Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận Lễ hội tục “kéo vợ” của người H’Mông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.42 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SỰ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA SƯ PHẠM LỊCH SỬ


Đề tài: Lễ hội tục “kéo vợ” của người H’Mông

Sinh viên thực hiện: Hồ Nguyễn Quỳnh Châu
Lớp
: SP2A

..........., tháng ... năm ........


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Đám cưới là một phong tục văn hóa trong hơn nhân nhằm thơng báo rộng rãi
về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Nhưng từ xa
xưa cho đến ngày nay có một dân tộc ở vùng Tây Bắc vẫn cịn đang hiện hữu một
tục cưới rất đặc biệt đó là văn hóa dân tộc H’Mơng.Và dưới đây là phần tìm hiểu
của tơi về tục kéo vợ của người H’Mơng - nét văn hóa độc đáo cịn được lưu giữ
lại cho đến ngày nay.
Hôn nhân của người H’Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những
người cùng dòng họ khơng lấy nhau. Người Mơng có tục "háy pù", tức là trong
trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hị
hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Vợ
chồng người H’Mơng rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hịa thuận, cùng làm ăn,
cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè...
Người H’Mơng rất coi trọng dịng họ bao gồm những người có chung tổ tiên,
có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu
mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một
trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở


những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng,
bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà,
cách để xác ngồi trời trước khi chơn, cách bố trí mộ... Người cùng họ dù không
biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể
nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm
gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được
dịng họ tơn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi
như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, ln ở bên nhau khi đi
chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng.
Tháng giêng, khi những rừng mơ nở trắng, báo hiệu mùa cưới lung linh sắc
màu thổ cẩm rộn lên khắp các bản làng Tây Bắc và Ðông Bắc cũng rộn lên. Người
Mông có tục kéo con gái về làm vợ (Cướp vợ).
Khi người con trai quen biết một người con gái và muốn cơ gái đó làm vợ họ
sẽ đi kéo cơ gái về nhà. Để kéo được cô gái về nhà, người con trai phải chiêu đãi,


mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi để họ đi kéo giúp. Chàng trai và bạn bè
của anh có thể tìm cơ gái ở chợ, ở đêm chơi trăng hay lúc đi làm nương. Khi đã
kéo được cô gái về nhà, chàng trai lại phải mời rượu bạn để cảm ơn. Chàng trai sẽ
phải nhờ chị gái của mình (hoặc em gái) để trơng khơng cho cơ gái trốn khỏi nhà
mình. Chị gái của chàng trai sẽ có mặt bên cô gái được kéo về suốt cả ba ngày
đêm.
Phong tục chính là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội của con người,
được mọi người công nhận và làm theo. Có những phong tục mang tính cổ hủ,
song có phong tục tơ đẹp bản sắc văn hóa người dân Việt Nam.
Tục cướp vợ được coi là chế độ lược hôn. Tục này rất phổ biến ở các vùng Tây
- Ðông Bắc. ở vùng Tây Bắc giáp biên giới nước Lào, tục cướp vợ có sắc thái biểu
cảm thật trữ tình. Vào một đêm trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang
tựa cửa nhà người yêu, rồi thổi một điệu kèn mơi tình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu du

dương khiến lịng cơ gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì chàng lập
tức ghé thang lên, trèo vào và cõng nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau 3 ngày, rồi
trở về nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới.
Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ mang tính mạnh mẽ, quyết
liệt hơn. Chàng trai đi chợ, bắt gặp một cô gái xinh đẹp. Chàng liền quay về, rủ
một số bạn trai thân tình, mượn những con ngựa thật khoẻ. Họ hùng dũng ra chợ,
chàng đi sát bên cô gái, bất ngờ bế thốc cô gái lên ngựa rồi phi nước kiệu. Nếu
chàng và nàng đã có tình ý từ trước thì chàng đặt tay trái về phía cơ, cơ đặt tay trái
lên rồi đạp chân trái của mình lên mô bàn chân cứng cáp của chàng, theo đà lên
ngựa. Họ sống với nhau từ 2 đến 7 ngày. Sau đó, chàng đưa nàng về nhà vợ hỏi
cưới.
Trong khi đó, tục cướp vợ của người Kinh mang tính chất cộng đồng, làng
xóm. Cụ thể, một số làng thuộc huyện Ðơng Anh, ngoại thành Hà Nội thường tổ
chức tục cướp vợ rất đặc biệt (ngày nay khơng cịn). Vào dịp lễ xướng, dân làng
chọn một cô gái xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ và một chàng trai khỏe mạnh, chịu
khó. Cơ gái ra làng ở, nằm mộng 7 ngày 7 đêm. Chàng trai nấp dưới bụi khoai
nước bờ ao. Khi lễ hội được diễn ra, cơ gái cất tiếng hát:
“Tao có chiếc yếm lưỡi cày
Chẳng để cho mày thì để cho ai”
Tiếng hát vừa dứt chàng trai vọt lên bờ vác cơ gái chạy đi, theo sau là tiếng hị
reo, đuổi, ném đất dẻo, bắn cung bằng thân dâu của dân làng. Nếu chàng đưa cô


