MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay hơn bao giờ hết sự hưng thịnh của các quốc
gia một phần rất quan trọng thậm chí quyết định là bởi vì có nhiều tài năng
xuất chúng được nâng niu, nuôi dưỡng và phát triển. Vì vậy, giáo dục chiếm
vị trí rất quan trọng. Giáo dục đang là mối quan tâm hàng đầu của các quốc
gia trên thế giới.
Đảng ta khẳng định cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Giáo dục chính là nơi sẽ tạo ra nguồn nhân lực có cả đức và tài để
phát triển xã hội. Giáo dục sẽ mang lại cho con người sự hiểu biết về các lĩnh
vực của xã hội và giáo dục cho con người những chuẩn mực đạo đức, rèn
luyện con người thành người có ích cho xã hội.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, giáo dục đã được coi
trọng và nghiên cứu từ rất sớm. Nó được nhiều nhà tư tưởng trên thế giới
nghiên cứu và xây dựng thành các hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực cho các
thế hệ sau. Ở phương Đông, người đại diện tiêu biểu cho những tư tưởng vĩ
đại về giáo dục là Khổng Tử - một nhà triết gia người Trung Quốc. Những tư
tưởng về giáo dục được trình bày ở nhiều cuốn sách, trong đó "Luận ngữ" là
một cuốn sách ghi lại khá nhiều tư tưởng của Khổng Tử về vấn đề giáo dục.
Những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục là những bài học quý báu, đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng giáo dục con người, "sự nghiệp trồng người" của
chúng ta.
Bài tiểu luận này em xin được nêu một số quan điểm của Khổng Tử
về vấn đề giáo dục và so sánh với một số tư tưởng của các triết gia khác.
Qua đó em xin được liên hệ đối với nền giáo dục ở Việt Nam trong thời đại
ngày nay.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, kết cấu bài tiểu luận gồm 3 chương:
1
Chương 1: Sơ lược hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc thời kỳ nhà
Chu, tiểu sử của Khổng Tử và giới thiệu tác phẩm "Luận ngữ"
Chương 2: Quan điểm của Khổng Tử về giáo dục được trình bày trong
tác phẩm "Luận ngữ".
Chương 3: Liên hệ với nền giáo dục Việt Nam trong thời đại ngày nay
và một số đề xuất
2
Chương 1
SƠ LƯỢC HOÀN CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI TRUNG QUỐC
THỜI KỲ NHÀ CHU, TIỂU SỬ CỦA KHỔNG TỬ
VÀ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM "LUẬN NGỮ"
1.1. Sơ lược hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc thời kỳ nhà Chu
Trung Quốc - đất nước có chiều dài lịch sử lâu đời, là một trong
những cái nôi của văn minh nhân loại, có nền triết học hình thành và phát
triển khá rực rỡ.
Đất nước Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, trong đó thời kỳ
nhà Chu là thời kỳ ra đời các học thuyết tư tưởng vĩ đại của Khổng Tử.
Thời kỳ nhà Chu được chia làm hai thời kỳ: Tây Chu và Đông Chu.
1.1.1. Thời kỳ Tây Chu (từ thế kỷ XI đến 771 TCN)
Tộc Chu ở thượng lưu sơng Hồng Hà (Thiểm Tây, Cam Túc ngày
nay) sau khi tiêu diệt nhà Thương đã cai quản toàn bộ lưu vực sơng Hồng
Hà. Trên vùng đất đai mới chinh phục, các vua khởi lập nhà Chu thực hiện
chế độ phân phong (nghĩa là phong đất đai, phong chức tước) cho con em họ
hàng thành 71 nước chư hầu, sau đó cịn tiếp tục chia nhỏ. Thời Tây Chu sự
phân hóa giầu nghèo ngày càng tăng. Các cuộc chiến tranh với bộ lạc xung
quanh thu được đất đai, tù binh càng đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp. Chế độ
nơ lệ kiểu phong kiến phân phong phát triển mạnh. Phân hóa giai cấp phát
triển nhanh thì mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, xã hội rối loạn. Trong bối
cảnh đó, nhà Chu phải rời đô từ Cảo Kinh (Thiểm Tây, phía Tây) về Lạc
Dương (phía Đơng thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay). Kết thúc thời Tây Chu thực
chất là kết thúc sự thống trị của nhà Chu.
1.1.2. Thời kỳ Đông Chu (từ năm 770 đến 221 trước CN)
Đây là thời kỳ đặc biệt trong lịch sử Trung Quốc, thời kỳ quá độ từ
chế độ phong kiến phân phong sang phong kiến tập quyền, nói theo thuật ngữ
phương Tây là xã hội nô lệ chuyển sang phong kiến.
3
Đông Chu chia làm hai thời kỳ: Xuân Thu (từ năm 770 -> 475 TCN)
và Chiến Quốc (từ năm 474 -> 221 TCN). Thời kỳ này sắt đã được sử dụng
rộng rãi tạo nên bước cách mạng về công cụ sản xuất và binh khí. Các cuộc
chiến thơn tính tranh giành nhau rất tàn khốc. Thời Tây Chu có khoảng 1000
nước, đến thời Xuân Thu còn hơn 100 nước trong đó đáng kể có 14 nước lớn.
Các nước khơng ngừng thơn tính nhau giành quyền bá chủ thiên hạ. Theo
sách Xuân Thu (sử nước Lỗ do Khổng Tử biên soạn) trong vịng 242 năm, có
483 cuộc xuất binh giữa các nước. Nước Tề và nước Lỗ đánh nhau 34 lần,
Tống - Trinh 39 lần, Tần - Tấn 18 lần, Ngô - Sở 23 lần, Ngơ - Việt 8 lần…, có
36 vụ bề tôi giết vua, 52 vụ bán rẻ đất nước… Thực là thiên hạ đại loạn, muôn
dân điêu linh, khổ cực. Câu:"Lấy xương người làm củi đun, đánh đổi con cho
nhau mà ăn thịt ("dị tử nhi thực, chiết hài nhi suy" - Mạnh Tử - Nhà xuất bản
Đồng Nai, 1995) đã phản ánh sự tàn khốc của thời kỳ này. Thời kỳ Xuân Thu
có 5 nước thay nhau làm bá chủ là Tề, Tống, Tấn, Tần, Sở. Thời chiến quốc
có thất hùng là Tần, Sở, Yên, Tề, Triệu, Hàn, Ngụy.
Do lực lượng sản xuất phát triển, giai cấp địa chủ mới lên ngày càng
mạnh. Chế độ phân chia đất đai, phong chức tước cho con em họ hàng nhà Chu
đến đây tan rã. Vấn đề của thời đại đặt ra lúc này là thống nhất Trung Quốc,
tránh các cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra gây cho cuộc sống nhân dân khổ
cực. Thời kỳ này các nhà triết học như Khổng Tử đã đưa ra những tư tưởng
chính trị lớn mong muốn bình ổn xã hội, thống nhất đất nước Trung Quốc.
1.2. Tiểu sử của Khổng Tử
Trong lịch sử nhân loại đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục
xưa nay có lẽ chưa có một người nào chiếm được một vị trí độc tơn, phi phàm
như Đức Khổng Tử. Mặc dù ông sống cách chúng ta 25 thế kỷ, song những tư
tưởng của ông đến nay vẫn có rất nhiều giá trị.
- Khổng Tử (551 - 479 trước CN) tên là Khổng Khâu, tên tự là Trọng
Ni người làng Xương Bình, huyện Khúc Phu, nước Lỗ (nay là thành phố
Khúc Phu tỉnh Sơn Đông). Tổ tiên Khổng Tử là Khổng Phòng Thúc vốn dòng
4
dõi quý tộc nước Tống; con cháu khi sa sút chạy sang nước Lỗ. Cha là Thúc
Lương Ngột, một võ quan nhỏ có vợ cả sinh 9 con gái, vợ hai sinh một trai là
Mạnh Bì, bị tàn tật. Khoảng gần 70 tuổi mới lấy bà Nhan Sinh Tại sinh Khổng
Khâu. Ba tuổi mồ côi cha, lớn lên trong cảnh bần hàn nhưng Khổng Tử rất
siêng năng, học giỏi và thích chơi trị tế lễ. Ơng suốt đời tự học, đi đâu cũng
học, thấy cái gì khơng hiểu hỏi ngay, đi với ai cũng có thể học hỏi người đó.
