tin mãnh liệt
vào thần linh mà họ thường vẫn gọi là Yàng nên mang tính cộng đồng rất
cao. Các nghi lễ, lễ hội vừa là những sinh hoạt văn hố có tác dụng to lớn
trong việc củng cố và tăng cường sức mạnh của tình đồn kết, sự gắn bó

của cộng đồng nhưng cũng đồng thời tạo môi trường diễn xướng của nhiều
nhạc cụ dân tộc như: K’ni, Brố, đinh Tăk Tà, đinh Tút, đinh Năm... Ở đây có
những nghi lễ, lễ hội đặc sắc, độc đáo như: lễ trưởng thành, lễ bỏ mả, lễ
cúng bến nước, mừng lúa mới, nhà mới, lễ rước Kpan... mang đậm nét văn
hóa riêng của dân tộc Tây Nguyên .
Âm nhạc của Tây Nguyên cũng thật đặc sắc với tiếng đàn T’rưng, đàn
Klông pút. Nhưng cuốn hút hơn cả là những giàn cồng chiêng với những
âm thanh có sức vang động sâu xa. Tiếng cồng chiêng gắn liền với rất nhiều
lễ thức trong đời sống cộng đồng của các buôn làng Tây Nguyên.
Những lễ hội được quan tâm giao thoa văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở
đây, thể hiện qua những kiến trúc đặc sắc như nhà sàn dài, nhà rơng, đời
sống văn hóa, ẩm thực... Những họa tiết hoa văn được điểm xuyết khá tinh
80

tế xuất hiện trên các ngôi nhà của dân tộc Tây Nguyên


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004
(*).Bản sắc văn hóa Tây Nguyên – Nguồn:
/>
các dụng cụ của họ, trên từng bộ đồ của dân tộc Tây Nguyên.. Nghệ thuật
dệt hoa văn, trang trí và điêu khắc của đồng bào cũng là một mặt rất đặc
sắc của văn hoá Tây Nguyên. Đặc biệt đáng chú ý là truyền thống đẽo
tượng mồ bằng những khúc gỗ tròn của các tộc người ở Bắc Tây Nguyên.  
Rồi đến ẩm thực là rượu cần, cơm lam, canh cà đắng đã bắt đầu vượt ra
khỏi không gian của buôn làng trở thành những đặc sản mang thương hiệu
riêng cho các dân tộc của một vùng đất Tây Nguyên này.
2. Luật tục của dân tộc Tây Nguyên(*)
 Luật tục của dân tộc Tây Nguyên với quyền bình đẳng của phụ

nữ và trẻ em
- Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác
nhau như Phạtkđi hay Biđuê của người Ê Đê, Phạtkđuôi của người M Nông,
Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Ađatmuca của người Ra Glai,
Dâytơrônkđi của người Mạ, Nri của người S Rê… được coi là sự biểu hiện
thái độ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và cộng đồng xã hội.
Bên cạnh mặt hạn chế, nhìn chung các bộ luật trên trong một chừng mực
nhất định, vẫn phát huy tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội.

Luật tục đề cập tới nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống

tộc người từ môi trường tự nhiên, quan hệ sản xuất và sở hữu, tổ chức và

80

các quan hệ xã hội, phong tục tập qn, hơn nhân và gia đình…


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

- Xã hội truyền thống của các dân tộc Ê Đê, M Nông, Gia Rai… là xã hội mẫu
hệ.
Dòng họ mẹ thống trị mọi mặt trong đời sống xã hội như quyền thừa kế tài
sản, hơn nhân và gia đình.
Do vậy, luật tục là công cụ hữu hiệu để bảo vệ xã hội mẫu hệ, khẳng định
vai trò của dòng họ nữ, khẳng định vị trí to lớn của người phụ nữ trong xã
hội.
Trong luật tục Ê Đê, mọi của cải trong gia đình do người phụ nữ quản lý,