gái sang bờ bên kia an tồn thì năm ấy dân làng làm ăn thịnh vượng, được mùa, trẻ
em mau lớn. Bằng khơng thì ngược lại.
Nhìn chung, tục lệ cướp vợ ở mỗi vùng khác nhau, song tựu chung lại vẫn là
phản ánh tâm tư, tình cảm của con người, đồng thời tạo nên nét độc đáo riêng cho
nền văn hóa nước nhà.



B. PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm về tục kéo vợ
Tục “kéo vợ” hay còn gọi là
cướp vợ, cướp dâu là nét riêng
độc đáo trong hôn nhân của
người H’Mơng. Nó chứa đựng
các yếu tố nhân văn, được xử lý
linh hoạt trên cơ sở đoàn kết
thương yêu.
Ở Hà Giang, người Mơng có
dân số đơng nhất, với hơn
190.000 người, phân bố chủ yếu ở các huyện vùng cao phía Bắc là Mèo Vạc, Đồng
Văn, Yên Minh, Quản Bạ và hai huyện phía Tây là Xín Mần và Hồng Su Phì. Dân
số đông, sống tương đối tập trung nên người Mông ở Hà Giang vẫn giữ được
những nét văn hoá truyền thống đặc sắc của mình.
Mỗi độ xuân về, khi cành đào tung hoa, cây ngô trổ mầm, những phiên chợ rộn
ràng người mua bán, cũng là lúc thanh niên nam nữ người Mơng có cơ hội tìm hiểu
nhau. Đó chính là tục"Kéo vợ" - một nét văn hóa riêng, độc đáo của người Mông
huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang
2. Nguồn gốc của tục “kéo vợ”
Ngày xưa, theo phong tục của người H’Mông, nhà gái thách cưới gồm 70 đồng
bạc trắng, 2 con lợn, 20 vị rượu và tồn bộ phí tổn tổ chức đám cưới nhà hai họ.
Phong tục này đã ngăn cản những chàng trai nghèo có được hạnh phúc cho mình.
Và tục kéo vợ ra đời chẳng ai biết từ khi nào, đó là một hình thức “lách luật” thách
cưới để những chàng trai nghèo có thể đến được với hạnh phúc và xây dựng gia
đình.
Trong thực tế có rất nhiều đơi trai gái u nhau tha thiết nhưng lại không được
một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu là cha mẹ người con gái). Khi cha
mẹ không đồng ý mà trái gái khác tự tìm đến sống với nhau thì khơng những bị coi

