1
MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triến đất nước hiện nay, văn hóa có
vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng. Văn hóa là nền tảng tinh thần, mục tiêu,
động lực phát triển của xã hội. Mọi quốc gia, dân tộc muốn khẳng định vị trí
của mình thì phải quan tâm, chú ý đến phát triển văn hóa.
Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là vấn đề thường
xuyên được đặt ra từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - lực lượng duy nhất
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Dưới nhiều hình thức khác nhau:
bàn về mối quan hệ giữa văn hóa nghệ thuật với chính trị, về tự do sáng tác
trong văn học nghệ thuật… người ta đã trực tiếp đề cập đến vai trò lãnh đạo
của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Kinh nghiệm cho thấy, cứ mỗi lần đất nước
có những bước ngoặt thì sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa lại được
đặt ra, và dĩ nhiên người ta không chỉ dừng lại ở lĩnh vực văn hóa, mà từ văn
hóa đi tới các vấn đề chính trị - xã hội. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh
vực văn hóa là một vấn đề tư tưởng, một vấn đề có ý nghĩa chính trị to lớn.
Đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới hiện nay - một sự nghiệp có ý nghĩa cách
mạng đã diễn ra trên toàn đất nước ta hơn hai mươi lăm năm qua là một sự
nghiệp của "ý Đảng lòng dân" hợp quy luật và đã đưa lại những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên những biến đổi sâu sắc trong mọi mặt đời sống
xã hội, tạo nên những tiền đề vững chắc để đất nước ta tiến hành sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước cơng nghiệp hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ
cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để
phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, bên cạnh những thuận lợi là những
khó khăn thách thức do mặt trái của nền kinh tế thị trường, q trình cơng
2
nghiệp hóa, hiện đại hóa đang hàng ngày hàng giờ tác động đến nước ta, đó là
sự phân hóa giàu - nghèo, lối sống thực dụng, cá nhân, sự thay đổi và rạn nứt
ngay trong gia đình, coi trọng giá trị đồng tiền, bất chấp thủ đoạn làm giàu,
xem nhẹ giá trị truyền thống, văn hóa tinh thần, làm lu mờ giá trị văn hóa,
truyền thống của dân tộc… Tất cả những khả năng đó đều có thể xảy ra, đặc
biệt là trong điều kiện kinh tế - xã hội của một nước nghèo, hậu quả chiến
tranh còn nặng nề như nước ta. Mặt khác, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa cũng gắn liền với q trình hội nhập quốc tế. Sự tác động từ bên ngoài
trên nhiều hướng, nhiều lĩnh vực trong đó có văn hóa, lối sống, trong đó có cả
"sự xâm lăng văn hóa " thực tế là những nguy cơ làm mai một, nhạt nhòa bản
sắc văn hóa và ở một góc độ, một chừng mực nào đó là bản lĩnh con người
Việt Nam.
Tất cả những khả năng trên đều là những nguy cơ, những thách thức
mới địi hỏi Đảng phải có sự đổi mới về mặt tư duy, lý luận trên lĩnh vực văn
hóa, đổi mới về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn
hóa. Đảng phải lãnh đạo tồn Đảng, toàn quân ta xây dựng, củng cố vững
chắc nền tảng tinh thần của xã hội để luôn làm chủ q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chủ động thực hiện hội nhập quốc tế, để văn hóa thực sự "vừa là
mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội". Đó là những lý do tơi
chọn vấn đề: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và phát triển
văn hóa trong giai đoạn hiện nay" làm bài thu hoạch học phần: Đường lối
phát triển văn hóa của Đảng, tại lớp Hồn chỉnh cao cấp lý luận Chính trị Hành chính năm học 2013.
3
NỘI DUNG
I. TÍNH TẤT YẾU SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRÊN LĨNH VỰC
VĂN HÓA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI VĂN HĨA CỦA ĐẢNG
1.1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là vấn đề lớn mà thế giới ngày càng quan tâm; nó gắn liền
với sự hình thành, phát triển của loài người, sự hưng vong của mỗi quốc gia,
dân tộc. Quan niệm về văn hóa đã được đề cập từ rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi vùng lãnh thổ hay quốc
gia khác nhau thì có quan niệm văn hóa khác nhau, song tất cả đều tựu chung
là khi nói đến văn hóa là đề cập đến những vấn đề về con người, nói tới việc
phát huy những năng lực, phẩm chất của con người, nhằm hoàn thiện nhân
cách con người, hồn thiện xã hội, hay nói theo quan niệm của triết học
phương Đơng văn hóa là sự khát vọng để vươn tới cái chân - thiện - mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại và dân tộc
ta. Khi nói về văn hóa, trong Mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật kí trong tù,
tháng 8/1943, Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: "Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh
tồn" [11].