- Năm 19 tuổi, Khổng Tử lấy vợ sinh được một trai đặt tên là Lý, tự là
Bá Ngư. Ông làm Ủy lại cho nhà họ Quý, coi việc cân đong thóc ở kho, coi
việc ni bị dê dùng vào việc cúng tế, làm việc chăm chỉ nghiêm túc. Từ năm
22 tuổi đã bắt đầu dạy học. Năm 33 tuổi ông đến kinh đô nhà Chu để khảo sát
tế lễ ở miếu Đường sau trở về Lỗ, học trò theo học ngày càng đơng.
Nước Lỗ có loạn ơng qua nước Tề rồi lại trở về nước Lỗ dạy học và
nghiên cứu sách.
Khoảng 50 tuổi, Khổng Tử được vua Lỗ mời ra làm quan Trung đô tế
(cai quản kinh đô), Đại tự khấu (thượng thư bộ hình), tướng quốc. Trong thời
gian trọng nhậm nhờ tài cai trị của ông nước Lỗ yên bình, cả bốn phương đều
noi theo xem là mẫu mực. Lo sợ nước Lỗ hùng mạnh, nước Tề đã mua chuộc
làm cho vua nước Lỗ bỏ bê chính sự, xa rời, nhạt nhẽo với Khổng Tử. Ông rời
quê hương cùng đồ đệ đi chu du thiên hạ, truyền bá đạo lý của mình. Sau hơn
10 năm đi từ nước này qua nước khác nhưng không ở đâu được trọng dụng,
không gặp được minh quân thi hành đạo, nhiều phen rất nguy khốn, ông trở
về nước Lỗ dạy học, san định lại sách vở cho đến cuối đời.
- Hạt nhân tư tưởng của học thuyết do Khổng Tử đề xướng và suốt đời
truyền bá trong các lớp môn sinh là chữ "Nhân". Chữ "Nhân" theo quan niệm
của ông mang một ý nghĩa hết sức rộng lớn gắn bó chặt chẽ với đạo - đạo đức
- lòng yêu thương con người, yêu thương vạn vật. Theo Khổng Tử, gốc của
"Nhân" là hiếu để (hiếu là sự kính trọng của con cái đối với cha mẹ, để là lịng
u thương tơn kính của anh em). "Nhân" bao gồm yêu và ghét phân minh,
lòng quan tâm, vị tha, xả thân vì người. Để thực hiện "Nhân" Khổng Tử cho
5
rằng con người ta phải có "lễ". "Lễ" là các qui phạm đạo đức hợp thành một
hệ thống quy tắc xử thế, là phương thức để quân tử đạt tới chữ nhận. Trong
suốt cuộc đời làm thầy của mình, bên cạnh việc dạy chữ, bao giờ ông cũng
chú trọng vào việc dạy người, đề cao thuyết đức trị, phản đối pháp trị. Theo
ông đức trị là đức độ của các ông quan thanh liêm và lễ giáo là giáo dục quản
lý đất nước của các bậc quân vương và quan lại. Ông ao ước kỳ vọng vào một
xã hội lý tưởng mà "vua phải làm tròn phận sự của vua, bề tơi phải làm trịn
phận sự của bề tơi, cha phải làm tròn phận sự của cha, con phải làm tròn phận
sự của con"
- Tư tưởng, nội dung của học thuyết mà Khổng Tử áp dụng vào giáo
dục mang tính nhập thế và tích cực. Ơng đề xướng thuyết tơn hiền (tơn trọng
người hiền tài có đức độ), mạnh dạn giao phó cho họ những trọng trách, bổ
nhiệm những người có năng lực ra làm quan. Những tư tưởng đó của Khổng
Tử trong bối cảnh rối ren của xã hội đương thời rất khó thực hiện, song đó là
những quan niệm và đóng góp q báu của ơng.
- Nhớ Khổng Tử chúng ta không chỉ nhớ một người thầy vĩ đại đồng
thời cịn nhớ một nhà sư phạm có đóng góp lớn lao trong việc chỉnh lý hệ
thống sách và viết sách. Những tác phẩm vĩ đại do ông sưu tầm, hiệu đính
như Kinh thi, Kinh thư, Kinh nhạc, Kinh lễ, Kinh dịch đã trở thành những tác
phẩm kinh điển của bao thế hệ Nho giáo. Ông viết bộ Kinh Xuân Thu hợp
thành bộ đại giáo khoa thư: Lục kinh. Về sau Kinh nhạc bị thất truyền chỉ còn
một chương sáp nhập vào bộ lễ ký, vì vậy hậu thế còn lại Ngũ kinh. Luận ngữ
là một bộ sách vĩ đại của ơng.
- Khổng Tử có rất nhiều học trị, tương truyền khoảng 3000 người. Số
học trò thành đạt 72 người, gọi là hiền, trong đó có 10 hiền triết, 2 á thánh là
Nhan Hồi và Tăng Sâm. Khi ông mất, học trò quây quần bên mộ chịu tang 3
năm rồi mới khóc lóc từ biệt nhau hết sức đau thương. Hàng trăm người làm
nhà ở lại, lập thành làng Khổng. Ơng được tơn là "Chí Thánh Tiên sư, vạn thế
sư biểu". Đánh giá về học thuyết của Khổng Tử, Nhan Hồi nói:"Đạo của thầy
trơng lên, càng trơng càng thấy cao, đục vào, càng đục càng thấy rắn"
6
(Ngượng chi di cao, toàn chi di kiên - Tử Hãn 10). Người đời nay cịn
nói:"Đạo của thầy truyền đi khắp bốn phương, truyền đến muôn đời không dứt".
1.3. Giới thiệu tác phẩm "Luận ngữ"
"Luận ngữ" là sách quan trọng nhất trong kinh điển Nho Gia. Luận
ngữ có khoảng 12.700 chữ, ghi lại lời nói và việc làm của Khổng Tử và học
trò được biên soạn sau khi Khổng Tử mất. "Luận ngữ" có 20 thiên đều có ý
nghĩa, thậm chí nói thứ tự trước sau của các chương trong mỗi thiên cũng đều
có ý nghĩa. Nó là một cuốn sách ghi chép lời nói, những câu chuyện hàm
nghĩa giáo huấn sâu xa của Khổng Tử và các học trò cùng với nhiều ý kiến có
liên quan tới nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, đạo đức, văn học, triết học…
Từ những lời nói của Khổng Tử mà "Luận ngữ" ghi chép cho chúng ta thấy có
rất nhiều bài học quý báu liên quan đến việc học, làm người, xử thế và việc
chính trị. Văn chương Luận ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình tượng, có nhiều
đoạn tự sự rất sinh động. Là sách buộc kẻ sĩ phải học tiến thân bằng con đường
khoa cử từ Luận ngữ. Tư tưởng triết học của Khổng Tử chủ yếu ở sách này.