là bất hiếu mà cuộc hơn nhân cịn khơng được cộng đồng chấp nhận. Thế nên tục


“kéo vợ” có thể được coi là một giải pháp khá hiệu quả cho những đôi trai gái yêu
nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình.
Tuy nhiên, nếu cứ theo thủ tục
thơng thường thì khi đi ăn hỏi, hai bên
có thể thỏa thuận về khoản lễ cưới
nhưng nếu nhà trai dùng tục “kéo vợ”
thì nhà gái sẽ ít khi thơng cảm và
thường phạt bằng cách địi lễ cao hơn
bình thường.
Khi đã chấp nhận dùng tục “kéo
vợ” thì nhà trai phải xác định ngay là sẽ
bị nhà gái phạt. Và khi nhà gái đòi bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu để tránh sự chê
cười của làng xóm. Chính vì những lệ này mà khơng phải gia đình nào cũng có thể
dùng tục “kéo vợ” cho con trai. Những gia đình muốn dùng tục “kéo vợ” thường
phải là những gia đình, dịng họ tương đối khá giả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu
khi nhà gái phạt. Bởi có khơng ít gia đình phải mất vài ba năm mới có thể trả hết lệ
phạt mà nhà gái đặt ra.
"Kéo vợ" không phải cứ thấy cô nào xinh xắn, giỏi giang, muốn lấy làm vợ thì
kéo về nhà mình, mà thực tế đơi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất cặn kẽ và đã ưng
nhau. Cho nên kéo vợ chỉ là cái tục phải có để người con gái chính thức bước chân
về nhà chồng. Sau khi kéo cô gái về nhà, ba ngày sau chàng trai chỉ việc sang nhà
gái thông báo họ đã thành vợ chồng. Cho đến khi con đàn, cháu đống, của cải dư
thừa họ mới tổ chức đám cưới.
II. Tục kéo vợ của người H’Mông
Khi xuân về, tết đến cũng là dịp để thanh niên nam nữ H’Mơng có cơ hội gặp
gỡ, tìm hiểu nhau, đó có thể là các phiên chợ cuối năm, hội hè trong những ngày
tết hay đơn giản chỉ là những buổi đi lấy củi, địu nước chuẩn bị cho một năm

mới... Khi đôi trai gái ưng ý và thề nguyền đi đến hơn nhân thì về báo cáo với bố
mẹ và dòng họ. Nếu mọi chuyện sn sẻ thì nhà trai sẽ tiến hành mời ơng mối sang
đánh tiếng dạm hỏi, rồi tiến tới lễ ăn hỏi (hẹn cưới) và cuối cùng là lễ cưới ( đón
dâu).
Đám cưới của người Mơng thường được tổ chức linh đình vào ngày lành tháng
tốt mà thường là vào mùa xuân, vì người dân kiêng làm đám cưới vào những tháng


có sấm sét. Và người ta cho rằng mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà
con người khơng nằm ngồi vịng quay đó. Thế nhưng, khơng phải câu chuyện tình
u nào cũng có một cái kết có hậu mà khơng phải trải qua sóng gió.
Tục kéo vợ là một biểu hiện rõ nét trong văn hóa của người Mông . Họ thường
dùng từ kéo cô dâu hay kéo vợ. Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu nhau đắm
đuối, từng thề thốt cùng chung sống với nhau cả đời, lúc lấy nhau thật cũng phải tổ
chức kéo thì cơ gái mới chịu về nhà chồng, khơng có cơ gái nào tự bước chân về
nhà chồng cả, ý nghĩa chính của việc kéo vợ thể hiện sự danh giá của người con
gái qua ba nghĩa chính:
- Thứ nhất: Cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con
trai một cách mù quáng hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai.
- Thứ hai: Người con trai thực sự cần lấy cô gái làm vợ thật với thiên chức của
người mẹ mới tổ chức kéo vợ, thể hiện thái độ rõ ràng cụ thể.
- Thứ ba: Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã hội và sự ngược đãi sau này
của người chồng và người nhà trai.
1.Chuẩn bị đi kéo vợ:
Khi đã được nhà trai cho phép con trai được lấy vợ, cả nhà tập trung cùng lo,
cho người đi mời phù dâu, phù rể, cô chú cùng đi giúp kéo vợ, đồn người kéo vợ
thường có ít nhất 5 người chính thức và một số người khác phụ giúp. Một cô gái
trẻ chưa có chồng khác họ nhà trai làm phù dâu, một chàng trai khác họ với nhà
trai chưa có vợ làm phù rể, một người anh hoặc bác ruột có hiểu biết cầm trịch, và
chú rể chồng của cơ dâu, một người thường là bà cơ hay bà dì đại diện mẹ chú rể

với một số bạn trai trẻ biết cách kéo
vợ đi giúp chàng trai kéo vợ. Tiêu
chí những người được chọn tham gia
đoàn người kéo vợ gồm 03 tiêu chí
chính:
- Thứ nhất: Phù dâu, phù rể phải
là người chưa có chồng, chưa có vợ,
có lối sống đạo đức tốt, kính trên,
nhường dưới, nói năng nhẹ nhàng có
hiểu biết.


