Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Bai thu hoach VAI TRÒ của NHÀ nước TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.35 KB, 26 trang )

1

MỞ ĐẦU
Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đường lối
đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, là một bước ngoặt cách
mạng trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đại hội VII (1991) và VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục đường lối đó và tiến những bước mới trong nhận thức về chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua khẳng
định: "Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" (1).
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Sản xuất hàng hóa
khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng" (2). Đến Đại hội IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc đưa ra khái niệm "Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa"(3) đã đánh dấu một bước phát triển mới trong tư duy
lý luận của Đảng. Nó thể hiện rõ ràng thái độ dứt khoát của Đảng trong việc
từ bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, trong việc chấp nhận kinh tế thị trường, trong
việc thừa nhận chủ nghĩa xã hội có thể dung hợp với kinh tế thị trường, có thể
sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói quan điểm này là kết quả của một quá trình đổi mới tư duy,
vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn, là quá trình tìm tịi, thử nghiệm, trăn trở,
đấu tranh tư tưởng - lý luận trong Đảng và ngoài xã hội. Thực tiễn đã khẳng
định và chứng minh đây là một bước đột phá có tính sáng tạo và cách mạng
trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
(1)

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr
11-12.


(
2) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 97.
(
3) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 77.


2

Trong các văn kiện Đại hội XI (2011) của Đảng (Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - bổ sung, phát triển 2011;
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng; Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội (2011- 2020) tiếp tục nhấn mạnh: Phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể khẳng định rằng: Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi phù hợp với giai
đoạn lịch sử mà đất nước hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Tuy nhiên, đây là một cơng việc mới mẻ, đầy khó khăn, phức tạp, vì
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, để bước đi đó thực sự vững chắc thì cần
phải có những lực lượng để điều tiết, định hướng, đó chính là sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường,
đặc biệt là vai trò quản lý của nhà nước.
Qua nghiên cứu môn học Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tụi lựa chọn đề tài:
"Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay" làm tiểu luận cuối khoỏ lớp Hoàn chỉnh cao cấp
lý luận Chớnh trị - Hành chớnh.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề sau:
- Lý luận chung của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

- Thực trạng vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay.
- Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


3


4

NỘI DUNG

I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
VAI Trề CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Các khái niệm cơ bản
- Kinh tế thị trường: Là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó các yếu tốt "đầu vào", "đầu ra" đều thông qua thị trường, các chủ thể
tham gia thị trường đều chịu tác động của các quy luật thị trường, thái độ ứng
xử của họ là tìm kiếm lợi nhuận cao nhất theo sự dẫn dắt của giá cả thị
trường.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Là kiểu tổ chức
kinh tế - xã hội vừa dựa trên những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa
trên nguyên tắc chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một
hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị

trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó
q trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường, được
thực hiện thông qua thị trường dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước Việt
Nam.
1.2. Những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.1. Những đặc trưng chung của mọi nền kinh tế thị trường


5

- Tồn tại các chủ thể độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Họ được tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
- Hình thành các loại thị trường: hàng hóa, dịch vụ và thị trường các
yếu tố sản xuất.
- Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thỏa thuận.
- Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị
trường phát triển.
- Lợi nhuận là động lực chi phối kinh tế thị trường
- Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có tính chất
chung của nền kinh tế, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của
kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Thị trường có vai trị quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế.
Giá cả do thị trường quyết định, Nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô để
giảm bớt những thất bại của thị trường.

Nhưng bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những
điều kiện lịch sử - xã hội của một nước nhất định nên nó bị chi phối bởi
những điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có
những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc
trưng sau đây:
Thứ nhất: Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở
hữu. Trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trị chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm
nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.


6

Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, thành phần kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác định thành phần kinh tế nhà nước giữ
vai trị chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường của các nước khác. Tính
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định
kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế.
Thứ hai: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập; phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực
vào sản xuất kinh doanh. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong
đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trị nịng cốt, đi đơi với chính sách
điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta khơng coi bình đẳng xã hội như
là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiện
mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với
tiến bộ và công bằng xã hội.
Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng
với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ

sản xuất quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, chính trị. Dưới
chủ nghĩa tư bản, việc phân phối tuân theo nguyên tắc giá trị; đối với người
lao động theo giá trị sức lao động. Như vậy thu nhập của người lao động chỉ
giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về
sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng. Phân phối theo lao
động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Thu nhập của người lao động
không chỉ giới hạn ở sức lao động mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ
thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều
thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập.
Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
kinh tế, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.