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh mang tính hiện đại vì nó đã
khắc phục được tính phiến diện lâu nay của chúng ta về văn hóa:
4
- Văn hóa khơng chỉ là một hiện tượng tinh thần tách rời đời sống vật
chất mà bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
- Văn hóa cũng khơng chỉ thu hẹp trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật
mà văn hóa bao trùm lên tồn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Văn hóa cũng khơng phải chỉ thu hẹp trong lĩnh vực giáo dục, khơng
chỉ phản ánh trình độ học vấn của một người, mà là thước đo trình độ phát
triển của toàn xã hội: về sản xuất, khoa học - kỹ thuật, chính trị, tơn giáo, văn
học - nghệ thuật, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán...
Theo quan niệm của Tổ chức UNESCO: Văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các
giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của
mỗi dân tộc.
Đảng ta cho rằng: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [6]. Đây là
một quan điểm mới của Đảng ta, là kết quả của nhận thức và đổi mới tư duy
về văn hóa của Đảng, quan điểm của Đảng đã khắc phục những nhận thức
phiến diện, giản đơn, sơ lược về văn hóa, thể hiện ở một số điểm sau:
+ Với tư duy nhận thức văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, quan
điểm của Đảng đã khắc phục những nhận thức đồng nhất văn hóa với ngành
văn hóa thơng tin, là một ngành nghề trong xã hội.
+ Quan niệm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội cũng đã khắc
phục nhận thức đồng nhất văn hóa với học vấn, văn hóa rộng hơn học vấn, tri
thức, học vấn chỉ là một bộ phận của văn hóa, văn hóa là tổng hợp của nhiều
phương thức sinh hoạt, như lời Chủ tịch Hồ chí Minh đã nói về văn hóa ở trên.
5
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy văn hóa khơng
đồng nhất với văn nghệ, văn hóa rộng hơn văn học nghệ thuật, bởi thế khơng
thể đồng nhất văn hóa với hoạt động vui chơi giải trí, văn nghệ, văn hóa cịn
là tư tưởng, đạo đức, lối sống, thơng tin đại chúng…
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, văn hóa cũng
khơng đồng nhất với tư tưởng, văn hóa rộng hơn tư tưởng, văn hóa là nền
tảng tinh thần xã hội bao gồm nhiều khía cạnh như: truyền thống văn hóa, di
sản văn hóa dân tộc, ngơn ngữ, các tri thức khoa học, tri thức đạo đức, luật
pháp, tôn giáo… Nhưng trong các bộ phận hợp thành của văn hóa thì hệ tư
tưởng là giữ vị trí cốt lõi, tư tưởng chỉ rõ chiều hướng phát triển của đời sống
tinh thần của xã hội..
1.2. Tính tất yếu sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để và sâu sắc
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng
một phương thức sản xuất mới, ở đó, mọi nguyên nhân đẻ ra sự áp bức bóc lột
có tính giai cấp, để ra sự tha hóa và bần cùng hóa người lao động, bị khắc
phục và dần dần bị loại bỏ. Phương thức sản xuất mới tạo điều kiện để mỗi
con người phát huy tính chủ động sáng tạo của mình trong sản xuất, trong
hoạt động và trong đời sống. Với ý nghĩa đó, việc quan tâm thực sự và thường
xuyên đến con người, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi
người, phải trở thành động lực và mục tiêu của tồn bộ chính sách kinh tế - xã
hội của chúng ta.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể và cần
phải kế thừa các di sản tinh thần của dân tộc và của nhân loại, kế thừa cac
thành tựu và kỹ thuật về kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa, thậm chí có
thể tiếp thu những kinh nghiệm quản lý xã hội của các nước tư sản. Nhưng
không được phép quên rằng các phương thức sản xuất quá khứ để lại cho
chúng ta một di sản khá nặng nề trên lĩnh vực đời sống tinh thần. Đó là trạng
6
thái kém phát triển của số đông quần chúng, đầu óc nô lệ, tinh thần tha hóa.
Phải chăng đó là vì "những truyền thống xa xưa đang đè nặng trên vai của
chúng ta. Khắc phục các hiện tượng đó khơng thể một sớm một chiều, không
thể chỉ bằng các biện pháp kinh tế hay hành chính. Sự sụp đổ của chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng có thể giúp chúng ta rút ra
những bài học quan trọng về sự lãnh đạo lĩnh vực văn hóa. Phải chăng trong
mấy chục năm qua, văn hóa xã hội chủ nghĩa chưa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội, đặc biệt trong thế hệ trẻ.
Thực tiễn cách mạng nước ta hơn nửa thế kỷ qua cũng là một bài học
lớn mà chúng ta không được phép sao nhãng. Ngay từ khi mới thành lập,
trong Cương lĩnh hoạt động của mình Đảng đã khẳng định tiến hành một cuộc
cách mạng về tư tưởng và văn hóa ở Việt Nam nhằm xây dựng nền văn hóa
mới và con người mới. Năm 1943, nghĩa là hai năm trước khi Cách mạng
Tháng Tám bùng nổ, Đảng đã cho ra đời bản Đề cương văn hóa Việt Nam.