7
Chương 2
QUAN ĐIỂM CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC,
TRÌNH BÀY TRONG TÁC PHẨM "LUẬN NGỮ"
Khổng Tử được người đời tôn là "Vạn thế sư biểu", chính vì ơng đã có
cơng đóng góp lớn lao cho nền giáo dục Trung Quốc. Và có lẽ con đường đi
vĩ đại nhất của cả đời Khổng Tử, trước hết là mở mang việc dạy học - phổ cập
giáo dục, chỉ dẫn dân chúng về với điều thiện. Chúng ta biết thời cổ đại học
hành là quyền lợi của giai cấp quý tộc. Nói chung, người dân ít có điều kiện
để tiếp thu giáo dục nên dân trí thấp. Cuộc sống của người dân giống như một
dịng nước xốy, hồn cảnh đời người đã làm cho họ khơng có cách gì ngoi
lên, càng khơng nói đến cơ may tham gia chính trị. Do sự xâm lược của ngoại
tộc nhà Chu phải dời về phía Đơng, thế lực của nhà vua suy yếu, thay thế nó
là thế lực của chư hầu. Ý nghĩa của nó: chỉ cần có lực lượng thì có thể thay
đổi nhân vật chính trị trên vũ đài chính trị. Vũ lực và trí tuệ đều là lực lượng.
Học tập là con đường duy nhất để nâng cao trí tuệ. Có thể nói rằng, quan điểm
giáo dục của Khổng Tử đã để lại cho hậu thế nhiều bài học giá trị về mục
đích, nội dung, phương pháp giáo dục.
2.1. Vấn đề nhận thức của con người
Ông căn cứ vào năng lực nhận thực mà chia người ta thành ba hạng:
thứ nhất là bậc Thượng trí: là thánh, bậc sinh ra đã biết; thứ hai là quân tử:
người học thì biết; thứ ba tiểu nhân thì khơng học được gọi là hạ ngu. Tiểu
nhân gồm dân và chúng. Dân là hạng không học được nhưng sai khiến được.
Chúng là hạng không học được, sai khiến cũng khơng được. Hạ ngu chỉ
chiếm rất ít. Tuyệt đại đa số người là ở giữa, tài năng tư chất trung bình, vừa
làm điều thiện, vừa làm điều ác. Vì vậy, Khổng Tử nhấn mạnh đến phần quan
trọng của việc học. Tuy Khổng Tử thừa nhận giáo dục và hồn cảnh phát sinh
ảnh hưởng đối với Bậc thượng trí và Hạ ngu nhưng "Thượng trí" và "Hạ ngu"
chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong giáo dục. Giáo dục có thể đề cập đến biên giới nhân
sinh tầng lớp giữa của tuyệt đại đa số. Giá trị của học tập ở chỗ đó.
8
2.2. Chủ trương giáo dục của Khổng Tử
Trong 3.000 môn sinh của Khổng Tử, "Luận ngữ" ghi lại khoảng 30
người, trong đó chỉ có Nam Cung Quát và Tư Mã Canh thuộc giới quý tộc, số
còn lại đều là những người bình dân. Điều đó khác xa với thời Tây Chu chỉ có
trường cơng để dạy con em q tộc làm quan mà thôi.
Mạnh Tử đã kế thừa và phát huy đường lối bình dân giáo dục của
Khổng Tử trên phạm vi quảng đại, với các hình thức trường lớp đa dạng.
Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương hình thành một mạng lưới trường
công từ làng tới kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học.
Chủ trương giáo dục rộng rãi xuất phát từ việc Khổng Tử và Mạnh Tử
ý thức được vai trị của dân. Nó khơng chỉ là sự biểu hiện tư tưởng thân dâm
mà còn làm cho dân đổi mới. Quan hệ giữa tư tưởng "thân dân" và "tân dân"
được thể hiện rõ trong đường lối giáo dục của Khổng Tử.
Mặc dù nghiêng về quan điểm duy tâm tiên nghiệm, biện hộ cho giai
cấp thống trị, song Khổng Tử cho rằng nguồn gốc của tri thức là do học tập.
Ông kêu gọi học tập, sẵn sàng dạy bất kỳ ai không phân biệt hạng nào. Khổng
Tử nói với các đệ tử rằng: Phương châm giáo dục của ta là "Hữu giáo vơ
loại". Vì sao Khổng Tử lại cố ý nói câu này? Vốn là, trong số học trị của
Khổng Tử có cả người nghèo và người giầu, vừa có con em quan lại vừa có
cả con em của dân nghèo, có cả người già, trẻ… Khổng Tử coi tất cả học sinh
đều như nhau, chưa bao giờ nhìn họ với con mắt khác. Nhưng trong số học
sinh của Khổng Tử, những thanh niên nghèo khổ lại chiếm số đơng. Do đó,
học phí mà Khổng Tử đặt ra rất thấp, giống như sự thu phí mang tính tượng
trưng vậy. Ơng nói: Chỉ cần các trị tự giác đưa chút lễ mọn đến, ta chưa bao
giờ từ chối dạy cả. Giả sử Khổng Tử đặt mức học phí cao thì rất nhiều con em
người dân nghèo chỉ vì khơng kham nổi mà bị gạt ra ngồi và lúc ấy "Hữu
giáo vơ loại" sẽ thành một câu nói sng mà thơi. Cái đáng q mà khó hiểu
lại chính là phương châm "Hữu giáo vô loại" của Khổng Tử thể hiện trong
câu chuyện dưới đây: Nước Lỗ có một nơi gọi là Hồ Hương, người ở đây nói
chung là rất khó gần. Một lần, có một em bé người Hồ Hương đến cầu kiến
9
Khổng Tử, học trò của Khổng Tử muốn từ chối khơng cho vào nhưng Khổng
Tử lại tiếp đón em bé như mọi người đến thăm khác. Điều này khiến học trị
của ơng thấy thật khó hiểu. Sau đó ơng giải thích với học trị rằng đối với
những người bình thường mà nói Hồ Hương là nơi ln muốn mọi người căm
ghét, nhưng một đứa trẻ ở đó muốn tới cầu kiến ta thì có gì là sai? Đương
nhiên chúng ta phải ca ngợi sự tiến bộ của nó, khơng nên chú ý tới quá khứ đã
qua của nó. Khổng Tử khơng bàn về cấu trúc q trình nhận thức mà hướng
vào mục đích và phương pháp nhận thức, bổ trợ cho triết lý nhân sinh. Khổng
Tử không chỉ là một thầy giáo giỏi mà ơng cịn có tâm rất lớn. Ơng chỉ mong
dạy nhiều người có ích cho xã hội chứ khơng ham lợi.
2.2. Mục đích của việc giáo dục
Giáo dục, theo Khổng Tử là đào tạo những người hiền tài có phẩm
chất, năng lực và bổ nhiệm cho họ những chức vụ quan trọng nhằm gánh vác
việc nước, việc dân.
Học trước hết để làm người, quân tử với chí khí của bậc đại trượng
phu - hình mẫu của con người, của xã hội phong kiến. Người quân tử trước
hết phải tu dưỡng đạo đức cá nhân thì mới có thể làm được việc lớn (tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Khổng Tử quan niệm: "Người quân tử ăn
không được đầy đủ, ở không được yên vui, làm việc siêng năng và thận trọng
lời nói, tìm người đạo đức để sửa mình, như vậy có thể gọi là người ham học"
(Khổng Tử - Nguyễn Hiến Lê). Những tư tưởng đó cũng là nhằm thực hiện
đường lối "Đức trị" của Nho học, là sự thể hiện tư tưởng thân dân đậm nét
của nhà cầm quyền. Bởi vì, người làm quan có giáo dục sẽ hiểu rõ chức trách,
phận sự của mình mà khơng làm những điều tàn ngược, hại dân; người dân có
giáo dục sẽ hiểu những nghĩa vụ, quyền lợi của mình để thực hiện.
Xã hội tiến bộ theo quan điểm của Nho Giáo là xã hội có thể thống, kỷ
cương, có lễ nghĩa, có luân thường đạo đức. Để giữ cái nền dựng nước cho
chắc chắn phải có vua quan thống trị dân chúng, trong đó vua phải ra vua, tôi
phải ra tôi, cha ra cha, con ra con. Giữ lễ thì trị trái lại thì loạn. Bởi thế, Nho
Gia nói chính trị là nói giáo dục. Giáo dục là làm cho dân biết nghĩa vụ,
10
quyền lợi, trọng lễ nghĩa. Làm vua, làm quan có giáo dục thì phải biết rõ chức
trách của mình khơng làm điều tàn bạo. Tốt và xấu của chính trị là ở con
người. Vì vậy làm chính trị cần phải đề cử người có đạo đức và tài năng. Các
bậc thánh chủ, hiền thần sẽ làm cho nền chính trị tự nhiên sáng sủa, rõ ràng.