7

Thứ ba: Ở nước ta, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động
theo những quy luật kinh tế nội tại của nền kinh tế thị trường nói chung, thị
trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối nguồn lực kinh tế. Sự
quản lý nhằm hạn chế, nhằm khắc phục những thất bại của thị trường, thực
hiện mục tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.
Thứ tư: Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập
với kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế
giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế thế giới, nhưng vẫn giữ
được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ
kinh tế đối ngoại. Thực ra đây không phải là đặc trưng riêng của kinh tế thị
trường định hướng mà là xu hướng chung của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới
và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm

quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện
phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo
hướng đa phương hóa và đa dạng hóa. Các hình thức kinh tế đối ngoại hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm kỳ mức
sản xuất có hiệu quả.
1.3. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có hai đặc
điểm cơ bản:
Một là, đây là nền kinh tế thị trường mới bước đầu hình thành, cịn ở
trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ.
Hai là, kinh tế thị trường mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nó
khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nó do Đảng Cộng sản lãnh đạo
và Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý.


8

Điều cần nhấn mạnh là, vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu, bởi vì:
- Đây là một đặc điểm bản chất của thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được chi phối bởi bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khơng
có Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý thì khơng thể có kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa mà đó sẽ chỉ là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
- Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Chỉ có
sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính sách, pháp luật, bằng
các cơng cụ quản lý vĩ mơ (tài chính, tín dụng, kế hoạch, quy hoạch…) mới
hạn chế tính tự phát tư bản chủ nghĩa, đảm bảo được định hướng xã hội chủ
nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, thực hiện được sự kết hợp
giữa kế hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng

xã hội ngay trong mỗi bước phát triển.
- Kinh tế thị trường có hai mặt: mặt thuận lợi (tích cực) như thúc đẩy
tăng trưởng nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế… và mặt nghịch (tiêu
cực) như thúc đẩy phân hóa giàu - nghèo, khuyến khích lối sống thực dụng vị
kỷ, chạy theo đồng tiền, hạ thấp giá trị đạo đức… Mặt nghịch của kinh tế thị
trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là lực lượng quản lý xã hội. Có khả năng
nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan, chuyển hóa chúng
thành chính sách, pháp luật, kế hoạch… để tổ chức thực hiện, đưa vào cuộc
sống, nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân đông đảo nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thành tố cơ bản của hệ thống chính trị,
của kiến trúc thượng tầng chính trị. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước


9

chính là tăng cường sự tác động của chính trị xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế
thị trường để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa; ngược lại, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ buộc Nhà nước
phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phải cải cách hành chính cho
phù hợp với yêu cầu, quy luật của kinh tế thị trường.
1.4. Những chức năng quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay
Để thực hiện vai trò quản lý nhà nước về kinh tế, nhà nước phải thực
hiện các chức năng quản lý của mình.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm vụ tổng quát
mà nhà nước phải thực hiện để phát huy vai trị và hiệu lực của mình.
Văn kiện đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh các chức năng quản lý

nhà nước ta về kinh tế: "Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp
luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy
luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài
chính, chủ động, điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, khơng
phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai các quan hệ thị trường"(1).
Như vậy, Nhà nước có các chức năng cơ bản sau:
Một là, chức năng tạo lập môi trường và điều kiện cho hoạt động
kinh doanh.
Với chức năng này, bằng quyền lực và sức mạnh tổ chức của mình,
nhà nước bảo đảm một mơi trường thuận lợi, bình đẳng cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh, bao gồm các mơi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, tâm lý,
xã hội, kết cấu hạ tầng… là những điều kiện cần thiết để giới kinh doanh yên
tâm đầu tư vốn và kinh doanh thuận lợi, ổn định, phát đạt, góp phần phát triển
có hiệu quả kinh tế đất nước.
Với chức năng này, nhà nước có vai trò như một "bà đỡ" giúp cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời bảo đảm các điều kiện tự do,
(1)

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 141.


