Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tieu luan LSD những bài học có thể rút ra từ thực tế công tác xây dựng đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.83 KB, 22 trang )

Tiểu luận Lịch sử Đảng

A- MỞ ĐẦU
Mùa xuân năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập
và thực sự trở thành người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trải qua 80 năm vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách, lập nên những chiến cơng hiển hách làm rạng rõ non sông đất nước.
Cội nguồn của những chiến cơng vĩ đại đó chính lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo, vô cùng phong phú, sôi động, hào hùng của Đảng ta, một Đảng
Cộng sản kiên cường, được soi rọ bởi ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khơi dậy, tổ chức, tập hợp toàn thể dân
tộc Việt Nam đi theo ngọn cờ của Đảng, biến lý tưởng của Đảng thành
thực tiễn cách mạng sinh động, thành sức mạnh của đông đảo quần chúng.
Dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang
vinh, đã vượt qua biết bao gian nan, thử thách để đưa công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiến lên một cách vững
chắc. Trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), hòa nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới,
những bài học của Cách mạng Tháng Mười và con đường lịch sử của hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu càng trở nên có ý
nghĩa thiết thực đối với cách mạng Việt Nam, nhất là đối với công tác xây
dựng Đảng cầm quyền - một yếu tố có ý nghĩa quyết định thành bại của
công cuộc xây dựng phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Những bài học có thể
rút ra từ thực tế công tác xây dựng Đảng là gì? Đó chính là nội dung của
bản tiểu luận này.


-2-

B- NỘI DUNG


1. Những thành tựu vĩ đại của Đảng trong 80 năm qua
Trong suốt 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập đân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt
qua mn vàn khó khăn, thử thách và đã giành được những thành tựu vĩ
đại. Đó là:
- Tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, (nay là nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam) Nhà nước của cơng nông và nhân dân lao động đầu tiên ở Châu Á.
- Tiến hành cuộc kháng chiến lần thứ nhất, đánh thắng chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp được đánh dấu bằng thắng lợi lịch sử Điện
Biên Phủ, giải phóng miền Bắc, góp phần quan trọng mở đầu sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
- Tiến hành cuộc kháng chiến lần thứ hai đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, được đánh dấu bằng trận “Điện Biên Phủ
trên không” năm 1972 và cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 mà
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hồn tồn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là công cuộc đổi
mới đã làm biến đổi sâu sắc bộ mặt đất nước, làm cho vị thế nước ta ngày
càng được nâng cao trên thế giới.
Với những thành tựu vĩ đại đó, nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do. Nhân dân ta từ thân
phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước
ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã xây dựng được những cơ sở vật


-3-

chất - kỹ thuật – công nghệ cần thiết, tạo các tiền đề để đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, có quan hệ rộng rãi với tất các các

nước, từng bước hội nhập nền kinh tế quốc tế.
2. Những bài học của Đảng trong công tác xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam từ năm 1930 đến nay
Những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong
80 năm qua thể hiện sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam trong mỗi thời kỳ cụ thể.
Từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng 80 năm qua của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể rút ra những bài học chủ yếu sau đây:
2.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh suốt q trình cách
mạng Việt Nam
Ngay từ trong quá trình đi tìm con đường cứu nước, sau khi khảo sát
các cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện: “chỉ có giải
phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế
giới”. Do vậy, cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã xác định con
đường cách mạng Việt Nam là “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản”. Gắn mục tiêu giải phóng
dân tộc với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là thành quả lý luận cơ bản đã
mở ra một trang sử mới cho cách mạng Việt Nam. Xác định đúng vị trí của
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng.


-4-

Thực tiễn cách mạng sinh động sau khi Đảng ra đời đã khẳng định:
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính nguyên tắc
của cách mạng Việt Nam trong quá trình vận động và phát triển. Muốn tiến