- Thứ hai: Người cầm trịch và người nữ đại diện cho nhà trai là những người có
vợ chồng, con cái đầy đủ (khơng hố vợ, hố chồng), làm ăn phát đạt sống có uy
tín với bản làng.
- Thứ ba: Tất cả số người này phải biết cách kéo vợ, bởi cách kéo vợ của người
H’Mông là cả nghệ thuật sống thực sự, chính cơ gái bị kéo là người chịu ảnh
hưởng lớn, nếu không biết cách kéo, khi kéo sẽ bị sứt đầu mẻ chán làm đau đớn
cho người bị kéo, khi đôi co với người thân và cô gái bên nhà gái.
Trước khi đi cả đoàn người hội ý thống nhất, khi đi chia theo tốp để tránh sự
nghi ngờ của người khác. Con trai và phù rể đi trước, phù dâu và người đại diện
mẹ nhà trai theo sau, người đàn ông cầm trịch nhà trai và tốp con trai đi kéo hộ đi
sau cùng. Khi tới điểm hẹn nhà trai bố trí sẵn cho con trai mình hẹn gặp người yêu
đến cùng tâm sự tại một địa điểm thuận lợi như đón đường nhà gái đi làm, đi chợ
hay đi chơi xuân ngày tết… Mọi người nấp vào các bụi rậm hai bên đường để lại
chàng trai và phù rể dạo bộ để đón gặp bạn gái, khi thấy người yêu xuất hiện thì
chàng trai chủ động chào hỏi tán tỉnh giữ chân cô gái lại nói chuyện một lúc để cơ
gái khơng đề phịng nữa
2. Bắt đầu kéo
Khi người con trai quen biết một người con gái và muốn cơ gái đó làm vợ họ

sẽ đi kéo cô gái về nhà. Để kéo được cô gái về nhà, người con trai phải chiêu đãi,
mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi để họ đi kéo giúp.
Mọi chuyện được tính tốn trong bí mật, gia đình nhà gái khơng hề hay biết, cơ
gái vẫn ngày ngày đi nương, lấy củi, địu nước như thường. Rồi một ngày như đã
hẹn... chàng trai xuất hiện. Hai người đang tâm sự thì bạn bè của chàng trai xuất
hiện và giúp chàng trai kéo cơ gái về nhà mình. Cô gái dù biết trước mọi chuyện
vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu tống lên.
Khơng những thế cơ gái phải giả vờ kêu cứu, khóc lóc để mọi người nhà mình
biết đến cứu. Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà khơng khóc
lóc, kêu la thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng, bị gia đình và làng xóm coi
khinh. Khi người nhà gái mang gậy gộc đến cứu cơ gái thì các bạn của chàng trai
sẽ xơng ra đỡ địn (theo luật lệ của người Mơng là đã đi “kéo vợ” thì nhà trai
không được phép đánh lại nhà gái) để chàng trai mang cô gái về nhà.


Chàng trai và bạn bè của anh
có thể tìm cơ gái ở chợ, ở đêm
chơi trăng hay lúc đi làm nương.
Khi đã kéo được cô gái về nhà,
chàng trai lại phải mời rượu bạn
để cảm ơn.
Chàng trai tán tỉnh cô gái một
lúc thấy thuận lợi, chàng trai tóm
lấy tay cơ gái nói: Lần này ta kéo
nàng về làm vợ ta đây. Nói xong
chàng trai giữ chặt lấy người yêu lại, những người kéo giúp sám vào hai người biết
kéo tì vai vào nách cô gái, quẳng hai cánh tay vào vai của hai người kéo giữ chặt
lại cứ thế nhấc bổng cô gái lên mà chạy về nhà chồng, kéo kiểu này là người biết
cách kéo, khơng gây thương tích cho người bị kéo, chân người bị kéo không chạm
đất, khơng có lực giằng co, khơng đánh trả được, mồm không thể cắn ai được. Hai