Trái lại, kẻ hôn quân, bạo chúa và gian thần sẽ làm cho chính trị nhất định
thất bại. Đây là chân lý. Mở mang dân trí, mở mang cái mới của trí tuệ cũng
có thể nói là con đường duy nhất, tức là việc học.
Trong bối cảnh đời suy đạo hỏng, mọi người phải học để hành đạo
giúp đời. Học để giúp vua, giúp quốc gia. Gần thì thờ được cha, xa thì thờ
được vua. Trong Dương Hóa 10 - Luận ngữ viết: "Khổng Tử hỏi Bá Ngư
"Con đã học Chu Nam, Thiệu Nam hay chưa? Người nào không học Chu
Nam, Thiệu Nam cũng giống như ngoảnh mặt sà sát vào tường vậy" (Chu
Nam, Thiệu Nam là hai chương đầu của Kinh Thi).
Học còn để rèn luyện phẩm chất đạo đức. Các đức tính như nhân, trí,
tín, trực, dũng phải học tập rèn luyện mới có. Khổng Tử viết "Người quân tử
giúp người làm thành điều tốt, không giúp người làm thành điều xấu. Kẻ tiểu
nhân làm trái lại thế" (Trích Nhan Uyên thứ 16 - Luận ngữ). Học để nhận thức
đúng, tránh sai lầm, không bị che lấp. Khổng Tử gọi tên thật của Tử Lộ mà hỏi
rằng "Này Do! Người có biết 6 đức tốt bị sáu mối hại ngăn bít khơng" Đáp:
"Chưa". Khổng Tử dạy rằng:"Hãy ngồi ta sẽ nói chuyện cho ngươi rõ. Người
thích làm điều Nhân khơng bằng ham học, thì mối hại ngăn bít là cái ngu muội.
Người thích Trí xảo mà chẳng học hỏi thì mối ngăn bít là sự phóng đãng. Người
thích Tín mà chẳng ham học thì mối ngăn bít là sự thiệp hại. Người thích sự
ngay thẳng mà chẳng ham học thì mối hại là tính gắt gao. Người thích dũng
cảm mà chẳng ham học thì mối hại là sự phản loạn. Người ưu kiên quyết mà
chẳng ham học thì mối hại ngăn bít là tính cường bạo". Khổng Tử nói "Trước
đây ta mải trầm tư mặc tưởng mà suốt ngày quên ăn, cả đêm qn ngủ. Xét ra,
sự ấy khơng mấy có ích gì cho ta. Chẳng bằng ta chăm học cịn hơn".
Tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng Tử là rèn luyện phẩm chất đạo đức
cho con người, giúp họ thành những người có ích cho xã hội để họ ra giúp đời.
11
2.3. Nội dung giáo dục
Để thực hiện chủ trương giáo dục, Khổng Tử đã cụ thể hóa bằng nhiều
nội dung giáo dục thiết thực. Nội dung giáo dục chủ yếu của Khổng Tử là
giáo dục luân lý, đạo đức và huấn luyện kỹ năng thực hành cho dân. Khổng
Tử cho rằng: "Bậc thiện nhân dạy dân bảy năm thì có thể dùng dân vào việc
chiến đấu được, đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc tức là bỏ dân"
(Luận ngữ - Nguyễn Hiến Lê). Quan niệm này ít nhiều thể hiện sự quý trọng
sinh mệnh con người của ông, dù đó là tính mệnh của dân bách tính tầm
thường. Nguyễn Hiến Lê cho rằng, dạy dân tới bảy năm mới đưa ra trận, cổ
kim chưa bao giờ thấy. Quả đúng như vậy, sau bảy năm người dân được giáo
hóa rèn luyện, khiến họ biết yêu nước, trung vua, họ trở thành người lính
thiện chiến, sẵn sàng xơng pha nơi trận mạc, liều chết với giặc để giữ nước.
Khổng Tử chủ trương lấy đức dục làm gốc, trí dục làm ngọn, cái gốc
có bền chặt thì ngọn mới tươi tốt. Người quân tử trước hết phải là người có
phẩm giá cao, có học vấn rộng. Khi Tử Lộ muốn đưa Tử Cao, một người học
hành chưa đến nơi đến chốn ra làm quan, Khổng Tử bảo như vậy là làm hại
con người ta. Khổng Tử nói rằng "Đức hạnh chẳng trau dồi, học vấn chẳng
giảng cứu cho tinh tường nghe biết điều nhân chẳng làm theo, tự mình chẳng
phải mà khơng biết sửa đổi, đó là những điều mà ta lấy làm lo lắng vậy (Thuật
nhi - Luận ngữ)". Khổng Tử than rằng "Ôi! Đời chẳng ai biết đến ta!". Tử
Cống hỏi rằng "Tại sao thầy than rằng chẳng ai biết đến thầy?". Khổng Tử
đáp:" Ta chẳng oán trời, ta chẳng trách người. Cịn về đạo đức thì ta bắt đầu
học từ mức thấp để đạt dần lên mức cao. Biết ta chăng chỉ có trời". Một người
cần đề cao cảnh giới nhân sinh của cá nhân và thay đổi tốt đẹp thái độ đối xử,
làm người của ông, học tập là con đường duy nhất của Khổng Tử. Cả đời
Khổng Tử coi trọng việc học, bất kể là việc học từ cá nhân của ơng hoặc là
học tập có người khác giúp đỡ. Sự kiên trì của thái độ này là lý do quan trọng
nhất của người đời sau đề cao và tơn kính Khổng Tử. Khổng Tử cả đời lấy
việc dạy học làm cơng việc chính của mình nhưng ông không hề tự mãn khoe
khoang. Tinh thần tự mình cố gắng này chính là động lực chính của người học
12
không biết chán và dạy người không biết mỏi. Khổng Tử viết: Mặc nhi thức
chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất quyên, hà hữu ủ ngã tai (Thuật nhi - Luận
ngữ). Nghĩa là:" Im lặng suy nghĩ, để ghi nhớ trong lịng, học đạo lý mà
khơng biết buồn chán, dạy người mà không biết mệt mỏi, ba cái đức ấy có đầy
đủ ở nơi ta chăng?"
Nho gia thực hiện phương châm: tiên học lễ, hậu học văn. Trước hết là
học làm người. Nhà Nho khơng trọng Trí hơn Đức, vì theo họ, người có trí
khơn ngoan đủ điều nhưng khơng có đức dục để ràng buộc thì khơng khác
nào đàn thú ở với nhau.
Về nội dung giáo dục, Khổng Tử rất coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức
cho con người. Học tập đối với ông là việc suốt đời.
2.4. Phương pháp học
Khổng Tử viết: "Ơn cố nhi trí tân, khả dĩ vi sư hĩ" (Vu Chánh 11 Luận ngữ) nghĩa là ôn lại những cái cũ mà biết những cái mới có thể làm thầy
được ta. Vậy đây là phương pháp học tập mà ơng nói với học trị: Nếu như
chúng ta trong q trình học tập vừa học vừa quên hoặc học rồi mà quên đi.