lên chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có độc lập dân tộc. Thời kỳ cách mạng
những năm 1930-1945, độc lập dân tộc từng bước được khẳng định là mục
tiêu hàng đầu. Mục tiêu độc lập dân tộc được đặt ra và giải quyết trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua đội tiên phong của giai cấp công
nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam đã thức tỉnh, lôi cuốn cả dân tộc Việt Nam
làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lại độc lập, tự do
cho dân tộc. Nhưng ngay sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp đã quay
lại xâm lược Việt Nam, nhân dân cả nước phải tiếp tục nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bảo vệ nền độc lập
dân tộc đã trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của tất cả mọi người dân. Trong
giai đoạn này, chủ nghĩa xã hội tuy chưa có điều kiện để đặt ra một cách trực
tiếp, nhưng luôn luôn là phương hướng để cách mạng Việt Nam tiến tới:
“Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ
nghĩa xã hội”. Cùng với việc chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ, giải quyết
vấn đề độc lập dân tộc bằng chiến tranh cách mạng, Đảng ta từng bước đã tạo
ra những tiền đề đầu tiên cho chế độ mới. Điều đó khẳng định tính liên tục
trong các giai đoạn cách mạng và tính chất triệt để của sự nghiệp giải phóng
dân tộc ở giai đoạn tiếp theo.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng
Việt Nam đứng trước những thách thức chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Đất nước bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị đối lập nhau. Việt Nam
nằm trong mục tiêu chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ.


-5-

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của hai miền đất nước và xu thế của
thời đại, Đảng ta đã quyết định tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
ở hai miền: cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc nhằm mục tiêu chung chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành độc

lập, thống nhất đất nước.
Kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ này
được thể hiện ở việc xác định nhiệm vụ cách mạng của mỗi miền đất nước.
Đồng thời, Đảng ta đã nêu rõ vị trí và mối quan hệ giữa hai chiến lược cách
mạng ở hai miền. Cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam có vai trị quyết
định trực tiếp cho thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng
của cả nước. Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách
mạng dưới sự lãnh đạo thống nhất của một chính đảng là đặc điểm hết sức
độc đáo của cách mạng Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ nghĩa lãnh thổ quốc
gia, làm thất bại mọi mưu toan của các thế lực phản động quốc tế, Đảng ta đã
lãnh đạo tồn dân khắc phục những khó khăn và hạn chế của lịch sử, từng
bước cùng nhân dân ta tìm tịi, khảo nghiệm con đường thích hợp đi lên chủ
nghĩa xã hội. Trong giai đoạn 10 năm cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (19751986), sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã góp phần quyết định
vào quá trình đưa đất nước vượt qua khó khăn, bước đầu tạo nên những tiền
đề cho cơng cuộc đổi mới.
Từ Đại hội VI của Đảng (12-1986) cùng với nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn về con đường cách mạng Việt Nam, vấn đề độc lập dân tộc và chủ


-6-

nghĩa xã hội đã có một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng. Giữ
vững độc lập dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bảo vệ chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, cảnh giác
chống mọi âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời là q trình phát huy ý chí tự lực tự cường,

phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế độc lập, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng đất nước theo mục tiêu đã lựa chọn.
Gắn độc lập dân tộc với những vấn đề tồn cầu, với q trình đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát
triển”.
Trong giai đoạn cách mạng mới, chủ nghĩa xã hội cần được nhận thức
và điều chỉnh để phù hợp với xu thế của thời đại. Chủ nghĩa xã hội vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Từng bước đưa nước ta thực hiện
mục tiêu chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là việc xác định ngày càng rõ
hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện ở sự lựa chọn
các bước đi, chặng đường, mơ hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiến
nước ta, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Những thành tựu bước đầu có ý nghĩa lịch sử của 25 năm tiến hành
cơng cuộc đổi mới chính là thành quả của quá trình Đảng ta tiếp tục kiên
định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Nghị quyết Đại hội X
của Đảng đã nhấn mạnh bài học lớn đầu tiên trong 25 năm đổi mới là: “Trong
quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.


-7-

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quy luật của cách mạng Việt
Nam và của thời đại. Độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội chính là
tiền đề cho một nền hịa bình, độc lập và phát triển bền vững vì những giá trị
nhân văn cho con người. Đó là quy luật của cách mạng Việt Nam và của nhân
loại trên hành trình đi tới một xã hội văn minh.