giữ gìn cho tổ tiên dịng họ.
Luật tục nói rõ : “Dù là cái chén sứ con, cái bát đồng nhỏ hay những đồ lặt
vặt cũng không được cả gan đem bán đi để ăn mà phải mãi mãi cất giữ.
Từ những cái gùi Gia Rai (có nắp đậy) đến những cái sọt, cái túi, cái nải và
những đồ lặt vặt, người chị cả đại diện cho người mẹ là người có nhiệm vụ
chăm nom, giữ gìn.
Tất cả những cái bát vỏ bầu, cái thúng đựng tro, cái hòn để mài, các cái trã
để luộc rau, người chị cả là người phải bảo quản.
Các ché tuk đỏ, các ché êbak Mnơng, các vịng đeo tay, các chén bát đẹp
bằng bạc bằng vàng là những của cải quý giá do tổ tiên xưa kia giàu có để
lại, chính người chị cả là người phải giữ gìn”(1).
Tài sản trong gia đình đều thuộc về quyền quản lý của người mẹ hay người
đại diện cho mẹ là chị cả. Việc thừa kế tài sản chỉ thực hiện theo dòng họ

80

nữ. Khi vợ chết, mọi của cải và cả con cái đều thuộc về phía gia đình vợ (dì,


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

bà ngoại) quản lý, còn người chồng phải trở về sinh sống với cha mẹ mình
mà khơng được mang theo tài sản và con cái.
(1) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 187 –
188

Trong trường hợp người chồng được gia đình bên vợ cho nối dây (lấy em
vợ) thì cùng với vợ tiếp tục quản lý con cái và tài sản đó.Cơng việc quản lý
và phân chia tài sản được tiến hành như sau : nếu gia đình có nhiều chị em

sống chung với nhau, thì số tài sản, của cải đó do người con gái lớn nhất
quản lý. Trường hợp có người đi lấy chồng và ra ở riêng thì mới phân chia
cho họ một phần. Các anh em trai đều khơng được chia phần trong số tài
sản đó. Nếu khơng có các con gái thì các con trai về ở với bà ngoại hoặc các
dì và số tài sản do mẹ để lại thuộc về bà hoặc các dì.
Như vậy, luật tục Ê Đê về thừa kế tài sản có phần ưu ái với phụ nữ mà
khơng bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa trai và gái, gia đình chồng và gia
đình vợ. Quy định này khơng phù hợp với pháp luật dân sự hiện hành.
- Ở các dân tộc Ê Đê, M Nông, Gia Rai… quan hệ hôn nhân theo chế độ mẫu
hệ. Theo tập tục này, người phụ nữ đóng vai trị chủ động cưới chồng,
người chồng sinh sống bên nhà vợ và con cái sinh ra mang họ mẹ.
Nhìn chung, quan hệ hơn nhân của các dân tộc thiểu số kể trên là tự
nguyện. Trai gái đến tuổi trưởng thành tự do yêu đương, tự do tìm hiểu
người bạn đời của mình mà khơng phải chịu sức ép nào cả. Đây là nét tiến
bộ quan trọng trong quan hệ hôn nhân. Luật tục đã chỉ rõ điều đó : “Trâu
bị khơng ai ép thừng, trai gái không ai ép duyên. Nếu hai người ưng nhau
muốn lấy nhau thì vịng cứ đặt trên chiếu, tự họ họ sẽ cầm lấy, không một
80

ai cầm trao cho họ”(1) .


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Họ là đơi trai gái khơng ai ép phải nhận vịng đồng, chuỗi cườm của nhau.
Ngay cả những người làm mai mối cũng khơng có quyền ép buộc : “Nếu
anh bằng lịng lấy người ta thì cái vịng đồng để trên chiếu anh hãy cầm
lấy. Chúng tôi là người hỏi người mối, chúng tôi không cầm trao tận tay
anh đâu kẻo mai kia anh lại bảo những người mối kia ép anh” (2) .