Trong phần đầu của Đề cương, Đảng ta vạch rõ: "Mặt trận văn hóa là một
trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt
động. Khơng phải chỉ làm cách mạng chính trị mà cịn phải làm cách mạng
văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng
được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả" [2]. Đề cương chỉ
rõ: "Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hồn thành được cuộc cải tạo xã
hội" [2]. Xuất phát từ tình hình xã hội nước ta lúc đó, với ba căn bệnh trầm
trọng của văn hóa cơng khai lúc bấy giờ:
- Những người cầm bút lấy việc Âu hóa, Nhật hóa làm vinh, khơng
đếm xỉa đến tính hoa dân tộc.
- Tính chất phản khoa học đầy rẫy trên sách báo, do chính sách ngu
dân của đế quốc đầu độc.
- Văn hóa chỉ phục vụ cho các giai cấp tầng trên, khơng mấy ai quan
tâm đến lợi ích văn hóa của đại chúng…
7
Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 đã đưa ra ba nguyên tắc vận
động cách mạng trên mặt trận văn hóa: "Dân tộc hóa " (chống mọi ảnh hưởng
nơ dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); "Đại
chúng hóa" (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại quần
chúng hoặc xa đơng đảo quần chúng); "Khoa học hóa" (chống lại tất cả những
gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Ba nguyên tắc đó gắn bó mật
thiết với nhau và tác động lẫn nhau, tạo nên một nền văn hóa mới với những
phẩm chất mới. Đúng như nhận xét sau này của đồng chí Trường Chinh: "Một
nền văn hóa dân tộc mà khơng có tính khoa học và nhân dân thì rất có thể vì
quyền lợi ích kỷ và hẹp hịi của dân tộc mình mà đi ngược lại với bước đường
tiến hóa của lịch sử, cố níu kéo cái cổ truyền đã lỗi thời của dân tộc mình mà
khơng đặc biệt chú ý đến những nguyện vọng tha thiết của công nông là số
đông người cần cù và yêu nước nhất trong dân tộc. Văn hoá có tính nhân dân
mà khơng có tính dân tộc và khoa học thì sẽ trở nên hẹp hịi, chỉ nhìn thấy lợi
ích cơng nơng mà khơng chú ý đến lợi ích chung của cả dân tộc, hoặc theo
đuôi quần chúng" [1].
Bao trùm lên ba nguyên tắc đó, bản Đề cương đã chỉ ra một nguyên
tắc cơ bản nhất - đó là sự lãnh đạp của Đảng Cộng sản.
Những tư tưởng của bản Đề cương đã góp phần tạo cơ sở lý luận cho
cuộc Cách mạng Tháng Tám, và đã chỉ đạo tiến trình xây dựng nền văn hóa
mới ở nước ta từ mấy thập kỷ qua.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành cơng, chính quyền dân chủ nhân
dân được thành lập, sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới với nội dung dân
tộc, khoa học và đại chúng được triển khai một cách sâu rộng trên mọi bình
diện: giáo dục, khoa học, nghệ thuật, lối sống, đạo đức, tư tưởng… Chủ tịch
Hồ Chí Minh, người khai sinh ra chế độ mới cũng là người khai sinh ra nền
văn hóa mới ở nước ta. Giữa mn trùng khó khăn của đất nước những ngày
đầu kháng chiến, Bác vẫn khẳng định: trước mắt dân tộc ta có ba thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Cả ba thứ giặc đều nguy hiểm như nhau.
8
Trong tư tưởng của Người, cuộc kháng chiến phải được tiến hành trên tất cả
mọi lĩnh vực. Câu nói nổi tiếng của Người: "Kháng chiến hóa văn hóa và văn
hóa hóa kháng chiến", "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em
là chiến sĩ trên mặt trận ấy", đã thể hiện một cách đầy đủ nhất mối quan hệ
hữu cơ giữa cách mạng và văn hóa. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai
của Đảng (1951), trong báo cáo chính trị, Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định:
"Xúc tiến cơng tác văn hóa để đào tạo con người mới cho công cuộc kháng
chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ
dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế
giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng" [12].
Như vậy là từ trong bản chất, nền văn hóa mới gắn bó chặt chẽ với chế
độ mới. Chế độ mới đòi hỏi một nền văn hóa mới. Sự ra đời và phát triển nền
văn hóa mới càng củng cố và thúc đẩy xã hội mới phát triển. Đó là phép biện
chúng của lịch sử, phép biện chứng giữa văn hóa và cách mạng. Phép biện
chứng đó khơng phải diễn ra một cách tự phát, vơ ý thức, mà trái lại, một cách
tự giác thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc
được giải phóng. Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đề ra phương hướng, nhiệm
vụ đưa miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiến hành đấu tranh
nhằm thống nhất đất nước. Trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, cùng với phát
triển cơng nghiệp, Đảng tiến hành cuộc cải tạo sâu rộng mọi lĩnh vực đời sống
xã hội làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm vị trí chủ đạo. Việc tiến hành
cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa đồng thời với việc cải tạo xã hội chủ nghĩa
là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ hoạt động văn hóa nhằm vào mục tiêu xây dựng con người mới - con
người xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải xây dựng con người xã hội
9
chủ nghĩa" [10]. Hướng tới mục tiêu đó, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa của
nước ta lúc này vừa giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa quan
tâm phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc.