người kéo cô gái đi một qng xa thấy mệt thì hạ cơ gái xuống và giữ chặt, hai
người khác đến thay thế và đưa cô gái về đến nhà trai.
Nếu như gặp phải sự phản ứng gay gắt của người nhà gái thì hội kéo cứ thế
kéo cô dâu đi, để lại người cầm trịch hát đối đáp với người nhà gái, chú rể ở lại với
người cầm trịch để tạ lỗi với người nhà gái, phù dâu, phù rể cùng cô dâu về nhà
trước. Khi về đến gần nhà trai, đoàn người kéo vợ cử một người chạy trước về báo
với những người chờ sẵn trong nhà như bố, mẹ hay các cô, chú của chú rể bắt một
đôi gà, một gà mái tơ, một gà trống chưa gáy đợi sẵn ở cửa chính khi đồn người
kéo cơ dâu về đến đó thì người đó làm
lý gọi hồn.
Người Mơng quan niệm: con gái đã bị
người ta dùng gà trống làm lễ nhập
nhà rồi thì có bỏ về bố mẹ đẻ cũng
khơng thể chấp nhận được vì cơ ta đã
trở thành người của nhà khác, khi chết
cũng là ma nhà khác rồi. Chính vì vậy,
khi biết con gái mình đã bị người ta
kéo về làm vợ thì dù có khơng đồng ý,
có ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý.


Lúc đồn người về đến cửa thì chưa vội đưa cô dâu vào nhà, người ta giữ cô
dâu, chú rể ở ngồi cửa chính, người làm lý đốt ba nén hương tay cầm đôi gà huơ
huơ chân, cào cào từ đầu đến chân cô dâu, chú rể lẩm bẩm gọi hồn, xong xuôi
mang gà mổ thịt làm cơm tiếp đãi đồn người đi giúp kéo cơ dâu.
Trong bữa cơm này nhà trai mời một người có hiểu biết cùng ăn cơm, sau đó
giúp nhà trai sang nhà gái báo tin cho nhà gái biết, nhà trai đã kéo được con gái họ
về làm dâu nhà trai. Chàng trai sẽ phải nhờ chị gái của mình (hoặc em gái) để trơng
khơng cho cơ gái trốn khỏi nhà mình. Chị gái của chàng trai sẽ có mặt bên cơ gái
được kéo về suốt cả ba ngày đêm. Khi đã kéo cô gái về nhà mình được một ngày,

bố mẹ chàng trai sẽ nhờ một người đàn ơng, gia đình phúc lộc đi làm mối cho con
mình “Tua lểnh xa” (người làm mối). Người này cịn được coi là bố mới “xí xi xu”
của chàng trai nếu như đôi bạn trẻ nên vợ nên chồng. Người mối này sẽ để một lít
rượu vào sừng trâu “cu nhùng trâu chớ” đi đến nhà gái với mục đích hỏi xem gia
đình bên nhà gái cần những gì cho việc cưới của con.
Khi người mối đến nhà gái thì người mối khơng được đi vào gian giữa mà phải
vào cửa phụ và ngồi ở bếp lò. Nhà gái đi mời một người đàn ơng có phúc phận tốt
để thay mặt nhà gái thách cưới cho khách quan; nhà gái đi mời ông mối( của nhà
gái) đến nhà đại diện cho nhà gái tiếp người mối. Người mối sẽ mời thuốc, mời
rượu đã mang sẵn từ nhà đến cho người đại diện nhà gái và cả những người có mặt
trong nhà gái để mời mọi người uống. Chỉ cần những cử chỉ như vậy là bố mẹ nhà
gái biết được họ hỏi lấy con gái mình. Người mối chính thức rót hai chén rượu đưa
cho người đại diện nhà gái và dạm hỏi lễ vật mà nhà gái cần thách và thời gian để
làm lễ cưới. Khi đã được nhà gái công bố các lễ vật xong, người mối sẽ về nhà trai
báo lại toàn bộ sự việc các loại lễ vật cho nhà trai, thời gian để hai bên tổ chức lễ
cưới.
Ơng mối này có quyền thách những thứ cần thiết, số lượng phù hợp như những
đám cưới khác. Hai ơng mối này cịn mang tính chất là hai người làm chứng của
hai gia đình. Nếu hai đứa ưng thuận lấy nhau thì lễ vật nhà trai đem đến phải đầy
đủ như ông mối của nhà gái thách cưới, khơng được thiếu một thứ gì.
3. Thủ tục khi “kéo vợ”
Từ lúc kéo đến lúc cưới trong vòng 3 tháng. Đây là thời gian cần thiết để nhà
trai chuẩn bị những thứ cần thiết cho lễ cưới. Nếu sau 3 ngày kể từ ngày kéo cô gái
về, cơ gái khơng đồng ý làm vợ chàng trai thì xin phép nhà trai cho hai bát rượu cô gái sẽ bưng mời chàng trai một bát và uống cạn một bát, cảm ơn chàng trai đã