Khối lượng đầy đủ chẳng qua là cái trạm giữa đường của tri thức hoặc là cái
kho cũ kỹ chứa kiến thức. Ôn lại những điều đã học một mặt không quên
những kỹ năng đã có mặt khác trong q trình ơn tập cũng có thể đạt được
những ý niệm mới và những phát hiện mới. Con người cần không ngừng tiếp
thu tri thức mới, mới không đến nỗi lạc hậu. Mà tiếp thu kiến thức mới làm
cho con người không quên những điều đã biết. Trình độ đạt được và biên giới
đạt được của loài người là mỗi ngày mỗi mới và dần dần đến chỗ tốt đẹp. Ôn
cái cũ cần phải lấy tri thức mới làm kế thừa, nó chẳng phải quay lại với cái cũ
mà càng vượt lên cái mới. Sự tiến lên là rất có hạn. Tri thức mới cần phải lấy
việc ôn cũ mà giữ lại. Không cái gì là khơng có ích. Theo Khổng Tử thì học
phải suy nghĩ không học vẹt. Học mà không suy nghĩ thì mờ mịt, khơng hiểu,
suy nghĩ mà khơng học thì nguy hại. Khổng Tử nói:"Ba trăm bài Kinh Thi chỉ
có một câu tóm hết ý nghĩa là khơng suy nghĩ bậy bạ (Vi chánh 2,15), suy
13
nghĩ phải tránh 4 điều - không tự ý, không chắc trước, khơng cố chấp, khơng
vì riêng mình. Suy nghĩ là một bộ phận của học tập và là phương pháp quan
trọng nhất trong quá trình học tập. Khổng Tử nói rằng " Kẻ nào chẳng phấn
phát lên để thơng hiểu, thì ta chẳng giúp cho hiểu thơng được. Kẻ nào chẳng
cố gắng để tỏ rõ ý kiến của mình thì ta chẳng khai phát cho họ được. Kẻ nào
biết rõ một góc, nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết ln ba góc kia thì ta
chẳng dạy kẻ đó nữa ("Bất nhẫn, bất khải, bất phí, bất phát. Cử nhất ngung
nhi thị chi, bất dĩ tam ngu phân, tắc bất phục dã" - Thuật nhi - Luận ngữ). Ở
đây ơng muốn nhấn mạnh đến sự tìm tịi học hỏi, phải luôn học hỏi để từ biết
một cái mà có thể biết nhiều hơn. Khổng Tử viết "Thấy ai hiền đức, mình nên
suy nghĩ để cố gắng cho bằng người. Thấy ai chẳng hiền đức, mình nên tự
xét, đừng bắt chước theo họ" ("Kiến hiền, tư tề yên; Kiến bất hiền nhi nội tự
tỉnh dã" - Lý nhân - Luận ngữ). Học người khác thì phải suy nghĩ xem xét,
phải luôn cầu thị học người khác nhưng không bắt chước mà phải biết chọn
lọc để học. Mỗi người là khác nhau nên khơng thấy người khác có gì là hay là
bê ngun xi vào mình được.
Khổng Tử nói: "Trong ba người cùng đi tất có người là thầy của ta
("Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên" - Thuật nhi 21)". Đi đâu cũng học, học
thầy học bạn, học ở mọi người
Tăng Tử - học trò xuất sắc của Khổng Tử nói rằng:"Hàng ngày ta
thường xét mình ba điều này: Thứ nhất, làm việc gì cho ai, ta có hết lịng
khơng?; Thứ hai, kết giao với bạn bè, ta có giữ lịng tin thật hay khơng?; Thứ
ba, đạo lý do thầy truyền dạy, ta có học tập được khơng?" Hàng ngày chúng ta
vừa tu dưỡng đạo đức và rèn luyện học tập. Phải luôn luôn suy nghĩ.
Cái gọi là cha và thầy dẫn dắt vào cửa lớp, còn tu hành là ở cá nhân.
Một người làm việc gì, đặc biệt là học tập thì cần phải có lịng tự giác cao độ.
Một người gặp phải vấn đề không tự hỏi, cũng không hỏi người khác "làm thế
nào". Bậc thánh nhân cũng khơng có biện pháp. Tìm tịi học tập cũng giống
như tập bơi dưới nước. Chúng ta cần phải xuống nước mới có thể bơi được.
Cũng như thế, tìm tòi học vấn cần phải chiếm lĩnh bề mặt vấn đề, đối diện với
14
vấn đề, tiếp thu sự nảy sinh của vấn đề thì vấn đề mới có khả năng được giải
quyết. Ơng Vương Quốc Duy trong sách "Nhân giản tự thoại" đã nói "Người
thành đạt trong sự nghiệp lớn nhất từ xưa đến nay tất cả phải qua ba loại hoàn
cảnh sau đây: "Đêm hơm qua gió Tây thổi cây khơ héo bên vách tường, chỉ
một mình trên lầu cao nhìn hết đường trên đời" - Đó là hồn cảnh thứ nhất.
"Áo mặc dần dần rộng mà cũng khơng sửa đổi, vì nó làm cho người ta tiều
tụy" - Đó là hồn cảnh thứ hai. "Ở nơi đơng người mà tìm anh ta trăm ngàn
lần, bỗng nhiên quay đầu lại thấy người đó ở chỗ ngọn đèn tàn" - Đó là hồn
cảnh thứ ba. Ơng Vương Quốc Duy lấy ba lời nói đó để ví với ba loại hồn
cảnh tạo nên những sự nghiệp lớn lao của việc học vậy. Phải vượt qua hồn
cảnh khó khăn thì con người sẽ trưởng thành hơn. Và phải biết vượt qua hồn
cảnh khó khăn thì mới làm nên sự nghiệp lớn.
Khổng Tử gọi chính tên của Tử Lộ ra mà nói rằng: "Này Do! Người
muốn ta cho dạy cách hiểu biết thật chăng? Việc gì biết thì nhận là biết, việc
gì mà mình khơng biết thì cứ nhận là khơng biết. Như vậy mới là biết thật!"
("Do, hội nhĩ tri chi hồ? Tri chi vi tri chi, bất tri ư bất tri, thi tri dã" - Vi
chánh). Khổng Tử có thể nói là người tránh được khuyết điểm khơng biết mà
nói biết, nhưng người bình thường là người hay mắc phải những khuyết điểm
này, bởi vì con người đều có lịng hư vinh, làm thế nào để từ bỏ lịng hư vinh,
chính là chúng ta phải học tập. Điều mà Khổng Tử muốn nói với Tử Lộ cũng
chính là điều này. Chúng ta cần phải học tập nhiều, học với tinh thần khiêm
tốn, trung thực. Khổng Tử viết:"Có những kẻ khơng biết mà cũng làm bậy, ta
không phải như họ vậy. Sau khi nghe nhiều, ta chọn những điều mà theo, sau
khi thấy nhiều, ta ghi nhớ điều ta chú ý. Nhờ vậy, ta trở nên bậc thứ tri" ("Cái
hưu bất tri nhi tác chi giả, ngã vô thi dã. Đa văn, trạch kỳ thiên giả nhi tịng
chi; đa kiến nhi thức tri, tri trí thứ dã" - Thuật nhi). Thư tri là là bậc biết hạng
nhì. Đối với thánh nhân là bậc hiểu biết tự nhiên. Bậc thứ tri thông hiểu đạo
lý, thi hành đúng phép nhờ nghe nhiều thấy nhiều.
Khổng Tử nói: "Học mà thường thường luyện tập chẳng vui lịng
chăng?, có bạn từ nơi xa đến học hỏi với mình chẳng vui lòng chăng? Người
15
ta khơng biết mình mà mình chẳng ốn giận, chẳng phải là quân tử chăng?
(Học nhi 1). Học liên tục, học đi học lại, thường xuyên suy nghĩ thấu suốt mọi
lẽ thì sẽ thấy vui trong lịng.