Đường lối văn hóa văn nghệ được thơng qua tại Đại hội Đảng tồn
quốc lần thứ III tạo ra một bước phát triển mới trong đời sống tinh thần của
dân tộc. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật trong thời gian này đã hướng vào
việc cổ vũ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và xác lập các giá trị văn hóa mới. Nhiều nhân tố mới được
nảy sinh trong đời sống, được Đảng tổng kết thành đường lối chính sách để
giáo dục và đào tạo con người mới. Cùng với chủ nghĩa yêu nước truyền
thống là chủ nghĩa quốc tế.
Sự thống nhất giữa lòng yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp
và dân tộc, giữa cá nhân với cộng đồng, đã tạo nên nét dáng mới của con
người Việt Nam hiện đại, đó là bệ phóng thần kỳ để chúng ta lập nên chiến
cơng lớn trong những năm 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ XX.
Trong những năm gần đầy, trước sự biến động dữ dội của đời sống
kinh tế xã hội trong nước và trên thế giới, văn hóa Việt Nam lại đứng trước
những thách thức lớn. Mặt trái của kinh tế thị trường cùng mặt trái của xu thế
tồn cầu hóa tác động dữ dội và trực tiếp tới văn hóa dân tộc. Những câu hỏi
thường xuyên đến với nhiều người: Trong nền kinh tế thị trường còn chỗ
đứng cho văn hóa khơng? Nền văn hóa Việt Nam sẽ đi về đâu? Theo mơ hình
phương Đơng hay phương Tây? Chính trong thời điểm lịch sử đó, Đảng lại
giương cao ngọn cờ văn hóa. Sự nghiệp đổi mới của Đảng bắt đầu từ đổi mới
tư duy, đổi mới lý luận, nghĩa là từ một khâu cơ bản trong văn hóa. Đúng như
đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: Đổi mới là văn hóa, văn hóa là Đổi mới.
Càng tiến hành Đổi mới càng nhận thức rõ vai trị của văn hóa. Phép biện
chứng trước đây giữa văn hóa và cách mạng nay được thể hiện trong quan hệ
giữa văn hóa và Đổi mới. Cũng như trước đây, khi tiến hành hai cuộc kháng
10
chiến vĩ đại, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn văn
hóa với kháng chiến. Ngày nay, Đảng đã nhiều lần khẳng định: Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Quan tâm đến văn hóa thực chất là quan tâm đến con người, đến sự
giải phóng, phát triển và hồn thiện con người. Điều đó nằm trong bản chất
trong mục tiêu hoạt động của Đảng.
Cùng với việc khẳng định vị trí to lớn của văn hóa trong cơng cuộc
đổi mới, cơng lao của Đảng cịn là ở chỗ định hướng cho sự phát triển của văn
hóa trong giai đoạn hiện nay: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Đây là định hướng cực kỳ cần thiết khơng chỉ để văn hóa
Việt Nam vượt qua những biến động đầy thách thức trước mắt, mà cịn đối
với tương lai lâu dài của văn hóa dân tộc.
1.3. Đảng từng bước phát triển đường lối văn hóa
(từ 1986 đến nay)
Trong các kỳ Đại hội tồn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, Đảng
ta đã từng bước bổ sung phát triển đường lối văn hóa cho phù hợp với tình
hình, đặc điểm của mỗi giai đoạn lịch sử.
Đại hội VI của Đảng chủ trương đổi mới tư duy lý luận về văn hóa khi
xác định: "Mỗi hoạt động văn hóa nghệ thuật đều phải tính đến hiệu quả xã
hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ thẩm mỹ
của nhân dân" [3]. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ cách
mạng văn hóa những năm đổi mới là: xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã
hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiếp nối tư duy đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại
hội VII khẳng định: Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa Việt
Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại.
11
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội chỉ rõ: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là lần
đầu tiên Đảng đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có hai đặc trưng: tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có
nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức dân tộc, có tính Đảng và tính nhân
dân được nêu ra trước đây.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
thức rõ vai trị, vị trí của văn hóa trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đảng cho rằng: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội chỉ
rõ: "Mọi hoạt động văn hóa văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư
tưởng, đạo đức, tâm hồn, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh
cho sự phát triển xã hội" [5].
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định 5 quan điểm cơ bản của Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII, đồng thời
nhấn mạnh: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng
và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ trí thức có vai trị quan trọng; văn hóa là một mặt trận xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài địi hỏi phải có ý chí cách
mạng lâu dài và sự kiên trì, thận trọng.
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X (2006), với phương châm đẩy
mạnh toàn diện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đại hội chủ
trương: "Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn chặt và đồng bộ hơn với kinh tế xã hội, là cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội" [7].
12
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI vừa qua của Đảng vẫn tiếp tục
khẳng định và đưa ra phương hướng: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần
sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ
và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển…" [8]. Đại hội XI một lần
nữa nhấn mạnh vấn đề phát triển văn hóa một cách tồn diện hơn, sâu sắc hơn.
Cùng với các Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng, Trung ương Đảng
đã tập trung bàn thảo ra các chun đề về văn hóa như:
Ngày 28/11/1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số: 05/NQ0TW Về đổi
mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa,
phát huy khả năng sáng tạo đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển
lên một bước mới.