u thương đến mình đồng thời cơ gái cũng nói lên điều trân trọng của mình với
chàng trai đó và xin chỉ làm bạn.
Trong trường hợp này, chàng trai sẽ nài nỉ và nói nên tâm tình của mình. Nếu
cơ gái thay đổi thì họ sẽ lấy nhau. Nếu cơ gái khơng thay đổi thì cả hai bên cùng

uống cạn bát rượu và cô gái xin phép ra về. Trong trường hợp cơ gái đồng ý làm
vợ thì tâm sự với người chị gái của chàng trai. Sau đó người chị gái sẽ nói với
chàng trai và gia đình chuẩn bị những thứ cần thiết cho những việc tiếp theo. (Chị
gái của chàng trai ở với cô gái không chỉ để trơng nom, giúp đỡ mà cịn thuyết
phục cơ gái đồng ý làm vợ em trai mình.)
Từ khi kéo được cơ dâu về, nhà trai bố trí cơ dâu và phù dâu ngủ chung ba
đêm. Sau 3 ngày, để chuẩn bị đám cưới, nhà trai giã bánh dầy để đưa cơ dâu về nhà
mẹ đẻ lấy đồ thay. Đồn người đi sang nhà cô dâu lấy đồ gồm cô dâu, chú rể, phù
dâu, cha hay mẹ chú rể, khi đến nhà gái chú rể phải quỳ lậy tất cả các thành viên
nhà gái để làm quen. Nhà gái tổ chức bữa cơm tiếp đãi nhà trai, tại bữa cơm này
người đại diện nhà gái bà dì hay bà cơ hỏi cơ gái thật kỹ có thể chung sống cả đời
với nhà trai được không? Khi đến nhà gái, cô gái vui vẻ trả lời và đồng ý về làm
dâu nhà trai. Thấy vậy nhà gái yên tâm dọn đồ tư trang của cô gái cho cầm về nhà
chồng bắt đầu một cuộc sống mới được ăn nằm chung như vợ chồng thật, mọi việc
chuẩn bị cho đám cưới bắt đầu. Cơ gái về nhà để báo với bố mẹ mình là đồng ý
làm vợ chàng trai và xin phép bố mẹ để sang bên đó ở. Cơ gái đem theo quần áo,
đồ thêu của mình sang nhà trai ở - Thời gian ở bên nhà trai trước khi cưới 3 tháng cô gái đi lại cả hai bên và làm việc thêu thùa chuẩn bị cho ngày cưới.
Nếu như vừa đến nhà gái người con gái buồn rầu, khóc lóc van xin cha mẹ
khơng muốn về nhà trai thì hơn nhân chấm dứt từ đó.Việc làm này gần như tạo
điều kiện cho cô dâu tương lai được về sống thử với nhà trai trong thời gian ba
ngày, nếu qua cảm nhận trong ba ngày đó được cơ dâu chấp thuận thì cuộc sống
làm dâu được chính thức bắt đầu diễn ra, nếu không coi như đã chấm dứt.
Sau 3 tháng ở nhà trai để làm quen với sinh hoạt nhà chồng và chuẩn bị xong
trang phục cưới, nhà trai cũng chuẩn bị xong lễ cưới. Họ đưa cô gái về nhà bố mẹ
đẻ và xin phép ngày tổ chức cưới. Lễ cưới được tổ chức tại nhà gái trong vòng 1
ngày 1 đêm. Trong đám cưới diễn ra các cuộc mời rượu, hát đối đáp giữa các thanh
niên nam nữ của hai họ.
Trước khi về ở hẳn nhà chồng, cô gái sẽ phải thắp hương cúng tổ tiên, ma nhà,
ma cửa, ma cột cái... các ma tốt trong gia đình để bái về việc con gái đi ở với