Thực tế lịch sử của nhân loại đã khẳng định, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đảm bảo cho độc lập dân tộc thật sự bền vững và mới có đầy đủ các điều
kiện đảm bảo tính chất triệt để cho độc lập dân tộc. Đó chính là sự thống nhất
biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong thời kỳ
mới, Đảng ta xác định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tiếp tục là kim chỉ
nam cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Những thành quả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công
cuộc đổi mới đã khẳng định giá trị của sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên đất nước ta trong những năm tháng xuyên qua hai thế kỷ.
2.2. Đảng phải liên hệ mật thiết với dân, lấy dân làm "gốc"
"Chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân" - bài học lịch sử đó
mang tính phổ qt, khơng phải chỉ của riêng dân tộc ta. Trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhân dân không chỉ là quần chúng cách
mạng, lực lượng thực hiện các nhiệm vụ chính trị để làm nên lịch sử, hơn
thế, nhân dân chính là mục đích phát triển của chế độ. Nói cách khác, mục
đích cuối cùng, quyết định của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm
phục vụ cho sự phát triển toàn diện của nhân dân trong cộng đồng dân tộc
- của con người trong xã hội. Vì thế, sự liên hệ giữa Đảng với dân là một
trong những điều kiện quyết định sự tồn tại và vai trị chính trị thực tế của
Đảng trong xã hội.


-8-

Đảng liên hệ mật thiết với dân, lấy dân làm gốc thể hiện ở những
bình diện, cấp độ khác nhau như: cán bộ, đảng viên sống gần gũi, chia sẻ
với dân; Đảng thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân; các đường lối, chủ
trương của Đảng bảo vệ, phát triển những lợi ích tồn diện, hợp lý của
dân; dân tin tưởng, tự giác tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị do

Đảng đề ra; dân trở thành hệ thống giám sát, bảo vệ Đảng, phát hiện, cảnh
báo và lên án những biểu hiện sai trái trong bộ máy Đảng, Nhà nước;
Đảng phải trở thành người đại diện cho quyền lợi, quyền lực của giai cấp
và dân tộc. Đó cũng chính là những điều kiện rất quan trọng bảo đảm sức
mạnh cũng như khả năng của Đảng trong việc đưa ra và thực hiện thắng
lợi những nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự bền vững
của chế độ.
Trong những biến cố ở Liên Xô và Đông Âu trước đây có thể thấy
một hiện tượng rất đáng suy nghĩ là người dân quay lưng lại với Đảng,
không quan tâm hoặc là dửng dưng trước những biến cố dẫn đến sự sụp
đổ của chế độ mà chính cha ơng họ đã dựng nên, chính bản thân họ đã
đóng góp cơng sức để xây dựng. Thậm chí, một bộ phận công nhân đã
trực tiếp tham gia vào những cuộc đình cơng, biểu tình, gây nên tình trạng
mất trật tự, rối loạn trong xã hội, chống lại Đảng và chính quyền Xơ-viết.
Nếu đem so sánh tình trạng này với khơng khí cách mạng sơi sục của các
tầng lớp cơng - nông - binh trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, trong
cuộc nội chiến và trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại có thể thấy một sự
tương phản tuyệt đối. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến sự tương phản tuyệt
đối này?
Có thể tìm thấy ngun nhân sự tương phản này trong lời cảnh báo
của V.I. Lê-nin về nguy cơ quan liêu hóa xuất hiện trong q trình Đảng


-9-

cầm quyền, nguy cơ về sự xa rời nhân dân của Đảng. Người đã yêu cầu
rất nghiêm khắc: "Cần phải dùng nhiều hình thức và phương pháp kiểm
tra từ dưới lên... để nhổ đi nhổ lại cho sạch hết những cỏ rác bệnh quan
liêu". Rất tiếc là Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng khác ở Đông Âu đã
không quan tâm đúng mức đến những lời cảnh báo này. Hệ thống tổ chức