+ Nghị quyết khẳng định: Văn hóa là một bộ phận trọng yếu của cuộc
cách mạng tư tưởng văn hóa, là một lực lượng mạnh mẽ, đồng thời là mục
tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Nghị quyết tôn trọng và xác định quyền tự do sáng tác, tự do phê
bình của văn nghệ sĩ và cơng chúng; thực hiện dân chủ hóa đời sống văn học
nghệ thuật.
+ Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị là nghị quyết đầu tiên chuyên bàn
về văn hóa trong thời kỳ đổi mới, thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức của Đảng về vị trí, tầm quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp
đổi mới đất nước.
Nhằm đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp văn hóa, đầu tháng 1/1993, Hội
nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ra Nghị quyết 04-NQ-TW
Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt. Hội nghị có sự
thay đổi căn bản trong nhận thức vể vị trí, vai trị của văn hóa khi khẳng định:
13
"Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" [4].
+ Hội nghị xác định những nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của nền văn
hóa, văn nghệ dân tộc: Phải xây dựng và phát triển nền văn hóa mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa - một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Hội nghị xác định những nguyên tắc và tư tưởng chỉ đạo nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài:
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng văn hóa,
văn nghệ.
2. Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa.
3. Phát triển văn hóa dân tọc đi liền với mở rộng giao lưu văn hóa với
nước ngồi.
4. Nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động văn hóa, văn học - nghệ thuật.
Từ ngày 6 đến ngày 16/7/1998, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Trung
ương tiến hành Hội nghị lần thứ 5 khóa VIII và ra Nghị quyết về Xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hội nghị có tầm
quan trọng đặc biệt trong việc hoạch định đường lối văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Hội nghị nêu ra 5 quan điểm chỉ đạo định hướng các hoạt động văn
hóa những năm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
1. Nền văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
2. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam
14
4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
5. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp
cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
+ Hội nghị xác định 10 nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới theo 5 tiêu chí.
2. Xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh trên cơ sở giữ gìn và phát
huy những đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
3. Phát triển sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật.
4. Bảo tịn và phát huy di sản văn hóa dân tộc
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số.
8. Xây dựng chính sách văn hóa hợp lý đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
10. Củng cố, xây dựng và hồn thiện thể chế văn hóa.
+ Hội nghị nhấn mạnh, kể từ nay đến năm 2000, đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ cấp bách: xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
lành mạnh trong xã hội. Nhằm tạo sự chuyển biến thực sự cho sự nghiệp văn
hóa, Hội nghị đề ra 4 giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu
nước và phong trài "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ".
2. Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về văn hóa.
15
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đánh dấu
bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa. Nghị quyết là
văn kiện mang tính Cương lĩnh của Đảng về văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 12/6/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 38-CT/TW về việc thực
hiện Nghij quyết Trung ương 5 khóa VIII. Chỉ thị nêu rõ: "đây là nghị quyết
có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước ta
trong giai đoạn mới" [6].
Nhằm kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, tháng 7/2004, Hội nghị lần thứ 10 Ban
Chấp hành Trung ương, khóa IX họp bàn và Kết luận tiếp tục thực hiện Nghị
quyết trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng văn hóa đất nước 5 năm thực
hiện nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Hội nghị khẳng định những thành
tựu, chỉ ra những hạn chế sau 5 năm thực hiện Nghị quyết TW5 khóa VIII.
Hội nghị đề ra 4 mục tiêu nhằm bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao
văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội để tạo ra sự phát triển bền vững của
đất nước.
Hội nghị đề ra các nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo
đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội.
16
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người
Việt Nam theo 5 đức tính được Nghị quyết TW5, khóa VIII xác định.
Ba là, chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng
dân cư, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh.
Như vậy, sự phát triển về tư duy lý luận và đường lối văn hóa của
Đảng trong thời kỳ đổi mới thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, khái niệm văn hóa được mở rộng bao gồm tồn bộ đời sống
tinh thần của xã hội. Ngoài những lĩnh vực cơ bản: xây dựng tư tưởng, đạo đức,
lối sống; giữ gìn bản sắc dân tọc; mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngồi;
phát triển văn học - nghệ thuật, thông tin đại chúng; xây dựng thể chế và thiết
chế văn hóa… thì chính sách văn hóa đối với tơn giáo, phát triển giáo dục - đào
tạo và khoa học - công nghệ cũng được xác định là yếu tố cấu thành của văn hóa.
Hai là, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trị của văn hóa ngày càng rõ
hơn do xác định mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ giữa kinh tế và văn hóa.
"Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng
bằng, văn minh, con người phát triển tồn diện. Văn hóa là kết quả của kinh
tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế" [6]. Các nhân tố văn hóa
phải gắn bó với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị,
kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… và trở thành nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của sự phát triển. Văn hóa liên quan mật thiết đến sự phát triển là
yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững.