10

bình đẳng trong kinh doanh. Nói cách khác, nhà nước có chức năng tạo ra các
dịch vụ cơng về mơi trường chính trị, pháp lý, an ninh, thủ tục quản lý, điều
kiện kinh doanh, thơng tin, an tồn xã hội… phục vụ cho xã hội.
Trong cơ chế thị trường, muốn có một mơi trường sản xuất kinh doanh
ổn định, tiến bộ, cần phải có bàn tay của nhà nước từ việc ban hành và bảo
đảm thi hành pháp luật đến bảo đảm các điều kiện và nguyên tắc cơ bản như
quyền sở hữu, tự do kinh doanh, xử lý tranh chấp theo pháp luật, bảo đảm một

xã hội lành mạnh, có văn hóa…
Hai là, chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà kinh doanh
và các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh nhưng khơng thể nắm được hết
tình hình và xu hướng vận động của thị trường. Vì vậy, họ thường chạy theo thị
trường một cách bị động, dễ gây ra thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung
cho nền kinh tế. Hơn nữa, nhà nước còn phải định hướng nền kinh tế phát triển
theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Do
đó, nhà nước có chức năng định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà
kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động hướng đích theo các mục tiêu chung
của đất nước. Nhà nước định hướng và hướng dẫn bằng các công cụ như chiến
lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch, thơng tin và các nguồn lực của nhà nước.
Điều cần đáng chú ý ở đây là trong điều kiện chuyển đổi hiện nay của đất nước
ta, để thực hiện chức năng định hướng, hướng dẫn, nhà nước chủ yếu sử dụng
cách thức và phương pháp tác động gián tiếp thay vi tác động trực tiếp như trước
đây. Cách thức tác động gián tiếp mang tính chất mềm dẻo, uyển chuyển, vừa
bảo đảm tính tự chủ của các cơ sở kinh tế, vừa bảo đảm đạt mục tiêu chung.
Cách thức tác động gián tiếp cịn cho phép tơn trọng các quy luật của thị trường
và chỉ cần nguồn lực nhỏ vẫn có thể nhân lên gấp bội để đạt kết quả thực tế lớn.
Ba là, chức năng tổ chức


11

Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế,
đặc biệt trong thời kỳ đổi mới kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nhất là
giai đoạn chuyển đổi như hiện nay ở nước ta, nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp,
tổ chức lại các đơn vị kinh tế, trong đó quan trong và cấp thiết hơn cả là sắp
xếp, củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức lại các vùng kinh tế, các
khu công nghiệp, khu chế xuất. Đây là những công việc nhằm tạo nên cơ cấu

kinh tế hợp lý. Nhà nước cịn có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp
xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế từ Trung ương đến cơ sở, đổi
mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo lại, sắp xếp các cán bộ công chức
quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết lập mối quan hệ kinh tế với
các nước và các tổ chức quốc tế…
Bốn là, chức năng điều tiết
Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhà nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, vừa điều tiết,
chi phối thị trường hoạt động theo định hướng của nhà nước, đảm bảo cho
kinh tế phát triển ổn định, cơng bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, nhà nước sử
dụng hàng loạt biện pháp bao gồm các chính sách, các địn bẩy kinh tế, các
cơng cụ tài chính, thuế, tín dụng…
Năm là, chức năng kiểm tra, giám sát
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhằm thiết lập trật
tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng
vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của
nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã
hội. Ở nước ta trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường cịn sơ khai,
tình trạng rối loạn, tự phát, vô tổ chức và các hiện tượng tiêu cực cịn khá phổ
biến và có lúc rất trầm trọng càng cần phải đề cao chức năng kiểm tra, giám sát
của nhà nước.