Nhìn chung, hơn nhân trong xã hội mẫu hệ theo chế độ một vợ một chồng.
Thế nhưng trong cuộc sống, những kẻ có thế lực, giàu có lại muốn lấy nhiều
vợ. Trong trường hợp này, người chồng phải thực hiện việc đền bù vật chất
cho vợ cả :
Ché tặng bên vợ phải đủ
Của tặng bên vợ phải đủ
Của chuộc vợ phải đầy đủ(3)
Người phụ nữ có quyền địi người chồng nộp đầy đủ của cải đền bù về việc
vi phạm phong tục truyền thống của mình.
Ở người Ê Đê, tục “nối nòi” (chuê nuê) được luật tục bảo vệ nghiêm ngặt,
cũng giống như : “Dầm nhà gãy thì phải thay, dát sàn nát thì phải thế. Chết
người này thì phải nối bằng người khác”(4). Theo đó, khi chồng chết, người
đàn bà có quyền địi hỏi nhà chồng một người em trai chồng để nối nòi.
Ngược lại, người vợ chết, người chồng cũng có thể lấy em gái của vợ để nối
nịi.Cũng có khi tục nối nịi truyền thống vượt ra ngồi phạm vi hơn nhân
chị em vợ và hơn nhân anh em chồng. Chẳng hạn, khi cậu (amiêt) chết thì

80

nối lại bằng cháu (a muôn), bà (a chuôn) chết cũng được nối lại bằng cháu.


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Tập qn của người Gia Rai không để cho người đàn bà chịu cảnh góa bụa,
bất hạnh suốt đời mà cho họ đi bước nữa “để nối lại sợi dây bị đứt”, “không
để bếp lị rạn nứt, ngơi nhà bị thủng”, “khơng để nỗi buồn trùm lấp” :

(1) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 114

(2) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn : Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 127
(3) Ngô Đức Thịnh , Luật tục MNơng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 368
(4) Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn , Luật tục Êđê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 115

Khi Bút chết, phải lấy Bang
Khi ngôi nhà lợp tranh dong đổ, phải dựng ngôi nhà lợp tranh …
Nếu cậu chết, phải lấy cháu
Những chiếc xà đỡ lấy sàn
Những chiếc xà đỡ lấy mái(1).
Luật tục Gia Rai cho phép người đàn bà có chồng chết được quyền lấy cháu
ruột của người chồng đó. Việc lấy trong dịng họ tạo nên mối quan hệ bền
chặt của dịng họ đó, cũng giống như mối quan hệ giữa các thanh xà với
sàn nhà và mái nhà trong một ngơi nhà. Đó là quyền được duy trì nịi giống,
huyết thống, duy trì sự tồn tại của dịng họ.
Tuy nhiên, tính khắt khe của tập tục nối nòi đã khiến cho nhiều người phụ
nữ rơi vào tình trạng bất hạnh, chịu cảnh khốn khổ về chênh lệch tuổi tác.
Đây quả là vấn đề hết sức phức tạp. Nếu khơng chịu “nối nịi” thì vi phạm
luật tục.
Trong hơn nhân, sống thủy chung là địi hỏi chính đáng : “Đã lấy vợ thì phải
ở với vợ cho đến chết, đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến khi

80

rượu nhạt, đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại” (2).


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Tập qn của các dân tộc thiểu số thường bênh vực, bảo vệ các cuộc hôn

nhân hợp với phong tục, trị tội những kẻ làm trái, làm cản trở hôn nhân,
đồng thời lên án, phê phán quyết liệt những cuộc hôn nhân không theo
phong tục như cưới xin không báo cho buôn làng, khơng nộp đủ đồ lễ
cưới… Cịn nếu người chồng có ý định ly hơn thì việc đầu tiên anh ta phải
nộp của cải, đền bù vật chất theo nguyên tắc một đền hai :
Kẻ nào gây ra việc này
Phải đền thịt, rượu cần, lễ cưới
Đồ vật một nó phải trả hai
Chém con trâu làm lễ ly hôn
Đối với những người chồng lười biếng, khơng chăm sóc vợ con, thì luật tục
cho phép người vợ có quyền đi lấy chồng khác và tất nhiên, mọi của cải
thuộc về người phụ nữ :
Lợn cưới sẽ mất
Ché cưới sẽ mất
Nhà chồng không được thắc mắc
Nhà chồng khơng được bắt tội
Sau đó vợ có quyền đi lấy chồng khác(3) .
Lễ trao vịng (ba kơng hay dja kông) của người Gia Rai tương tự như lễ
dạm hỏi của người Kinh (Việt), nhưng có ý nghĩa quan trọng hơn. Lễ này do
nhà gái tiến hành, chủ động sang phía nhà trai dạm hỏi. Sau lễ trao vịng,
đơi trai gái đã có thể ở với nhau với điều kiện khơng được có con trước khi
tổ chức lễ cưới chính thức. Việc trả vịng đồng nghĩa với việc từ chối đám
cưới và lúc này, hai bên có thể tự do tìm bạn tình mới, giao ước hơn nhân
giữa hai gia đình coi như được xóa bỏ. Luật tục bênh vực quyền lợi chính