Ba là, khẳng định rõ tính đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam là tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời xác định rõ tiêu chí của nền văn hóa
tiên tiến và các yếu tố cấu thành bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, thấu suốt tinh thần dân
chủ và tính nhân văn sâu sắc. Nền văn hóa đó khơng chỉ tiên tiến về nội dung
tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương diện hiện đại để
chuyển tải nội dung.
17
Bốn là, khẳng định rõ tính thống nhất và đa dạng của nền văn hóa
dân tộc Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, văn hóa Việt Nam là một nền
văn hóa lâu đời, nhiều màu sắc, là sự kết tinh của các nền văn hóa của 54 dân
tộc anh em. Do vậy, khẳng định những cái chung, tôn trọng những nét riêng
sẽ tạo nên sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hóa dân tộc. Sự thống
nhất trong tính đa dạng được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức. Tính thống
nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam khơng chủ diễn ra ở phương
diện dân tộc (quốc gia) và tộc người mà cịn thể hiện ở các khơng gian văn
hóa (vùng văn hóa).
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân,
trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trị quan trọng trong việc chấn hưng nền
văn hóa dân tộc. Đội ngũ trí thức, đặc biệt là những người hoạt động trên lĩnh
vực văn hóa đóng vai trò là người sáng tạo, phân phối, tiếp nhận và phổ biến
các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại đến mỗi người dân, đồng thời là
người quảng bá, giới thiệu các giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam đến
thế giới.
Sáu là, xác định rõ văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiệp lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiện trì,
thận trọng. Quan điểm này là sự kế thừa và vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh "văn hóa là một mặt trận" quan trọng không kém mặt trận kinh tế, chính
trị. Đó là sự nghiệp lâu dài, đầy thử thách, địi hỏi phải có chiến lược hợp lý
và phải kiên trì, thận trọng, tránh cả hai khuynh hướng "tả khuynh" và "hữu
khuynh" trong xây dựng và phát triển văn hóa.
Bảy là, khẳng định tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây
dựng xã hội mới.
II. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA
18
Quán triệt các Nghị quyết Đại hội Đảng và các Nghị quyết Trung
ương về văn hóa, Đảng ta đã chỉ đạo Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ban ngành
và các địa phương tập trung phát triển văn hóa.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, Hiến pháp năm 1992 của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cụ thể hóa đường lối văn hóa thành
những nội dung:
1. Văn hóa có vai trị, vị trí quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước. Văn hóa có chức năng góp phần bồi dưỡng nhân cách và tinh thần cao
đẹp của con người Việt Nam.
2. Nhà nước chủ trương bảo tồn phát triển văn hóa Việt Nam, các di
sản văn hóa dân tộc, những giá trị của nền văn hiến Việt Nam, tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; cấm truyền bá tư
tưởng văn hóa phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín và các hủ tục lạc hậu.
3. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa, nghiêm cấm các
hoạt động văn hóa làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo
đức và lối sống của con người Việt Nam.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII về văn hóa nghệ thuật, ngày 19/01/1993 Thủ tướng
Chính phủ ra quyết định số: 25-TTg về một số chính sách nhằm xây dựng và
đổi mới sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật. Quyết định nêu rõ; từ năm 1993 trở về
sau, Nhà nước dùng kinh phí đầu tư cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
xây dựng những cơng trình văn hóa lớn khơng nhằm mục đích kinh doanh mà
nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, ngày
17/8/1998, Chính phủ ban hành Chương trình và hành động thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
19
Chính phủ chỉ đạo Bộ Văn hóa - Thơng tin phối hợp với các cơ quan
chức năng và các địa phương xây dựng các đề án trọng điểm:
+ Đề án bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc.
+ Đề án xây dựng làng, xã, khu phố văn hóa.
+ Đề án phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
+ Đề án xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tại các cơng trình tín
ngưỡng - tơn giáo.
+ Đề án thành lập Quỹ hỗ trợ văn hóa quốc gia.
+ Đề án về các chính sách phát triển văn hóa, nghệ thuật.
+ Đề án phát triển văn hóa - thông tin đối ngoại.
Để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, ngày 28/01/2003
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số: 19-QĐ/TTg phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia về văn hóa đến năm 2005. Nội dung cơ bản của chương
trình là:
+ Chống xuống cấp và tơn tạo các di tích lịch sử cách mạng và
kháng chiến.
+ Sưu tầm, bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể.
+ Điều tra bảo tồn một số bản, bn, phum, sóc…
+ Xây dựng các thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, ưu tiên vùng sâu,
vùng xa.
+ Hiện đại hóa khâu sản xuất.
Việc thực hiện các nội dung đó cụ thể như sau:
2.1. Xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống
20
Trên lĩnh vực tư tưởng: Đảng lãnh đạo nhân dân ta luôn kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì định hướng xã hội chủ
nghĩa, kiên trì chế độ một Đảng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
kiên quyết đổi mới song khơng "đổi màu", hịa nhập nhưng khơng " hịa tan".
Về đạo đức, lối sống: kế thừa và phát huy những thuần phong mỹ tục,
những truyền thống nhân ái của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt
đẹp của con người Việt Nam, đồng thời kiên quyết chống những hiện tượng
và hành vi thô bạo, lai căng, phản văn hóa, phi đạo đức.
Sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên chuyển biến tích cực:
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng sáng
tạo trong tình hình mới và trở thành nền tảng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và cách mạng Việt Nam. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Sự đồng thuận trong xã hội tăng lên. Nhiều nét mới trong các giá trị
văn hóa và chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ được hình thành. Các tầng lớp
nhân dân tích cực học tập, lao động sản xuất để đưa nước ta sớm vượt qua đói
nghèo. Lớp trẻ có tinh thần vượt khó để lập thân, lập nghiệp và cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, một số người vẫn hoài nghi về chế độ xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghiêm trọng hơn là sự chệch
hướng lý tưởng, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một số cán
bộ, đảng viên, nhất là một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Trong xã hội
xuất hiện tự sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa truyền
thống. Nạn quan liêu, tham nhũng ngày càng trầm trọng làm giảm lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Một bộ phận thanh niên có lối sống thực
dụng, cá nhân, vị kỷ, coi đồng tiền là giá trị cao nhất trong bậc thang giá trị,
vô cảm với đồng loại.
21
2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tăng
cường tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc: Năm 1992, Chính phủ
thơng qua chương trình quốc gia Tổng kiểm kê di sản văn hóa dân tộc. Năm
1994, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chống xuống cấp di tích.
Kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa X thơng qua Luật si sản văn hóa. Kể từ năm
2005, Nhà nước lấy ngày 23/11 hàng năm là ngày di sản văn hóa.
Đảng chỉ đạo các bộ, ban ngành tiến hành tổng kiểm kê để xếp hạng,
tu bổ và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Đến nay, cả nước
có 11 di sản văn hóa thế giới, 4.521 di tích quốc gia và 6.475 di tích cấp tỉnh
được tu bổ. Trong 10 năm trên cả nước có hơn 2.000 lượt di sản được đầu tư
tu bổ ở những cấp độ khác nhau.
Giữ gìn, phát triển nền văn hóa đa dân tộc, nhiều màu sắc. Đó là tiếng
nói, chữ viết; các phong tục tập qn; sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của 54
dân tộc như nhà rơng, nhà sàn, xịe Thái, sáo Mèo, cồng chiêng và sử thi
Tây Nguyên…
Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống và các giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý thức tự lực tự cường, tinh
thần đoàn kết cố kết cộng đồng; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình
đạo lý; giữ gìn lối sống, thuần phong mỹ tục của dân tộc; phục hồi và phát
triển các lễ hội truyền thống đặc sắc của các vùng miền trên cả nước. Hiện
nay, nhiều giá trị văn hóa mới từng bước hình thành đáp ứng yêu cầu đổi mới
của đất nước và thời đại.
Cùng với việc giữ gìn xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo chống các văn hóa phản
động, đồi trụy và các trào lưu văn hóa trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
22
Với phương châm "xây" đi đôi với "chống", Đảng và Nhà nước ra Chỉ
thị, nghị quyết và các văn bản pháp quy để phịng chống các sản phẩm văn
hóa độc hại, đấu tranh lập lại trật tự trên lĩnh vực văn hóa. Ngày 12/12/1995,
Chính phủ ban hành Nghị định số 87-NĐ/CP và Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ
thị số: 814 Về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa, đẩy mạnh bài trừ
các tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Ngày 14/12/1995, Chính phủ ban hành Nghị
định số 88-NĐ/CP Về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động văn
hóa và dịch vụ văn hóa. Cùng ngày, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị
số 64-CT/TW Về việc tăng cường lãnh đạo, quản lý, lập lại trật tự kỷ cương
trong các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ
nạn xã hội nghiêm trọng.
Song song với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng ln coi
trọng mở rộng, giao lưu văn hóa với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Chủ trương giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, gắn liền với tiếp thu văn
hóa tồn nhân loại là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng. Năm 2004,
Việt Nam chính thức tham gia cơng ước Benr về bảo vệ quyền tác phẩm
nghệ thuật. Đến nay, nước ta có quan hệ hợp tác văn hóa với nhiều nước ở
tất cả 5 châu lục và đã ký kết Hiệp ước hợp tác văn hóa với các nước lớn
như: Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Đức, các nước ASEAN và nhiều nước
châu Á, châu Âu.
2.3. Từng bước đổi mới hoạt động văn học - nghệ thuật thông tin
đại chúng
Hoạt động văn học - nghệ thuật: Đảng luôn quan tâm lãnh đạo đổi
mới các hoạt động này.
Nghị quyết các kỳ đại hội Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng định: Sự nghiệp văn hóa là một bộ
23
phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới. Nhằm đẩy mạnh sự nghiệp văn học nghệ thuật, ngày 24/01/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số
18-CT/TW Về tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW5, khóa VIII về
cơng tác văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới. Ngày 16/6/2008, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới. Bộ Chính trị chỉ rõ: Phải coi phát triển văn học, nghệ
thuật là sức mạnh nội sinh bền vững trong hội nhập quốc tế nhằm tạo ra sự
phát triển hài hịa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Văn học nghệ
thuật thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải hướng đến chân,
thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, vừa có tác dụng
định hướng, vừa đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng
cao và đa dạng của nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng và những đổi mới trong cơ chế, chính sách của
Nhà nước đều tạo ra sự chuyển biến trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Hoạt
động văn học nghệ thuật phong phú hơn về nội dung, đa dạng hơn về hình
thức thể hiện và bước đầu có sự cách tân về thi pháp, phong cách.