12

1.5. Công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường nước ta hiện nay
Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với nền kinh tế thông qua
các công cụ như pháp luật, chính sách kế hoạch hóa, chính sách tài chính tiền

tệ, chính sách thu nhập - phân phối và chính sách xuất nhập khẩu.
* Hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, nó
tạo ra khn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt
động kinh tế xã hội, bao gồm những điều luật cơ bản về hoạt động của các
doanh nghiệp (Luật doanh nghiệp), về hợp đồng kinh tế, về bảo hộ lao động, bảo
hiểm xã hội, bảo vệ môi trường, vv… Các luật đó điều chỉnh hành vi của các
chủ thể kinh tế thuộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của Nhà
nước.
* Kế hoạch hóa:
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là kế hoạch kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản
lý của Nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của thị
trường là cơ sở phân phối các nguồn lực, cịn kế hoạch khắc phục tính tự phát
của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch.
Kế hoạch nói ở đây được hoạch định trên cơ sở thị trường, bao quát tất cả các
thành phần kinh tế, tất cả các quan hệ kinh tế, kể cả quan hệ thị trường.
* Lực lượng kinh tế của Nhà nước:
Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật,
kế hoạch hóa, mà cịn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần dần trở
thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và


13

nhờ đó Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế
theo mục tiêu kinh tế - xã hội do kế hoạch đề ra.

* Chính sách tài chính và tiền tệ:
Đối với nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý bằng các biện pháp
kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mơ của Nhà nước chủ
yếu là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ.
- Chính sách tài chính: Đặc biệt là ngân sách Nhà nước có ảnh hưởng
quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xó hội. Thơng qua
việc hình thành và sử dụng ngân sách Nhà nước, Nhà nước điều chỉnh phân
bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong
phân phối và thực hiện các chức năng của mình. Nội dung của ngân sách Nhà
nước bao gồm các khoản thu và các khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các
khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn khơng chỉ tạo nguồn thu cho
ngân sách, mà cịn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng.
- Chính sách tiền tệ: Là một cơng cụ quản lý vĩ mơ trọng yếu, vai trị
của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền tệ phải khống
chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách
tiền tệ, lãi suất là cơng cụ quan trọng, là phương tiện điều tiết cung, cầu tiền
tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kìm chế lạm phát thơng qua
hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
* Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại:
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Nhà nước sử
dụng nhiều cơng cụ, trong đó công cụ chủ yếu là thuế xuất - nhập khẩu, bảo
đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thơng qua các cơng cụ đó, Nhà
nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng
cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của nước ta; giữ vững được độc lập, chủ
quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.


14


II. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Thành tựu
Nhà nước kiểu mới của nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân ra
đời từ Cách mạng Tháng Tám (1945), đã quản lý kinh tế - xã hội qua các thời
kỳ bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã
phát huy vai trò, trách nhiệm trong quản lý kinh tế - xã hội, tiến hành đổi mới
quản lý kinh tế nhưng vẫn giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo tăng
trưởng kinh tế khá, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng; đã đổi mới cơ chế,
chính sách quản lý kinh tế và điều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp
có kết quả tốt. Nhà nước cũng đã đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước, đổi mới
hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước phù hợp với cơ chế mới… Do đó, đã góp phần to lớn
vào phát triển kinh tế - xã hội và thành công của công cuộc đổi mới.
Về các chức năng cụ thể, từ khi đổi mới, Nhà nước ta đã thực hiện
thành công các nội dung sau đây:
- Kịp thời ban hành và từng bước đưa vào cuộc sống một hệ thống luật
pháp khá đầy đủ theo hướng đổi mới, tạo khung khổ pháp lý cơ bản cho nền
kinh tế vận hành và phát triển với tốc độ cao, trong một thời gian dài.
- Huy động được nguồn lực tài chính khá lớn để chủ động đầu tư phát
triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cơ bản như giao thông, điện, nước, thông tin
liên lạc.
- Chuyển đổi cách thức định hướng, hướng dẫn từ kiểu trực tiếp trước
đây sang kiểu gián tiếp: Nhà nước chủ yếu quản lý vĩ mơ, tăng cường sử dụng các
chính sách kinh tế như: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền
lương…


15


- Trong quá trình phát triển, Nhà nước thực hiện điều tiết thành cơng,
đảm bảo các tiêu chí cơng bằng xã hội trong điều kiện trình độ phát triển kinh
tế còn thấp.
- Bước đầu làm quen và từng bước đổi mới các phương pháp kiểm tra,
kiểm soát phù hợp với điều kiện thị trường.
2.2. Hạn chế và yếu kém
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới, quản lý
nhà nước còn nhiều mặt hạn chế và yếu kém:
Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ
mới, chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực
của kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất
quán, thực hiện chưa nghiêm.
Thứ ba, quản lý các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch
hóa, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa
tốt và chậm đổi mới.
Thứ tư, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân
cơng và hiệp tác chưa rõ ràng, cịn nhiều vướng mắc; tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ cịn nghiêm trọng; cán bộ và cơng chức
nhà nước cịn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa
tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Thứ năm, cải cách hành chính tiến hành chậm, hiệu quả thấp.
2.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của tình hình trên đây có nhiều, nhưng chủ yếu là do:
- Nước ta đang trong quá trình đổi mới, cái cũ chưa xóa bỏ hết, cái
mới chưa ra đời đồng bộ, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do