của các Đảng đã dần dần trở nên hành chính hóa, hoạt động như một bộ
máy quan liêu, ngày càng xa rời nhân dân. Thậm chí, ngay cả khi có dấu
hiệu cụ thể về một bộ phận trong nhân dân, nhất là cơng nhân đã có
những phản ứng tiêu cực đối với Đảng, với chế độ, họ cũng khơng có
những chính sách, biện pháp cần thiết để cứu vãn tình hình. Có thể nói
rằng, căn bệnh quan liêu, xa rời nhân dân đã làm cho Đảng đánh mất chỗ
đứng trong nhân dân, cũng có nghĩa là đánh mất cơ sở quan trọng nhất
cho sự tồn tại và vai trị chính trị của mình trong xã hội.
Trong lịch sử 80 năm xây dựng, phát triển và lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, cả từ lý luận đến hành động thực tế, Đảng ta luôn luôn thấm
nhuần và tuân theo nguyên tắc liên hệ mật thiết với dân, "lấy dân làm
gốc". Đối với cá nhân lãnh tụ, Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng rằng: "Tơi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Đối với đảng viên, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: "Đảng viên nào khơng được dân tin, dân phục, dân yêu thì
chưa xứng đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam".
Đối với Đảng, Người chỉ ra một cách rõ ràng rằng: "Ngoài lợi ích của
nhân dân, Đảng khơng có lợi ích nào khác". Đối với Nhà nước, Đảng ta
khẳng định về mặt lý luận và đề ra các chủ trương, chính sách thực tế
nhằm xây dựng: "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân". Và xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta lãnh


-10-

đạo nhân dân xây dựng là "xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ". Tất cả những điều ấy đều là hợp lý,
đúng đắn, có sự bảo đảm từ thực chất khoa học của hệ thống lý luận, từ
tơn chỉ, mục đích đến những chủ trương chính sách cụ thể, từ cơ chế hoạt

động, những hành động thực tế, và quan trọng nhất là từ những thành quả
to lớn mọi mặt, từ những giá trị tinh thần, văn hóa, tri thức đến những lợi
ích vật chất mà Đảng, Nhà nước đã đem lại cho giai cấp, cho nhân dân, và
cho dân tộc.
Ngày nay, với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của 25 năm
thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã có thế và lực mới, đang đứng
trước những thời cơ, thuận lợi lớn cho sự phát triển. Tuy nhiên, những
thách thức, khó khăn cũng khơng nhỏ, trong đó những nguy cơ đe dọa ảnh
hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, sự ổn định, việc làm,
thu nhập và những giá trị tinh thần, vật chất khác của các tầng lớp nhân
dân. Đó là sự xuất hiện của những vụ phá sản, của nạn thất nghiệp, sự
phân hóa giàu nghèo tăng lên, những tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, sự
xâm nhập của những giá trị văn hóa tiêu cực…Mặt khác, sự sa sút về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên;
hiện tượng tham nhũng, lãng phí lan tràn, chưa thể khắc phục triệt để; sự
hạn chế về trình độ chun mơn, về nhận thức, thái độ của khơng ít cán bộ
trong triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước, trong giao tiếp, xử lý các công việc liên quan đến người dân đang
tác động tiêu cực đến uy tín của Đảng, chính quyền, đến sự ổn định của xã
hội. Tình hình ấy địi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải dự báo kịp thời,
hoạch định và tổ chức thực hiện được những chủ trương, chính sách hợp
lý, tích cực để giải quyết có hiệu quả. Mặt khác, Đảng cũng cần phải
nghiên cứu, tổng kết, xây dựng những thiết chế, cơ chế hoạt động thích


-11-

ứng, nhằm bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với dân, giữ gìn sự
đồn kết trong nội bộ nhân dân, động viên được nguồn lực to lớn trong
nhân dân để giải quyết các nhiệm vụ xây dựng phát triển đất nước.

2.3. Đảng phải xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trung
thành với lý tưởng cách mạng của Đảng và của dân tộc, có năng lực công
tác và gương mẫu trước nhân dân
Một đảng muốn mạnh khơng thể khơng có một đội ngũ cán bộ, đảng
viên mạnh, một đội ngũ đảng viên tự giác phấn đấu vì lý tưởng của Đảng,
ý thức đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước Đảng. Một khi trở
thành tự giác, ý thức đầy đủ về lý tưởng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình, các đảng viên hoạt động trong toàn bộ bộ máy của Đảng, dù ở bất
kỳ vị trí nào, sẽ trở thành những lực tác động đồng hướng, tạo nên sức
mạnh tổng thành của Đảng. Đó cũng là cơ sở thực tế quyết định khả năng
đoàn kết, thống nhất trong nội bộ đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: "Đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh". Đồng chí Lê Duẩn cũng đã chỉ
ra rằng: sau khi đã có đường lối, chính sách đúng, vấn đề cịn lại là cán
bộ. Tất nhiên, nói cho cùng thì cũng chính cán bộ là người đề ra đường
lối, chính sách ở phạm vi vĩ mô, cũng như những quyết định, giải pháp để
cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những đường lối, chính sách đó ở phạm vi
các địa phương và các tế bào kinh tế của xã hội.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản,
nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, là một cơng việc khó khăn, cơng
phu và phức tạp. Nó bao gồm nhiều khâu, từ đào tạo cơ bản, cơ sở từ
trong các cấp học phổ thông, các trường đào tạo chuyên nghiệp; bồi
dưỡng lý luận, chính trị, lý tưởng cách mạng; rèn luyện, thử thách trong
thực tế lao động, sản xuất và các hoạt động cơng tác chính trị, xã hội; quy