80

đáng của người phụ nữ :



Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Của cải tơi sẽ lấy lại
Trâu bị lấy lại hết
Để tìm vợ tìm chồng khơng ai nói nữa
Tơi gặp ai u thương tơi
Tơi phải lấy làm chồng (4)

(1) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999,trang 182
(2) Ngô Đức Thịnh : Luật tục Ê Đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 125
(3) Ngơ Đức Thịnh : Luật tục M Nơng, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, trang 476
(4) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 315

Nếu người con trai đơn phương khơng thực hiện lời giao ước sau lễ trao
vịng, anh ta phải bồi thường danh dự cho cơ gái đó, mức bồi thường có khi
là cả một con bị.
Trường hợp hai vợ chồng đã có con với nhau nhưng vì lý do nào đó người
chồng bỏ vợ, tập tục Gia Rai bênh vực quyền lợi của người phụ nữ trong
việc đền bù vật chất của cải và xử phạt người chồng rất nặng vì anh ta
khơng phải ni con :
Hai vợ chồng đã có một hai đứa con
Nếu chồng bỏ vợ
Đền cho mỗi đứa con một con bò
Đền cho vợ một bộ chiêng(1)
Hay :
Nay anh đã dẫm chân lên chiếu

80


Đã bước chân qua đầu tôi


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Anh muốn lấy người khác
Anh sẽ phải đền
Bao nhiêu ché rượu, bao nhiêu heo anh phải trả(2)
Những quy định xử phạt nặng của luật tục đối với người chồng đã hạn chế
tình trạng bỏ bê vợ con, chểnh mảng công việc làm ăn, hạn chế tình trạng ly
hơn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Điều đó có tác
động tích cực trong việc củng cố quan hệ vợ chồng, gia đình, bảo vệ lợi ích
của người phụ nữ.Luật tục các dân tộc thiểu số có nhiều điều bênh vực
quyền và lợi ích của người phụ nữ.
(1),(2) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 324, 401

Điều này thể hiện rất rõ trong những vụ xét xử có liên quan đến người phụ
nữ, thì ý kiến của họ thường được khoa phạt kđi (người xử kiện) coi trọng.
Luật tục Ê Đê có câu : “Êbuh mniê djê êkei” (con gái ngã là con trai chết).
Theo đó, nếu người phụ nữ đã khai thì dù có hay khơng, người đàn ơng
cũng bị quy tội là đã có quan hệ bất chính với chị ta.
Tiếp đó, nếu người đàn ơng có vợ sẽ bị vợ phạt. Nói chung, người ta tin lời
nói của người phụ nữ, mặc dù có khi sự thật là khơng có. Trong vấn đề ly
hơn, lỗi của người phụ nữ bao giờ cũng được đánh giá nhẹ hơn so với đàn
ông. Khi giải quyết các vụ kiện ly hôn, người ta vẫn có những quy định ưu
tiên quyền lợi của phụ nữ.
Tập tục của người Ê Đê, Gia Rai cho phép người phụ nữ có quyền “đi bước
nữa” trong trường hợp người phụ nữ đó có chồng đi vắng lâu năm, khơng


80

cịn chờ đợi được nữa. Trường hợp khác, khi người chồng bị cầm tù hay bị


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

bắt làm nơ lệ, luật tục không bắt buộc người vợ phải chờ mà có thể đi lấy
chồng khác.
Điều này được luật tục Êđê biện luận như sau : “Chị ta đã mòn mỏi trông
chờ, đã già đi, công việc nương rẫy lại khơng có người làm. Chịi khơng có
ai đi thăm, rẫy khơng có ai đi phát, con két, con vẹt khơng có ai xua đuổi.
Chị ta đã chờ hết năm này qua năm khác, hết mùa khô này đến mùa khô
khác. Đã đến lúc phải thôi đi những năm tháng đợi, phải để chị ta kiếm
người chồng khác, một đời chồng thứ hai” (1) . Phong tục cho phép người
phụ nữ đó mời họ hàng đến để thưa chuyện và sau đó được quyền đi lấy
chồng khác.
- Tập quán của nhiều dân tộc thiểu số rất quan tâm đến trẻ em bởi trẻ em
là hình ảnh ngày mai của mỗi dân tộc.
(1) Ngô Đức Thịnh : Luật tục Ê Đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 149