16


dân, vì dân và quản lý nền kinh tế đang chuyển sang kinh tế thị trường là công
việc mới mẻ, phải vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm.
- Việc đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
trong điều kiện cụ thể của nước ta vừa thiếu cơ sở lý luận khoa học nên khi
thực hiện còn vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế, vừa thiếu trách
nhiệm và kiên quyết tự đổi mới, tự chỉnh đốn của các cơ quan quản lý nhà
nước để đảm bảo sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới và kiện tồn bộ máy quản
lý nhà nước cịn nhiều hạn chế.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta đang đứng trước những thời cơ
và thách thức lớn. Chúng ta đã có kinh nghiệm và kết quả của hai mươi lăm
năm đổi mới, đang đứng trước xu thế mở cửa, hội nhập và hợp tác quốc tế;
nhưng khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới; việc nhà nước phải tự đổi
mới, tự cải cách; hệ thống quản lý càng trở nên phức tạp hơn; sự cạnh tranh
quốc tế ngày càng gay gắt - tất cả các yếu tố đó địi hỏi quản lý nhà nước về
kinh tế phải tiếp tục đổi mới một cách toàn diện. Yêu cầu đặt ra là phải tiếp
tục đổi mới quản lý nhà nước để nhà nước thực sự là của dân, do dân, và vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước thực sự là công
bộc của dân, làm tốt công tác quản lý kinh tế - xã hội. Trong thời gian tới cần
phải chú ý các giải pháp chủ yếu sau:
3.1. Nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước với nhân
dân, giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước về kinh tế, giữa
quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp



17

- Cần khẳng định rằng, nhân dân là người chủ đích thực và cao nhất
của đất nước, nhà nước là đại diện của nhân dân để quản lý đất nước, do nhân
dân bầu ra và chịu sự giám sát của nhân dân. Do đó, nhà nước phải tơn trọng
quyền làm chủ của dân, phục vụ dân, còn nhân dân phải chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, chính là tự bảo vệ quyền làm chủ của mình. Trong nhận thức
và xử lý các mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân cần thấm nhuần lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "nếu khơng có nhân dân thì chính phủ khơng đủ
lực lượng. Nếu khơng có chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường"(1).
Để tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội IX của
Đảng đã chỉ rõ: "Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở
cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý kinh tế - xã hội, thảo luận
và quyết định những vấn đề quan trọng"(1).
- Cần nhận thức và phân biệt rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức
năng quản lý của nhà nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bằng đường lối, chính sách
và bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, còn nhà nước thể chế hóa đường
lối, chính sách của Đảng thành pháp luật, đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng và thực hiện thể chế mới về kinh tế, tiến hành quản lý, điều
hành nền kinh tế bằng tổng hợp các phương pháp quản lý, trong đó có cả
những biện pháp gián tiếp, khuyến khích sự tự nguyện, tự giác, có cả những
biện pháp bắt buộc, cưỡng chế. Thơng qua nhà nước, Đảng đưa đường lối
chính sách của Đảng vào cuộc sống. Như vậy Đảng phải tăng cường lãnh đạo
nhà nước nhưng không làm thay nhà nước mà tạo điều kiện để phát huy tính
chủ động và nâng cao hiệu quả quản lý điều hành của nhà nước.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước có chức năng và trách nhiệm
quản lý nhà nước về kinh tế đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Riêng với doanh nghiệp nhà nước, tùy theo sự phân cấp và ủy

(1)
(1)

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1995, tập 4, tr. 56.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 49.