Các hoạt động văn học - nghệ thuật như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,
sân khấu, điện ảnh, hội họa… tập trung đi sâu vào các đề tài: chiến tranh cách
mạng, kháng chiến, thiếu nhi, miền núi, phản ánh công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phát hiện và biểu dương những nhân tố, đồng
thời lên án cái ác, cái xấu và phê phán sự tha hóa về nhân cách, biến chất về
đạo đức và lối sống…
Lĩnh vực báo chí - xuất bản ln nhận được sự quan tâm sâu sắc của
Đảng và Nhà nước.
Trên phương diện lý luận, Đảng kịp thời đề ra những văn kiện chỉ đạo
hoạt động báo chí, xuất bản. Ngày 31/23/1992, Ban Bí thư ra chỉ thị số 08-CT/TW
Về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả cơng tác báo chí, xuất bản. Ngày 01/10/1997, Bộ
24
Chính trị ra Chỉ thị số 22-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí, xuất bản. Ngày 01/12/2004, Bộ Chính trị ra
thơng báo số 162-TB/TW "Kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp
tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay. Tiếp đó, ngày
11/10/2006, Bộ Chính trị ra thơng báo số 41-TB/TW "Kết luận của Bộ Chính
trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí". Nghị quyết
hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa X (8/2007) Về cơng tác
tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới nêu rõ mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động báo
chí.
Trong chỉ đạo thực tiễn, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ phải xây
dựng đất luật pháp, ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện thúc đẩy hoạt
động báo chí, xuất bản. Ngày 19/7/1993, Chủ tịch nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cơng bố Luật xuất bản. Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa X
(6/1999) thơng qua Luật Báo chí sửa đổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí, xuất bản phát triển mạnh mẽ về
số lượng, loại hình. Tính đến nay, cả nước có 706 cơ quan báo chí in, trong đó
có 178 báo và 528 tạp chí. Có 67 đài phát thanh - truyền hình, gồm 3 đài phát
thanh truyền hình trung ương (VTV, VTC, VOV) và 64 đài phát thanh truyền hình ở các địa phương. Có 34 báo điện tử, 180 trang tin điện tử của các
cơ quan tạp chí, báo, đài và hàng ngàn trang thơng tin điện tử.
2.4. Đẩy mạnh phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa"
Về chủ trương: Đảng và Nhà nước xác định xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đầu năm 1994, Chính phủ phê duyệt ba chương trình quốc gia về văn
hóa, trong đó có chương trình nâng cao và hoạt động văn hóa, thơng tin cơ sở.
25
Tháng 3/1995, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mở cuộc vận
động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa thơng tin xác định nhiệm vụ trọng tâm
xây dựng đời sống văn hóa ở nơi cơ sở là: Xây dựng mơ hình văn hóa cơ sở,
xây dựng gia đình văn hóa và thiết chế văn hóa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
xác định: Xây dựng đời sống văn hóa là nhiệm vụ cấp bách năm 2000 và chủ
trương phát động phong trào "toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa".
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 23/12/1999, Thủ tướng Chính
phủ ra Quyết định số 235/QĐ-TTg thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia, chỉ đạo
thống nhất tồn quốc theo mơ hình 4 cấp. Ngày 21/4/2000, Bộ Văn hóa thơng tin phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương tổ chức lễ phát động
trên phạm vi toàn quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Bộ, ngành, các địa
phương trong cả nước đều triển khai phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa".
Trong chỉ đạo thực tiễn: Đảng và Nhà nước chỉ đạo tất cả các tỉnh,
thành trong cả nước thành lập Ban chỉ đạo, các Bộ, ban ngành tích cực hưởng
ứng phong trào.
Nội dung phong trào "xây dựng gia đình văn hóa" gồm: xây dựng gia
đình văn hóa, xây dựng làng, bản, ấp văn hóa; xây dựng mơi trường văn hóa;
xây dựng cơ quan văn hóa …
Các Bộ, ban, ngành phát động các phong trào: Ngành Lao động thương binh và xã hội xây dựng phong trào "xã phường lành mạnh, khơng có
tệ nạn xã hội"; Ngành Bưu chính viễn thơng phát động phong trào xây dựng
điểm (bưu điện văn hóa xã); Ngành Cơng an đẩy mạnh việc triển khai thực
hiện chương trình các đơn vị cơng an trở thành điểm sáng văn hóa; Tổng cục
Chính trị chỉ đạo trong toàn quân nâng cao cuộc vận động "xây dựng mơi
trường văn hóa " gắn với phong trào "qn dân đoàn kết xây dựng đời sống