Phải ln cố gắng học tập, ham học hỏi, luôn học hỏi để mở rộng hiểu
biết. Khổng Tử nói "Người qn tử ăn khơng cần phải được đầy đủ, ở không
cần được yên vui, cần mẫn về việc làm, cẩn thận về lời nói, lại tìm đến người
có đạo đức để sửa mình, như thế gọi là người ham học vậy" (Học nhi 14). Học
hỏi những gì mình khơng biết thì tìm người để hỏi. Tử Hạ nói:"Mỗi ngày biết
được điều mình chưa biết, mỗi tháng khơng qn điều mình đã biết, có thể gọi
là người ham học vậy" (Tử trương -5). Chính Khổng Tử là tấm gương suốt
đời học tập. Ơng nói "Học để sau đó biết là khơng bao giờ đủ, dạy để sau đó
biết cịn nhiều khó khăn. Biết khơng đủ để tự mình cố gắng, biết khó khăn để
sau đó tự mình kiên cường lên. Do đó nói rằng: Dạy và học là việc suốt đời"
(Lễ ký học ký biên)
2.5. Giáo dục từ gia đình
Người Trung Quốc quan niệm nước là nhà lớn, nhà là nước thu nhỏ.
Muốn làm cái lớn thì phải làm từ cái nhỏ. Hiếu để là gốc của đạo nhân, gốc ở
gia đình. Nội dung giáo dục có nhiều nhưng chủ yếu là giáo dục chính danh.
Con em có làm đúng phận vị trong gia đình thì mới làm tốt phận vị
trong xã hội. Khổng Tử nói "Người con có hiếu khơng xúc phạm người trên,
khơng xúc phạm người trên mà làm loạn là chưa từng có" (Học nhi 2). Trong
sách Đại học, Khổng Tử có câu:"Có nên anh em đúng đắn mới dạy người
trong nước được" (Một nhà có nhân, cả nước dấy lên nhân"). Phải từ tu thân,
tề gia rồi mới trị quốc bình thiên hạ. Con cái phải làm tròn bổn phận với cha
mẹ nếu bất hiếu trời không dung đất không tha..
Thực hiện chính danh từ gia đình làm cơ sở cho chính danh tồn xã hội.
Nho giáo rất chú trọng giáo dục trong gia đình. Việc giáo dục từ gia đình rất
quan trọng và cần thiết. Khổng Tử là người đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc
mở trường đào tạo tư thục, đào tạo nhân tài và các tầng lớp cai trị cho xã hội.
16
Chương 3
LIÊN HỆ VỚI NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
3.1. Liên hệ với nền giáo dục Việt Nam trong thời đại ngày nay
Gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, ngành giáo dục và đào tạo
nước ta chẳng những đạt được những thành tựu nhất định góp phần quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam mà còn làm cho bản
thân ngành giáo dục và đào tạo có những chuyển biến đáng kể về mọi mặt.
Thành tựu nổi bật là quy mô giáo dục ở mọi cấp, mọi bậc trình độ học trong
và ngồi hệ thống giáo dục quốc dân đều tăng. Năm 2000, cả nước ta đã hoàn
thành phổ cập tiểu học và cơ bản xóa xong nạn mù chữ. Hiện nay đã có tới 20
tỉnh thành phổ cập xong trung học cơ sở. Giáo dục dạy nghề và trung học
chuyên nghiệp đã khởi sắc và có những tiền đề phát triển. Quy mơ giáo dục
đại học và cao đẳng trong hoàn cảnh nước ta cịn nhiều khó khăn thì tăng
nhanh như hiện nay có thể coi như hiện tượng đột biến. Hệ thống giáo dục
quốc dân tương đối hoàn thiện với đủ cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu thi cử, cơ cấu vùng miền, cơ cấu giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục, cơ cấu chuẩn hóa trong giáo dục, nề nếp kỷ cương trong giảng dạy và
học tập, thực hiện tự do công bằng trong giáo dục. Hệ thống giáo dục về cơ
bản cũng đã thích ứng được với những u cầu địi hỏi của tiến trình phát
triển kinh tế xã hội nước ta trong những năm đổi mới. Trong điều kiện nước ta
cịn nhiều khó khăn, cịn nghèo thì những thành tựu ấy có thể nói là rất đáng
tự hào.
Tuy nhiên nhìn lại nền giáo dục nước ta khơng tránh khỏi những băn
khoăn và cịn nhiều điều mà bản thân các nhà giáo dục còn lúng túng. Trước
hết là nền giáo dục nước ta tuy đã gần 20 năm đổi mới nhưng vẫn là nền giáo
dục nặng về thi cử, khoa bảng với nội dung giảng dậy "ổn định, đơn điệu",
người học học rất thụ động: học bài, nhớ bài và sao chép lại kiến thức.
17
Khổng Tử là người ln đề cao vai trị giáo dục đạo đức cho con
người. Ở Việt Nam, từ xưa đến nay cũng luôn coi trọng vấn đề đạo đức. Vấn
đề giáo dục nhân cách cho người học trị ln được các thầy cô giáo quan
tâm. Chúng ta đã và đang kế thừa và phát triển tư tưởng của người Trung
Quốc: "Tiên học lễ, hậu học văn". Trước tiên, con người phải học làm người,
học quy tắc ứng xử, lễ nghi, khn phép, sau đó rồi mới đến học văn. Ngày
nay, khi xã hội đã phát triển, mọi người bình đẳng với nhau, trong đó quan hệ
giữa thầy - trị khơng cịn gị bó, ép buộc như trước. Nhưng chúng ta vẫn giữ quy
tắc ứng xử, đạo đức chuẩn mực của người phương Đông. Mở lớp ở Việt Nam
ngày xưa có các thầy đồ dạy học tại nhà. Ngày nay, chúng ta có rất nhiều trường
tư thục, dân lập, nó đáp ứng một số lượng lớn nhu cầu học tập của người dân
hiện nay khi không đủ tiêu chuẩn để vào các trường cơng lập chính quy. Bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại một số bất cấp như: tiền học q cao sẽ dẫn đến nhiều
học sinh có hồn cảnh khó khăn sẽ khơng thể tham gia được; hoặc vấn đề chất
lượng còn chưa tốt, chưa đầy đủ thiết bị học tập, mặt bằng cơ sở.
Gần đây, Nhà nước ta ban hành chính sach cho sinh viên nghèo vay
vốn. Đây thực sự là hành động vơ cùng có ý nghĩa. Trước kia chung ta luôn
đưa ra ý kiến để giải quyết vấn đề của học sinh nghèo khơng có tiền để tiếp
tục học, nhưng chúng ta chưa đưa ra biện pháp. Sự ra đời của biện pháp này
thực sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với một bộ phận không nhỏ học
sinh, sinh viên ở Việt Nam.
Chủ trương giáo dục của chúng ta là mong muôn mọi người đều được
học hành. Trước kia chúng ta mong muốn xóa nạn mù chữ "diệt giặc dốt", khi
đó đất nước chúng ta còn đang chiến tranh, kinh tế kém phát triển. Nhưng
hiện nay khi đất nước đã và đang phát triển hơn trước rất nhiều, thì chúng ta
thực hành chính sách phổ cập giáo dục cấp I, cấp II, rồi tiến đến sẽ là những
bậc cao hơn. Rất nhiều trường học bổ túc, bán công, tư thục... đã được mở ra
đáp ứng nhu cầu của người học với những trình độ khác nhau.
Ở Việt Nam, có rất nhiều người đưa ra quan điểm về giáo dục, trong
đó Bác Hồ vĩ đại của chúng ta đã đóng góp những tư tưởng vơ cùng quý báu
18
góp phần vào sự nghiệp giáo dục cho đất nước. Đến nay những tư tưởng đó
của Người đang được chúng ta kế thừa và phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới đồng thời cũng là một nhà giáo. Theo tư tưởng của Bác
thì vấn đề giáo dục nhân cách là vấn đề hết sức lớn. Chúng ta xây dựng nhân
cách của con người vừa có đạo lý vừa có nhân lý, vừa có cơng lý, một cơng
dân có đặc điểm nhân cách riêng của mình là mục tiêu của giáo dục. Trong
cuộc đời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục cũng như tự giáo dục,
giáo dục nhân cách, Bác đã nêu cao tư tưởng, nhiệm vụ của giáo dục, trước
hết là dạy học sinh thế hệ trẻ, các sĩ quan thành người và làm người. Giáo dục
và tự giáo thành người và làm người là một nhân cách theo Hồ Chí Minh,
trước hết là phải hình thành cho được ở mỗi người tư cách, đạo đức tính cách
cùng năng lực tài năng. Con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh có cấu trúc
nhân cách đức và tài trong đó đức là nền tảng.