18

quyền của Chính phủ mà các bộ, cơ quan của Chính phủ và Ủy ban nhân dân
địa phương có trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh
nghiệp trên một số chức năng nhất định.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế: "Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của
mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành
phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo"(2).
3.2. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của quản lý kinh tế, càng có ý
nghĩa quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước về kinh
tế, được thể hiện trên hai nội dung chủ yếu:
- Nâng cao hiệu lực quản lý thống nhất của nhà nước trung ương đi
đôi với phân cấp quản lý cho địa phương. Để thực hiện nguyên tắc này nhà
nước chỉ tập trung ở quản lý ở tầm chiến lược, tầm vĩ mô bao gồm việc hoạch
định chiến lược, chính sách quốc gia, chương trình, quy hoạch, kế hoạch, các
chính sách kinh tế lớn có tác dụng chung cho tồn bộ nền kinh tế. Cịn chính
quyền địa phương có trách nhiệm và thẩm quyền quyết định những vấn đề của
địa phương, đặc biệt là về kế hoạch đầu tư cho khu vực công cộng, thu chi

ngân sách, về tổ chức và nhân sự hành chính địa phương, xử lý các vụ việc
hành chính. Ngay trong chính quyền địa phương cũng phải có sự phân cấp
theo hướng cấp nào nắm thông tin đầy đủ hơn, giải quyết vấn đề sát thực tế
hơn thì giao quyền và nhiệm vụ cho cấp đó.
- Tăng cường phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Các
ngành trung ương có trách nhiệm quản lý theo ngành trên phạm vi cả nước
(2)

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 205.


19

bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Chính quyền địa phương có trách
nhiệm quản lý tồn bộ hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi lãnh thổ, kể cả
kiểm tra kiểm soát việc chấp hành pháp luật đối với các cơ quan và tổ chức
thuộc ngành cấp trên hoạt động trên địa bàn lãnh thổ, đảm bảo sự phối hợp có
hiệu quả và thơng suốt.
3.3. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước
Cải cách nền hành chính nhà nước là yêu cầu của nhiều quốc gia,
nhưng đối với nước ta hiện nay, đây là một nhiệm vụ hết sức cấp bách nhằm
khắc phục những hạn chế, yếu kém của quản lý nhà nước kiểu cũ, xây dựng
một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, có khả năng quản lý nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cịn rất mới mẻ
và rất phức tạp, sớm thích nghi và hòa nhập với thị trường thế giới. Cải cách
nền hành chính nhà nước là cuộc đấu tranh hết sức gay go để khắc phục cái
cũ, xây dựng cái mới bao gồm hàng loạt vấn đề, trong đó tập trung vào một số
việc chủ yếu sau đây:
- Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ thống luật pháp kinh tế, bao gồm hệ
thống luật và văn bản pháp quy nhằm tạo khn khổ pháp lý cho việc hình

thành đồng bộ các yếu tố thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Trong việc hoàn thành hệ thống pháp luật kinh tế, chúng ta đang
phải đối mặt với một khó khăn lớn: phải tạo lập một hệ thống pháp luật trong
đó cơ chế pháp lý của nó phải phản ánh sự đa dạng của chủ thể kinh doanh và
lợi ích kinh doanh nhưng lại phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
hoàn thiện pháp luật kinh tế phải được tiến hành từng bước vững chắc, có
chương trình, có trật tự ưu tiên. Thêm nữa, để giúp cho việc sửa đổi bổ sung,
kịp thời đáp ứng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, chúng ta phải hành
thường xuyên việc tổ chức kiểm nghiệm lại hiệu lực thi hành của các văn bản
pháp luật đã ban hành.


20

+ Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh là trung tâm.
Tuy nhiên, tự do kinh doanh khơng có nghĩa là vơ chính phủ, là vơ hạn. Quan
điểm cơ bản chi phối và quyết định việc xây dựng hệ thống pháp luật quản lý
kinh tế theo cơ chế mới là quan điểm quản lý kinh tế bằng pháp luật. Để hoàn
thiện nội dung này chúng ta cũng cần phải ưu tiên xây dựng khung pháp luật
kinh doanh của cơ chế thị trường.
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa đảm bảo phù hợp và định hướng
được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động. Kế
hoạch hóa là cơng cụ quản lý liên ngành của Nhà nước. Vai trò chủ yếu của kế
hoạch hóa ở tầm vĩ mơ là thúc đẩy hình thành cơ cấu hợp lí, vì vậy cần đảm
bảo tính thống nhất trong cân đối các nguồn lực, lựa chọn phương hướng phát
triển đúng đắn và động viên được sức lực, trí tuệ của tồn xã hội thực hiện
thắng lợi những mục tiêu đề ra.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội, trong đó
quan trọng nhất là chính sách tài chính - tiền tệ.
+ Đối với chính sách tài chính: chính sách tài chính đóng vai trị cực