-12-

hoạch, đánh giá, sử dụng cán bộ vào các vị trí cơng tác cụ thể... Trong các
điều kiện lịch sử khác nhau, phải có những phương pháp, hình thức tương
ứng, phù hợp để tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ

cán bộ đảng viên. Trong điều kiện chiến tranh hoặc khi Đảng chưa nắm
chính quyền, đảng viên vào Đảng là do sự giác ngộ cách mạng, tự giác
tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
thực hiện lý tưởng xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Khơng có hoặc có
rất ít sự chi phối của những lợi ích trong động cơ vào Đảng. Có nhiều,
thậm chí rất nhiều điều kiện, hồn cảnh, tình huống khó khăn, khắc nghiệt
để thử thách sự trong sáng, trung thành, kiên định cũng như phẩm giá đạo
đức tốt đẹp của cán bộ, đảng viên.
Trong điều kiện hịa bình xây dựng, khi Đảng nắm giữ vai trị lãnh
đạo xã hội, ln có những điều kiện, hồn cảnh có tính hai mặt, vừa bảo
đảm cho vai trị chính trị của Đảng, vừa có thể nảy sinh những động cơ vụ
lợi, không trong sáng. Mặt khác, trong cơ chế vận hành chung của xã hội,
chế độ đãi ngộ, phân phối lợi ích trước hết là thể hiện sự đánh giá về lao
động của mỗi người, đồng thời cũng là thể hiện tính chất cơng bằng của
chế độ xã hội với nguyên tắc "hưởng theo lao động". Như vậy, bất cứ hoạt
động lao động nào của đảng viên hay cơng dân ngồi đảng đều có quyền
được đãi ngộ xứng đáng. Nhưng cơ chế phân phối không phải lúc nào cũng
chặt chẽ, công bằng và hợp lý. Những người nắm quyền lãnh đạo lại có
quyền, trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế, chế độ phân
phối. Đó cũng chính là mơi trường thuận lợi cho những đảng viên không
trong sáng, lợi dụng những điều kiện thuận lợi, nhất là những đặc quyền có
được do vị trí công tác mà Đảng phân công để thu lợi không chính đáng.


-13-

Hơn nữa, môi trường rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong
điều kiện hịa bình xây dựng hiện nay đã khác hẳn so với thời chiến tranh
cách mạng. Không có những hồn cảnh khó khăn đặc biệt, những tình
huống khắc nghiệt "một mất, một còn" để người cán bộ, đảng viên bộc lộ

trực tiếp, rõ ràng về phẩm chất đạo đức, thái độ chính trị, tinh thần kiên
định cách mạng cũng như năng lực giải quyết các nhiệm vụ cơng tác thực
tế của mình. Tất cả những phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên
trong thời bình chỉ có thể được đánh giá thơng qua q trình lao động,
cơng tác, thể hiện ở chất lượng, hiệu quả hồn thành những nhiệm vụ
chuyên môn, ở mối quan hệ của cán bộ với nhân dân, ở những biểu hiện
về trách nhiệm của người cán bộ đối với Đảng, với đất nước và chế độ.
Tuy nhiên, những biểu hiện như thế không phải khi nào cũng rõ ràng, cụ
thể và sự hạn định về thời gian nhiều khi không cho phép đưa ra những
đánh giá chính xác. Chưa kể cịn có những yếu tố, mối quan hệ phức tạp,
đan xen, có thể dẫn tới sự biểu hiện không thực chất hoặc sự nhìn nhận
những biểu hiện đó khơng thật khách quan.
Trong sự tan rã của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu, không thể bỏ qua một nguyên nhân hàng đầu là công tác cán bộ đã
không được quan tâm đầy đủ, đúng mức, khơng có những chính sách nhất
qn, cơ chế, biện pháp hợp lý, có hiệu quả để xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất là đội ngũ những người lãnh đạo cao cấp - bộ phận cán bộ
có vai trị quan trọng trong việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà
nước. Chính vì thế, việc chọn lọc, sử dụng cán bộ đã có những khâu,
những việc sơ hở, khơng chặt chẽ, để một số kẻ cơ hội chính trị lọt vào
hàng ngũ, thậm chí nắm giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng. Sinh hoạt
trong nội bộ Đảng lại vận động theo hướng quan liêu, hành chính hóa,
thiếu tính chiến đấu làm cho Đảng khơng có khả năng loại bỏ những phần