Muốn giáo dục con người để thành người và làm người phải xác định
được cấu trúc nhân cách con người. Hồ Chí Minh coi cấu trúc của nhân cách
bao gồm: Nhân, trí, dũng, liêm. Một con người có đạo đức, có sự hiểu biết,
sống trong sạch.
Mục tiêu của nền giáo dục mới theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đào tạo
"những người cơng dân có ích cho nước Việt Nam" "những cán bộ cho dân
tộc", những công dân tốt và cán bộ tốt - những người chủ tương lai tốt của
nước nhà. Muốn cho dân giầu nước mạnh thì dân trí phải cao, phải đa dạng
hóa các loại hình đào tạo, mở trường vừa học vừa làm để tạo điều kiện cho
người lao động, cán bộ chiến sĩ được đi học. Người yêu cầu phải quan tâm
đến giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho các dân tộc ít người, xóa những
thành kiến giữa các dân tộc, đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà,
thi đua học tập để góp phần mở mang q hương của mình. Khi dân trí cao sẽ
xuất hiện nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người nhấn mạnh
19
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa. Vì thế nền giáo dục mới phải đào tạo nên những người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Về phương pháp đào tạo nên những người tài đức, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ "học đi đơi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,nhà
trường gắn liền với xã hội". Chúng ta co thể thấy hàng loạt lời chỉ dẫn của
Người về vấn đề này trong các bài viết, bài nói, các bức thư của Người về
giáo dục.Mn trở thành người thực sự có tài năng và có ích, Bác nhắc nhở
"Các cháu học sinh khơng nên học gạo, không nên học vẹt... Học phải suy
nghĩ,phải liên hệ với thực tế,phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành
phải kết hợp với nhau. Bác dạy: "phải coi giáo dục thiếu nhi là một khoa học".
Mặc dù rất bận,người vân giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể sat sao cac phong
trào thi đua như: "dạy tốt, học tốt", đề xuất công tác Trần Quốc Toản, phong
trào kế hoạch nhỏ" cho các cháu thiếu nhi, nhi đồng nhằm tao nên môi trường
xã hội rộng lớn và thuận lợi cho phát triển giáo dục.
Bác luôn đánh giá cao vai trị của cac cơ giáo, thày giáo đối với xã
hội. Người nhấn mạnh: "Những người thày giáo tốt là nhưng người vẻ vang
nhất, là những anh hùng vô danh". Muốn được như vậy các cô giáo, thày giáo
trước hết phải trau dồi đạo đức cách mạng không ngừng rèn luyện chuyên
môn,phải là tấm gương sáng để học sinh noi theo,phải gương mẫu từ lời nói
đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em ruột của mình,
phải yêu nghề, yêu trường. Người nhấn mạnh, trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta mỗi thày giáo, cô giáo phải là những chiến sĩ trên mặt
trận đó. Lời dạy của Người đã đi sâu vào tâm thức của đội ngũ giáo viên,tạo
thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho hàng triệu thày giáo và học sinh thi đua
dạy tốt và học tốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng và lời dạy của
Người thì sẽ ln sống mãi trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ phát triển đất
nước của nhân dân ta.
20
3.2. Ý nghĩa tư tưởng của Khổng Tử đối với việc giáo dục ở nước
ta hiện nay
Những tư tưởng của Khổng Tử đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ý
nghĩa của nó là vơ cùng to lớn đối với việc giáo dục con người - "sự nghiệp
trăm năm trồng người". Những tư tưởng của Khổng Tử dễ hiểu và nó gần gũi
với người dân Việt Nam. Khi nghiên cứu những tư tưởng của ông, chúng ta
thấy được cái tiến bộ, tích cực để áp dụng đối với nền giáo dục Việt Nam một nền giáo dục hiện đang còn rất nhiều bất cập, phải thay đổi, đổi mới để có
thế sánh ngang tầm với các nước trên thế giới.
Mặc dù những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục được ra đời cách
đây hơn 2000 năm, nhưng cho đến nay nó vẫn mang tính thời sự. Để xây
dựng đất nước thì điều quan trọng là phải mở mang dân trí của nhân dân. Và
học không những mở mang kiến thức cho bản thân, mà còn để hành đạo giúp
đời. Ngày xưa, khi đất nước còn chiến tranh, còn loạn lạc, thì phải tiến thân
bằng con đường thi cử để giúp vua. Ngày nay, học để hành đạo giúp đời, đó là
để đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, cái quan
trọng khi nghiên cứu quan điểm giáo dục của Khổng Tử, chúng ta phải nhìn
nhận và đánh giá nó đúng để có thể áp dụng có hiệu quả vào đất nước ta.
Khổng Tử cho rằng, phàm là con người ai cũng phải học, vua phải học
để làm vua, quan phải học để làm quan, dân phải học để làm dân. Đây là đóng
góp hết sức căn bản của Khổng Tử, ngay cả trong thời đại ngày nay, khi mà
cánh cửa nền kinh tế tri thức đang mở ra, hướng nhân loại vào kỷ nguyên
khoa học - cơng nghệ thì việc học tập thường xun, suốt đời đã trở thành
hiện thực.
Khổng Tử rất coi trọng việc giáo dục đạo đức. Ngày nay bên cạnh coi
trọng vấn đề nhận thức cho con người thì việc giáo dục vấn đề đạo đức cho
con người càng cần được coi trọng hơn khi đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường, giá trị vật chất được coi trọng hơn giá trị tinh thần. Nếu những con
người như những cỗ máy rơbốt sống theo kiểu cơng nghiệp và khơng cịn
21
quan tâm đến mọi người, đến những giá trị truyền thống gia đình thì có thể
con người có thể đạt đến một trình độ văn minh nào đó nhưng đi kèm với nó
là sự suy đồi đạo đức. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, tệ nạn xảy ra khá
nhiều, nó là vấn đề đang đặt ra cho các nhà lãnh đạo.
Phương pháp giáo dục của Khổng Tử vẫn còn có ý nghĩa thời sự trong
việc dạy - học và tổ chức thi cử ở nước ta hiện nay. Khổng Tử nêu phương
pháp học: "Đó là học phải suy nghĩ, khơng nên học vẹt. Học mà khơng suy
nghĩ thì mờ mịt khơng hiểu, suy nghĩ mà khơng học thì nguy hại". Ngày nay
chúng ta phải phát huy sự sáng tạo của học sinh. Giáo viên nên đặt ra nhiều
câu hỏi suy luận, cách ra đề thi phải đòi hỏi sự tìm tịi sáng tạo của học sinh
để tránh tình trạng học tủ, học lệch.
3.3. Một số đề xuất về vấn đề giáo dục đối với nước ta hiện nay
Sau khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục, được tìm hiểu các quan điểm
của Khổng Tử về vấn đề này, em xin được đề xuất một số ý kiến của mình:
Trong lịch sử phát triển giáo dục ở nước ta, giáo dục luôn phải đương
đầu liên tục với sự biến đổi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục
ln phải thích ứng với những u cầu địi hỏi khác nhau của từng giai đoạn
phát triển xã hội. Giai đoạn hiện nay, xã hội nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng đang ngày một thắng lợi trong tiến trình cơng cuộc đổi mới xây dựng
chuyển đổi nền kinh tế tập trung, bao cấp, sơ cứng sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này hơn lúc nào hết đang cần phải
đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng với nhiều người tài giỏi ở nhiều lĩnh
vực khác nhau để có thể đáp ứng nhanh chóng, kịp thời với các thay đổi,
thách thức không chỉ đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội trong nước, mà
còn cả đối với khu vực và trên thế giới. Muốn được như vậy, chúng ta cần
nhanh chóng chuyển đổi nền giáo dục hiện nay theo hướng: Dân tộc - Hiện
đại - Chất lượng.