kỳ quan trọng góp phần thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là
con người cụng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh đi đôi
với thực hiện công bằng xã hội. Muốn vậy, chính sách tài chính quốc gia
trong thời gian tới cần hướng vào những vấn đề sau:
. Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần: Trước hết,
cần cải tiến hệ thống thu - chi ngân sách Nhà nước trên nguyên tắc thu đúng,
thu đủ, chi tiết kiệm, hợp lý, ưu tiên cho đầu tư phát triển phục vụ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa; phân cấp hợp lý giữa ngân sách trung ương với ngân
sách địa phương, giữa các ngành, các cấp. Việc xây dựng và củng cố ngân
sách Nhà nước phải đảm bảo cho Nhà nước đủ sức mạnh để điều tiết kinh tế
và hướng nền kinh tế phát triển theo kế hoạch và định hướng đã định. Bên


21

cạnh ngân sách Nhà nước, phải đặc biệt coi trọng tài chính doanh nghiệp với
tư cách là nền tảng của nền tài chính quốc gia, là động lực của sự tăng trưởng
kinh tế. Phát triển tài chính doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc
biệt chú ý xây dựng và làm lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp nhà nước,
thực hiện chế độ tự chủ tài chính, thống nhất chế độ thu - chi và phân phối tài
chính trong các doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Từng bước hướng
các doanh nghiệp tư nhân thực hiện chế độ tài chính phù hợp với các mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và xã hội chủ nghĩa.
Chính sách tài chính cũng phải hướng tới bộ phận tài chính dân cư, coi đây là
một bộ phận cung cấp tài chính khơng nhỏ cho nền kinh tế. Từ đó hướng dẫn
họ thực hiện nguyên tắc chi tiêu tiết kiệm, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa
tiêu dùng và tích lũy.
. Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường tài chính: Thị
trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tài

chính là khâu trung gian gắn các khâu tài chính với nhau, có tác dụng thúc
đẩy q trình giao lưu các nguồn lực tài chính, tăng cường sự vận động của
giá trị trong nền kinh tế. Nhà nước cần hết sức tạo điều kiện để thị trường tài
chính hình thành và phát triển. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường,
từng bước thu hút vốn của xã hội và năng động hóa hoạt động đầu tư của nền
kinh tế.
. Xây dựng hệ thống thơng tin, phân tích, kiểm tra, kiểm sốt tài
chính: Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các hoạt động tài chính
trong xã hội ngày càng trở nên phức tạp. Tài chính là một lĩnh vực rất nhạy
cảm, nếu khơng có đối sách hợp lý và giải quyết kịp thời các các vấn đề về tài
chính nảy sinh thì hậu quả sẽ rất nặng nề, thậm chí có thể gây ra khủng hoảng
kinh tế. Thực tế cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 2008 trên thế giới đã
chứng tỏ điều đó. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống mạng lưới thơng tin tài chính
nhanh nhạy, tăng cường khả năng phân tích, kiểm tra, kiểm sốt tài chính là


22

nhu cầu khách quan và có tầm quan trọng đặc biệt của chính sách tài chính
quốc gia.
. Xây dựng và hồn thiện hệ thống luật pháp về tài chính: Với đà phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ tài
chính nước ta ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, vì vậy xây dựng cải tiến
và hoàn thiện luật pháp về tài chính là một nội dung lớn của chính sách tài
chính. Trong thời kỳ quá độ, luật pháp tài chính tập trung vào các mục tiêu:
Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, khai thác tối đa các
nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
cơng nghiệp hóa.
Phát triển dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các
nguồn tài chính bên ngồi.

Nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế tạo điều kiện cho
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
+ Đối với chính sách giá cả: Cơng bằng xã hội là mục tiêu mà chúng
ta muốn đạt tới, xã hội không thể không công bằng khi phân phối chưa công
bằng. Nhưng trong cơ chế thị trường vấn đề phân phối lại được thực hiện
trong thị trường nhân tố sản xuất bằng sự cạnh tranh giá cả của các yếu tố sản
xuất. Để thực hiện tốt công tác phân phối, Nhà nước cần phải có những chính
sách giá cả đối với từng loại thị trường.
. Trên thị trường cạnh tranh: Nhà nước quy định giá giới hạn đối với
các hàng hóa dịch vụ cạnh tranh như giá đất, giá thuê phòng khách sạn …
. Trên thị trường độc quyền: quy định giá chuẩn đối với hàng hóa dịch
vụ độc quyền như giá điện, cước thư, cước điện thoại trong nước..
Bên cạnh đó, chế độ tiền lương cũng cần phải thực hiện theo nguyên
tắc phân phối xã hội chủ nghĩa nghĩa là hưởng theo tài năng, khuyến khích
sáng tạo trong lao động, làm việc bằng thành quả lao động…


23

- Cải cách một bước thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực
hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và tình trạng quan liêu, phiền
hà đối với nhân dân và các doanh nghiệp.
- Sắp xếp lại và chấn chỉnh tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế, đảm bảo cho bộ máy tinh gọn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề
nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế
vĩ mơ, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp nhà
nước. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế phải gắn
liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước có phẩm chất,
trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh tế thị trường.
3.4. Đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng

Quan liêu và tham nhũng đi liền với nhau như hình với bóng, là căn
bệnh vốn có của nhà nước nói chung. Riêng ở nước ta đang trong thời kỳ đổi
mới, cơ chế quản lý tập trung, bao cấp chưa hồn tồn xóa bỏ, cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước ra đời chưa đồng bộ là điều kiện tốt cho tệ
quan liêu, tham nhũng phát triển, vừa cản trở sự phát triển của đất nước, vừa
làm mất uy tín và làm suy yếu hiệu lực quản lý của nhà nước. Do đó, đấu
tranh kiên quyết xóa bỏ tệ quan liêu, tham nhũng trở thành một nhiệm vụ cấp
bách trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta. Các văn kiện Đại hội IX, X, XI
của Đảng luôn nhấn mạnh phải kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, gắn
với chống lãng phí, quan liêu, bn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng
chức quyền để sách nhiễu, tham ơ, nhận hối lộ, làm giàu bất chính.
Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, phải vận dụng tổng hợp các
biện pháp hành chính - tổ chức, kinh tế và giáo dục, trước mắt cần chú trọng
các biện pháp sau:


24

- Phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong hoạt động kinh
tế và tham gia quản lý kinh tế, trong việc phát hiện, tố cáo, đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng.
- Bổ sung, hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lý kinh tế phù hợp
với quy luật của cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi thể
chế, quy định phải minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, công khai, đảm bảo cho mọi
người có thể nắm bắt, thực hiện, kiểm tra, kiểm sốt.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, tiếp tục sắp xếp lại bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế tinh gọn, xóa bỏ các thủ tục phiền hà, nâng cao trách
nhiệm phục vụ của các cơ quan công quyền và công chức nhà nước.
- Đề cao kỷ cương, phép nước, xử lý nghiêm các cán bộ, công chức
phạm tội tham nhũng, làm giàu bất chính, đồng thời nghiêm trị những người

vu cáo, làm mất danh dự và uy tín của cán bộ, công chức quản lý nhà nước.


25

KẾT LUẬN

Đổi mới kinh tế - xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của
thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Trong đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước đầu đề ra nội dung,
hình thức và bước đi cụ thể, thích hợp. Từng bước chuyển nền kinh tế tập
trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện đường lối đó, Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đóng vai trò hết sức quan trọng - quản lý và điều tiết nền kinh tế thị
trường, bảo đảm quá trình phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn từ 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta qua hơn hai mươi lăm năm
đã và đang đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng, song cũng đặt ra
nhiều vấn đề phức tạp - những thách thức, trở ngại lớn. Diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới - xu hướng khu vực hóa, quốc tế hóa và tồn cầu hóa
đời sống kinh tế thế giới… đem đến thời cơ, vận hội mới và thách thức lớn
cho đất nước ta.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định sự kiên định, quyết tâm của
toàn Đảng, toàn dân ta tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
để phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước lên chủ nghĩa xã hội.



×