-14-

tử cơ hội, kể cả những kẻ đã phản bội lý tưởng, ra khỏi hàng ngũ của
Đảng. Trong điều kiện ấy, sức mạnh của Đảng suy giảm, vai trị chính trị
của Đảng bị hạ thấp. Đảng khơng cịn đủ sự tỉnh táo cũng như khả năng

thực tế để đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn về kinh tế - xã
hội. Trong thực tế, Đảng cũng đánh mất cả vai trị lãnh đạo đối với những
lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó có
báo chí, để cho những kẻ cơ hội, bộ phận phản bội nắm lấy một số cơ
quan báo chí, đưa thơng tin kích động, gây nhiễu loạn dư luận xã hội, dẫn
đến khủng hoảng lòng tin của nhân dân.
Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới với sự hội
nhập toàn diện vào nền kinh tế quốc tế, sự mở rộng hợp tác ở tất cả các
lĩnh vực với các nước, các khu vực trên thế giới. Mơi trường văn hóa và
các điều kiện kinh tế - xã hội trong nước đang có những biến đổi sâu sắc.
Tình hình đó địi hỏi Đảng ta phải sớm có những đường lối, chủ trương,
chính sách mới, tồn diện, hợp lý về công tác cán bộ trên tất cả các bình
diện của nó, từ quy hoạch, đào tạo cơ bản, bồi dưỡng thường xuyên, đánh
giá, chọn lọc, sử dụng cho đến chế độ đãi ngộ, chế độ kiểm tra, giám sát,
kỷ luật, đưa ra khỏi Đảng những người không đủ phẩm chất, quá yếu kém
về năng lực chuyên môn... Về nhận thức, phải coi công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, đảng viên là vấn đề sống còn, quyết định đối với sự tồn tại
và phát triển của đất nước, của chế độ. Cần phải đặt ra và quan tâm giải
quyết vấn đề quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trên mọi
bình diện trong tổng thành chiến lược, sách lược xây dựng, phát triển của
đất nước, từ các khâu chăm sóc trẻ em, xây dựng gia đình, giáo dục phổ
thơng, tổ chức, rèn luyện thanh niên, thiếu niên, giáo dục đại học và
chuyên nghiệp, giáo dục, rèn luyện con người trong các tổ chức chính trị xã hội, đến môi trường xã hội, cơ chế giám sát của nhân dân đối với cán


-15-

bộ, đảng viên, các cơ chế, tiêu chí trong đánh giá, lựa chọn, sử dụng, bồi
dưỡng đối với cán bộ, đảng viên... Đặc biệt, Đảng cần quan tâm đến việc
chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho việc chuyển giao thế hệ lãnh đạo, quản lý đất

nước, bảo đảm sự tự giác cách mạng, quan điểm chính trị và năng lực
cơng tác cho đội ngũ những cán bộ trẻ, những người sinh ra và lớn lên
trong điều kiện hịa bình xây dựng.
2.4. Thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại
Trong suốt 80 năm lãnh đạo cách mạng, lúc thuận lợi cũng như lúc
khó khăn, hoạn nạn, Đảng ta ln kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp và dân
tộc, giữa dân tộc và quốc tế. Đảng ta luôn coi sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta là một bộ phận của phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân tiến bộ trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong tồn bộ hoạt động của mình, ở mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn
coi trọng việc mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ đồng tình, ủng hộ, giúp
đỡ của các lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới. Ngày nay trong điều
kiện mới, nhất là trong điều kiện phát triển nhanh chóng của cuộc cách
mạng khoa học – cơng nghệ trên thế giới, tồn cầu hố và hội nhập kinh tế
quốc tế, Đảng ta chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, phấn đấu vì một nền hồ bình,
ổn định, hợp tác và phát triển. Đường lối đối ngoại tích cực và chủ động đó
đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước ta đồng thời góp