22
Nền giáo dục hiện đại là nền giáo dục trong một thời gian ngắn khơng
những có khả năng dành được tri thức tiên tiến của nhân loại, ứng dụng có
hiệu quả các tri thức vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã
hội, mà còn phát triển các tri thức này nữa.
Nền giáo dục là thế mạnh dẫn tới mọi thành công của đất nước trong
công cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là chìa khóa vàng
cho cộng đồng mỗi thành viên trong xã hội Việt Nam đạt được thắng lợi trong
môi trường thách thức cạnh tranh có thể nói là khốc liệt của xu thế tồn cầu
hóa hiện nay. Thế kỷ XXI là thế kỷ tri thức. Nhiệm vụ của nền giáo dục nước
ta thế kỷ XXI là xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện đại và chất lượng làm
nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội. Nền giáo dục mới không những tiếp
thu tri thức tiên tiến của nhân loại mà cịn ứng dụng nhanh, có hiệu quả và
tiếp tục sáng tạo, phát triển, làm nảy nở được lượng tri thức này ở tầm cao và
nhanh hơn. Giáo dục có chất lượng ở thời đại hiện nay chính là linh hồn của
một xã hội tri thức mà nước ta cũng như nhân loại đang kỳ vọng và hướng tới.
Học tập trí thức hiện nay khơng cịn là mục tiêu hàng đầu nữa vì trí
thức thực ra chỉ là phương tiện để giúp hiểu được bản chất khoa học, bản chất
sự việc…Vì vậy phải giảng dạy cho người học học cách tư duy, làm chủ
phương pháp học tập. Người học trong học tập không ỷ lại, không chỉ nghe
giảng một cách thụ động xuôi chiều. Ngược lại, biến người học thành người
đi tìm tri thức mới. Nhờ thế chất lượng bài giảng, nhất là chất lượng người
học sẽ tăng lên, năng lực tiếp cận với tri thức, với đổi mới, kiến thức của
người học được trau dồi và tự người học sẽ chủ động giải quyết những vấn đề
gặp phải, kể cả những vấn đề vừa mới xuất hiện. Người dạy hướng bài giảng
của mình theo hướng chất lượng, chuyển đổi cách dạy để thi cử sang hướng
giáo dục chất lượng. Giáo dục chất lượng cho người học là làm tăng khả năng
trau dồi trí tuệ của từng người, khả năng tự làm giàu tri thức của mình. Trong
nền giáo dục chất lượng khả năng tự tìm tịi khám phá, khả năng tự làm mới
mình trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Nhờ vậy người học cũng
được thay đổi theo hướng tích cực. Trong nền giáo dục nặng tính thi cử học
23
trị ln ở thể bị động, ngược lại trong nền giáo dục chất lượng ngồi việc giữ
gìn và phát triển truyền thống "tơn sư trọng đạo", trị ln ln kính thầy, thầy
ln q trị thì trước hết cần đảm bảo thầy và trị bình đẳng trước Luật Giáo
dục, trước các quy chế, quy định và các văn bản nói chung về giáo dục và đào
tạo. Những suy nghĩ, kiến nghị, tình cảm, ý định, nguyện vọng của người học
nhất thiết đều được tiếp nhận và tôn trọng. Thầy giáo luôn giữ vị trí giúp đỡ
người học đi đến với tri thức, đến với khoa học và cả đến với thực tiễn bằng
con đường ngắn nhất, mới nhất và có hiệu quả. Trong giáo dục chất lượng thì
trong giảng dạy người thầy phải luôn sáng tạo ngay trong từng bài giảng,
giảng phải sinh động, tạo bầu khơng khí ln sơi động trong lớp học, khích lệ
người học tham gia xây dựng bài, tham gia thảo luận, thảo luận theo nhóm,
hướng người học ln khát khao tìm hiểu được biết và biết những cái mới.
Trong mọi trường hợp người thầy phải tạo điều kiện cho người học ln có cơ
hội tốt nhất để tự suy nghĩ, tự tìm hiểu những gì đã học để có khả năng tự
mình giải quyết và quyết định.
Các truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng là nội dung
xuyên suốt các bộ môn, các mặt hoạt động, môi trường giáo dục cho tất cả các
lứa tuổi. Đó chính là nền tảng của giáo dục nói chung, giáo dục nhân cách,
nhân trí dũng nói riêng.
Thực hiện tốt việc giáo dục giá trị, trước hết là truyền thống dân tộc,
truyền thống cách mạng, dạy đạo làm người cho con em, biến thành vốn quý
của mỗi con người, từng gia đình, sức mạnh của từng địa phương và cả nước
vượt qua thử thách, nguy cơ. Tận dụng thời cơ thực hiện tốt nhiệm vụ cơ bản
của giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ nối tiếp cha anh giữ nền độc lập dân tộc và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tinh thần này cần được quán triệt vào
việc rà soát sửa đổi, bổ sung nội dung chương trình sách giáo khoa.
Giáo dục trong và ngồi nhà trường mọi cách tổ chức và giáo dục theo
tư tưởng chỉ đạo "giáo dục gắn với lao động sản xuất và nhà trường, xã hội"
đặc biệt với học sinh phổ thông trung học và trung học chuyên nghiệp dạy
nghê, cao đẳng và đại học phát huy kinh nghiệm tốt của nhà trường. Có
24
những cách thức và tạo điều kiện cho sinh viên, học sinh tăng cường thực tế,
đi thực tế, công tác xã hội…
Chúng ta cần tăng cường nguồn lực cho giáo dục, đào tạo và đầu tư
cho giáo dục, lập ra các quỹ giáo dục để hỗ trợ cho những sinh viên nghèo
vượt khó, trang bị cho trường lớp đúng và đủ u cầu. Khuyến khích các học
sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc.
Trong nền giáo dục chất lượng, mỗi người thầy còn phải là một nhạc
trưởng biết chỉ huy, điều phối, tạo khả năng tiềm tàng cho người học, giúp
người học tự biết đánh giá được mình, biết tạo cơ hội để vượt qua thách thức
trong tiến trình tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh - quốc
phịng, xây dựng thành cơng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa với mục tiêu:
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt khác, mọi gia đình phải làm tốt chức năng giáo dục đối với con
em mình. Gia đình và giáo dục gia đình là một giá trị hết sức đặc trưng của
nhân loại, nhất là ở phương Đơng. Giáo dục gia đình là nơi tốt nhất để giáo
dục các giá trị truyền thống. Kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường tạo
mơi trường giáo dục lành mạnh, trong đó người lớn, các bậc cha mẹ, các thầy
cô phải là tấm gương cho con em mình noi theo.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI - thế kỷ của tri thức hiện
đại, thế kỷ của nền kinh tế với những sản phẩm của nó chiếm một hàm lượng
chất xám cao, thế kỷ của xã hội thông tin.... Sống trong một bối cảnh như vậy
chắc chắn phải xây dựng và phải có được một nền giáo dục chất lượng, một hệ
thống giáo dục quốc dân hiện đại và chất lượng của riêng mình để có thể vượt
qua được các thách thức, góp phần đưa xã hội nhanh chóng nhập cuộc được với
các nước phát triển. Trên bước đường này, giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp có vị trí vơ cùng quan trọng. Cùng với các cấp, bậc học khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân, giáo dục đại học và giáo dục chuyên nghiệp một
mặt tiếp tục chuyển giao các tập truyền văn minh từ thế hệ này sang thế hệ
khác, mặt khác chịu trách nhiệm to lớn trong xã hội Việt Nam đương đại.
25