chồng. Khi về nhà chồng, chỉ tổ chức mâm cơm trong nội tộc và cúng tổ tiên gia
đình nhà trai là xong lễ cưới. Cô dâu sẽ ở nhà chống chính thức từ đây. Người
Mơng quan niệm về hơn nhân không khắt khe như các dân tộc khác. Anh em trong
vịng ba đời nội tộc có thể lấy được nhau hoặc con dà, con dì cũng có thể lấy được
nhau.
Đây là kiểu quan niệm về hơn nhân khép kín từ xa xưa để lại nhằm bảo vệ một
cách tuyệt đối về tài sản của họ cho con cháu.


C. PHẦN KẾT LUẬN
Tục cướp vợ là một luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số H'Mông. khi con cái
lớn người con trai đến nhà con gái cướp về làm vợ. Hủ tục ăn sâu bám rễ đến ngày
nay vì nó bắt nguồn từ tập tục làm nương, người phụ nữ khi lấy về thường trở
thành lao động chính.
Tục này nảy sinh chuyện tảo hôn nhiều đôi lấy nhau rồi vẫn "chưa biết làm gì".
Lấy vợ sớm để có thêm người làm, vừa sớm sinh con đẻ cái, có thêm nhiều lao
động. Trọng nam, khinh nữ cũng còn rất rõ, lấy vợ về là để phục vụ.
Tục “kéo vợ” cịn có thể diễn ra bởi nhiều lý do như: Người con trai thích
người con gái nhưng người con gái lại từ chối, gia đình người con trai dùng quyền
thế “cướp vợ” cho con trai... Nhưng những trường hợp này chỉ xảy ra trước đây,
dưới xã hội phong kiến. Còn ngày nay, cũng như nhiều dân tộc khác, người Mông
luôn trọng chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và quan niệm cái đẹp lứa đôi là
khỏe mạnh, đạo đức và chăm chỉ. Hơn nhân là kết quả của tình yêu tự nguyện, các
cuộc “kéo vợ” hiện chỉ là sự khẳng định cho tình yêu mãnh liệt, khát vọng về một
gia đình hạnh phúc của trai gái người Mơng.
Nếu hiểu tục “kéo vợ” của người Mông ngày nay là khi người con trai thích
một người con gái, liền rủ bạn bè bắt cóc người đó về làm vợ là rất sai lầm,
nghiêng về khía cạnh bạo lực mà khơng thấy hết được tính nhân văn sâu sắc trong
đó. Có thể nói, người Mơng có rất nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt khe song

bên đều chứa đựng các yếu tố nhân văn, được xử lý linh hoạt trên cơ sở đồn kết
thương u. Nó chính là cốt lõi để giữ gìn sự gắn bó của cộng đồng và bảo lưu các
giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc.


TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Cuộc sống Việt - Tục cướp vợ của người H’Mông
/>2. Langbian.net – Tục “kéo vợ” của người H’Mông
/>3. Báo điện tử - Đảng Cộng Sản Việt Nam
/>co_id=30672&cn_id=368305
4. Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở - Lễ cưới (người H'Mông)
/>%28ng%C6%B0%E1%BB%9Di_H%27M%C3%B4ng%29
5. Báo Hà Giang – Tục “kéo vợ” của người Mông – Hà Giang
/>lang=V&func=newsdetail&newsid=4406&CatID=104&MN=30
6. Quê Hương Online - Phong tục cưới của người H’Mông
/>

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................4
I. Khái quát chung.......................................................................................................................4
1. Khái niệm về tục kéo vợ......................................................................................................4
2. Nguồn gốc của tục “kéo vợ”................................................................................................4
II. Tục kéo vợ của người H’Mông...............................................................................................5
1.Chuẩn bị đi kéo vợ:...............................................................................................................6
2. Bắt đầu kéo..........................................................................................................................7
3. Thủ tục khi “kéo vợ”...........................................................................................................9
C. PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................................12




×