-16-

phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ hồ bình và sự phát triển của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới.
Đó cũng là thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng,

đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đi đôi với thường xuyên
chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng để Đảng mãi mãi xứng đáng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam
Suốt 80 năm qua, Đảng ta luôn luôn giữ vững vai trị lãnh đạo cách
mạng Việt Nam chính vì Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung
thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân và của dân tộc, luôn luôn xứng
đáng là đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc, giữ vững bản chất cách
mạng và khoa học, không ngừng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo và giải
quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Đảng ta có vinh dự và niềm tự hào to lớn là được Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đảng ta lại trưởng thành và phát
triển trong thực tiễn đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của dân tộc, vượt qua
bao thử thách, hiểm nguy suốt 80 năm qua, đưa cách mạng Việt Nam giành
hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bất cứ hồn cảnh nào, Đảng ta ln luôn nắm vững những
nguyên lý, quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, căn cứ vào thực tiễn cách mạng trong mỗi lúc để đề
ra đường lối đúng đắn và sáng tạo, chỉ rõ phương thức hành động thích


-17-

hợp, tập hợp và tổ chức, dộng viên toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng
giành thắng lợi.
Đường lối đúng đắn cộng với đội ngũ cán bộ, đảng viên dày dạn kinh
nghiệm và trung kiên, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, có năng lực lãnh
đạo, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc và được cả dân tộc thừa nhận,
tin tưởng, đó là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

trong suốt 80 năm qua.
Để làm cho Đảng thật sự là ngọn cờ lãnh đạo duy nhất của cách
mạng Việt Nam, ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, coi đó là nhiệm vụ then chốt của cách mạng.
Đảng ta không ngừng chăm lo việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm
nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, tăng cường sức chiến đấu của
từng đảng viên và tổ chức đảng, giữ vững mối liên hệ mật thiết với nhân
dân, xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, kinh tế nước ta vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế, lại bị các thế lực thù địch ln tìm mọi cách để thực hiện âm mưu
“diến biến hồ bình” đối với nước ta, tìm mọi cách để làm suy yếu sự lãnh
đạo của Đảng, thì vấn đề mấu chốt, sống cịn của chế độ và của Đảng là
Đảng phải không ngừng xây dựng và chỉnh đốn, tự đổi mới, vươn lên về
mọi mặt, để đủ sức đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới.
Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo chính quyền, làm cho chính
quyền phát huy bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân, xây dựng
bộ máy thật sự trong sạch vững mạnh, chống mọi thói hư, tật xấu, chống


-18-

tham ơ, lãng phí, quan liêu, nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của Nhà
nước. Từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính
quyền các cấp cũng như tồn bộ hệ thống chính trị, làm cho tồn bộ hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề đồn
kết trong Đảng, coi đó là truyền thống cực kỳ quý báu và là điều kiện quan

trọng nhất cho sự phát triển và vững mạnh của Đảng. Để tăng cường đoàn
kết trong Đảng, một mặt Đảng ta quan tâm mở rộng dân chủ trong Đảng,
đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, mặt khác Đảng
ta chăm lo cơng tác tự phê bình và phê bình, coi đó là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng.
Cũng chính nhờ thực hiện tốt nguyên tắc xây dựng Đảng mà trước
những bước ngoặt của cách mạng, Đảng ta đã kịp thời tổng kết thực tiễn,
đánh giá đúng tình hình, chỉ ra những mặt mạnh cần phát huy, mặt yếu cần
khắc phục, rút ra những bài học từ cả thành cơng và thất bại, từ đó hồn
thiện, bổ sung và phát triển đường lối, chủ trương, chính sách, chấn chỉnh
công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh.
Nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương Đảng đã được ban
hành đều xoay quanh vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên, tăng cường củng cố hệ thống chính trị các cấp, đặc
biệt là ở cơ sở, mở rộng dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở...Những văn kiện quan trọng này thể hiện Đảng ta hết sức coi trọng
công tác xây dựng Đảng, coi đó là nhiệm vụ then chốt, là cơ sở cực kỳ
quan trọng bảo đảm thắng lợi của cách mạngViệt Nam.