Do đó, nhiều tập tục thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với lớp người nhỏ
tuổi này.
Luật tục phê phán những ông bố bà mẹ không biết nuôi dạy, chăm sóc con
cái, thậm chí cịn bỏ rơi hoặc đẩy những đứa trẻ đáng thương ra ngồi
đường:
Chúng cịn nhỏ cịn bé
Anh chị bỏ rơi nó
Anh chị khơng thương chúng

Chúng nó đâu phải là dê con, là bò con mà chỉ biết ăn cỏ

80

Vì sao anh chị lại đuổi chúng ra ngồi đường (1)


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Trách nhiệm của cha mẹ là phải làm lụng để nuôi dạy con cái nên người,
chăm sóc chúng đến khi trưởng thành. Trong trường hợp trẻ con chưa có
khả năng tự chủ, ni sống bản thân mà chẳng may cha mẹ mất sớm hoặc
khơng có khả năng chăm sóc, ni dưỡng, thì trách nhiệm đó thuộc về anh
chị em ruột của người đó. Nếu khơng có anh em ruột hoặc có nhưng cịn
nhỏ thì bà con họ hàng bên phía mẹ phải có trách nhiệm chăm sóc, rồi đến
họ hàng của bố.
Trong trường hợp họ hàng khơng cịn ai thì bn làng vận động người
khác nhận làm con ni. Điều đó thể hiện sự quan tâm của gia đình và cộng
đồng làng bn đối với trẻ em.Trách nhiệm ni nấng, chăm sóc trẻ em là
bổn phận của bậc làm cha mẹ, gia đình và cộng đồng làng buôn. Tập quán
của đồng bào các dân tộc phê phán những ông bố, bà mẹ không làm trọn
bổn phận của mình, thậm chí cịn bỏ rơi con trẻ :
Ống cháo sao bỏ bãi cỏ
Ống cá sao bỏ giữa buôn
(1) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 348

Có con sao bỏ cho ai
Cha mẹ bỏ rơi con, có tội(1)
Đối với những đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ do nhiều hồn cảnh khác nhau xơ

đẩy, có thể do cha mẹ chúng vô trách nhiệm, không thể nuôi nổi chúng vì
q nghèo khổ hoặc rơi vào hồn cảnh éo le cha mẹ không may bị mất sớm
khi tuổi chúng hãy còn nhỏ dại, luật tục cho phép quyền được nhận con
ni :
Tơi thấy chuột ở ngồi rừng

80

Thấy kỳ nhơng ở ngoài làng


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Thấy mang ở trong bụi cây
Thấy rái cá ở trong nước
Thấy vượn ở trên núi
Đến cửa nhà tôi
Tôi phải nuôi nấng chúng thôi(2)
Luật tục cho phép mọi người dân có quyền nhận người khác làm con nuôi
hoặc được người khác nhận làm con ni mà khơng phân biệt họ hàng
dịng tộc. Việc nhận con ni chỉ cần có sự thỏa thuận giữa bà con họ hàng
đôi bên và mặc nhiên được buôn làng chấp thuận. Con ni có đủ các quyền
và nghĩa vụ như con đẻ, được tơn trọng và đối xử bình đẳng, kể cả quyền
được nhận tài sản thừa kế :
Nếu nó sống hiền lành tử tế
Biết làm vựa lúa, làm rẫy tốt
Của cải tiền nong, sáp ong của người ta
Sẽ chia cho nó(3)
(1) Ngơ Đức Thịnh : Luật tục Ê Đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 490

(2) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 356
(3) Phan Đăng Nhật : Luật tục Gia Rai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr 356

Nhận con nuôi không phải được để bắt chúng làm việc như người hầu, đứa
ở trong nhà, càng không được bán hoặc đổi lấy lúa, đổi lấy muối, mà phải
đối xử tử tế, phải chăm sóc dạy dỗ đến nơi đến chốn, vì ni trẻ mồ côi
không tử tế là mang tội.
Luật tục khuyên bảo những người có lịng tốt hãy ra tay làm phúc cứu vớt
những trẻ mồ côi. Theo quan niệm dân gian, nếu ni những đứa trẻ mồ cơi

80

thì điều may mắn, tốt lành sẽ đến với người làm phúc.