-19-

2.6. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang
tầm với nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thể hiện ở đường lối
chính trị đúng đắn và bản lĩnh chính trị của Đảng trong q trình lãnh đạo
cách mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua trong
hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, đã trở thành sợi
chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Cương

lĩnh cách mạng ấy là đường lối chính trị phản ánh đúng quy luật khách
quan, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đáp ứng đúng
yêu cầu của dân tộc, vạch ra được mục tiêu, phương hướng cơ bản của
cách mạng. Trên cơ sở đó, Đảng tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên
tồn thể nhân dân, biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng
của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy từng bước được
phát triển, cụ thể hóa đáp ứng được yêu cầu cách mạng trong từng giai
đoạn lịch sử, đưa dân tộc Việt Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ và vững bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng
cũng như của từng cán bộ, đảng viên, đặc biệt trước những bước ngoặt
khó khăn của cách mạng, kiên trì thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Không bi quan, dao động trước những khó khăn thách
thức, giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng, con đường xã hội chủ
nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng. Bản lĩnh chính trị cũng thể hiện ở sự dũng
cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, và quyết tâm sửa chữa vì lợi ích của
nhân dân. Bản lĩnh chính trị cịn là tinh thần đấu tranh để bảo vệ lý luận
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác bỏ những quan


-20-

điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Bản lĩnh
chính trị của Đảng cịn thể hiện ở quá trình lãnh đạo và tổ chức thực hiện
đường lối, nhất là ở những thời điểm khó khăn, thách thức của cách mạng.
Là một đảng chiến đấu cách mạng, Đảng khơng chỉ có đường lối
chính trị đúng, mà cịn thể hiện ở sức mạnh tổ chức của Đảng. Do vậy,
xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh về mọi mặt từ trung ương đến
cơ sở, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, củng cố tổ

chức, tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng là những vấn đề có ý nghĩa quyết định để củng cố, tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng.
Một nhân tố đảm bảo năng lực lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam cịn thể hiện ở chỗ trong q trình lãnh đạo, Đảng đã biết kế
thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và của chính bản
thân Đảng. Đó là truyền thống đồn kết thống nhất, truyền thống quan hệ
mật thiết Đảng và nhân dân, truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất,
sẵn sàng chịu đựng hy sinh, gian khổ của nhiều thế hệ những đảng viên
cộng sản, truyền thống độc lập tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường trong
hoạch định đường lối nhằm phát huy nội lực đất nước, nắm vững thời cơ,
đẩy lùi nguy cơ, khắc phục và vượt qua mọi khó khăn thách thức. Cùng
với truyền thống độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, Đảng ta còn nêu cao
chủ nghĩa quốc tế trong sách, thủy chung với bạn bè quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sách mạnh thời đại.


-21-

C- KẾT LUẬN

Với những thành tựu mà cách mạng nước ta đã đạt được trong suốt
80 năm qua, với truyền thống đầy tự hào và những kinh nghiệm mà chúng
ta đã tích luỹ được trong suốt q trình đấu tranh cách mạng, với bản lĩnh
và trí tuệ Việt Nam, với sức mạnh của cả dân tộc được đoàn kết thống nhất
một lòng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, được sự đồng tình ủng hộ
của bạn bè quốc tế.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu, là những bài học lớn của Đảng. Thế giới đã trải qua những biến
đổi vơ cùng nhanh chóng và phức tạp, những bài học xương máu, lịch sử

từ những biến cố đó vẫn cịn ngun giá trị. Thậm chí thực tế ngày nay
càng địi hỏi chúng ta khơng chỉ khơng qn đi mà cịn phải tiếp tục
nghiên cứu, phân tích những bài học đó nhằm tìm ra những phương pháp,
cách thức để khắc phục sai lầm, phát huy những nhân tố tích cực, góp
phần giải quyết có hiệu quả những vấn đề thực tế đang đặt ra, chúng ta
hồn tồn có cơ sở vững chắc để tin tưởng rằng, đất nước ta sẽ tiếp tục
phát triển nhanh, mạnh, bền vững trong thế kỷ XXI, vươn tới mục tiêu


-22-

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Văn kiện Đảng toàn tập.
3. Website Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển.



×