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

Ta xem thường người mồ cơi là có tội
Ta từ chối con ni sẽ nghèo
Ta đem nó về ni sẽ giàu
Ta đem nó về ni sẽ sang(1)
Có thể nói luật tục quy định về con nuôi là khá cụ thể và phù hợp với pháp
luật hiện hành. Điều đó thể hiện trách nhiệm chung của cộng đồng làng
bn, của gia đình đối với trẻ em.
Một trong những tội bị luật tục lên án gay gắt nhất, mạnh mẽ nhất là tội
hãm hiếp trẻ con và được khép vào loại tội lớn nhất, dơ dáy nhất mà không
một vật chất nào đền bù thỏa đáng :
Hãm hiếp trẻ con là tội lớn
Trả bằng trâu chưa khớp

Trả bằng ché chưa đúng
Trả bản thân cũng chưa xong

(1) Ngô Đức Thịnh : Luật tục M Nông, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, tr 512

Luật tục coi tội hãm hiếp trẻ con là tội khơng thể xóa sạch : Hãm hiếp trẻ
con xóa khơng sạch(1) .
- Tập tục truyền thống của các dân tộc có nhiều điều đề cập đến quyền của
người phụ nữ và trẻ em. Nhiều điều quy định đến nay vẫn có giá trị và phù
hợp với pháp luật Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những điều luật đề cao

80

và bênh vực người phụ nữ thì cịn khơng ít những tập tục tỏ ra không phù


Văn Hóa Tây Ngun
Nguyễn Đình Hiếu – 10LC651004

hợp, thậm chí lạc hậu. Có những tập tục xử phạt người phụ nữ quá nặng
như tội ngoại tình, loạn luân, hay quan hệ tình dục trước hơn nhân.
Chẳng hạn, dân tộc Xê Đăng cư trú ở huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum quy
định, nếu phụ nữ có thai trước khi cưới sẽ bị phạt heo và rượu để cả bn
làng cùng uống.
Cịn theo tập quán của người Xê Đăng ở huyện Kon Plơng, nếu người phụ
nữ có thai trước khi cưới thì gia đình, họ hàng, bn làng khơng giúp đỡ
mà hai người tự tổ chức lấy, trường hợp không cưới sẽ bị phạt một con bò
và 10 ché rượu(2) .
3. Nền ẩm thực của dân tộc Tây Nguyên
Ẩm thực trong ngày lễ Tết ở Tây Nguyên(*)

Tây Nguyên là nơi sinh sống của hàng chục dân tộc anh em, đông nhất là
các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Ê-đê, M’Nông, Xơ-đăng, H’rê.... Mỗi dân tộc đều
có phong tục, tập quán riêng và hàng năm đều có tổ chức những ngày lễ
Tết cho bn làng sau khi gặt hái đã hồn tất.

(1) Ngơ Đức Thịnh : Luật tục M Nơng, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, tr 446
(2) Luật tục và phát triển nơng thơn hiện nay ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr 1048

Những ngày lễ Bỏ Mả, lễ Đâm trâu xây cột, Tết Cơm mới, Tết Giọt nước, Tết
Lửa... diễn ra rộn rịp suốt mùa hanh khô. Đây là mùa lễ Tết ở Tây Nguyên.
Trong lễ Tết, ẩm thực của các dân tộc Tây Nguyên đều giống nhau, từ món
thịt nướng cho đến rượu cần. Cịn cách ăn uống và nấu nướng thế nào, thì
đó là đặc điểm của mỗi dân tộc và của mỗi địa phương.

80

Ngày thường, đồng bào Tây Nguyên ăn cơm gạo tẻ với thức ăn nấu từ các


×