1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có sự
phát triển với nhiều nội dung mới, sâu sắc và toàn diện. Nội hàm cốt lõi của
bảo vệ Tổ quốc là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hịa bình ổn định để phát triển đất
nước. Điều này không chỉ thể hiện tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen
cả thời cơ và thách thức, mà còn biểu thị rõ quyết tâm của Đảng ta xây dựng
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cùng với những tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ và cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên tồn cầu, biến động
của tình hình thế giới, khu vực đã và đang đưa đến nhiều thuận lợi, thời cơ
nhưng cũng đặt ra khó khăn, thách thức, đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới
đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đó,
hơn bao giờ hết, chúng ta ln tỉnh táo, chủ động ứng phó và giải quyết linh
hoạt, hiệu quả mọi tình huống, góp phần đẩy mạnh cơng cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện tồn cầu hóa và hội nhập hiện nay, cần kết hợp chặt
chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để tạo được sức mạnh tổng hợp lớn nhất bảo vệ Tổ quốc. Trong
lịch sử, bất kỳ quốc gia nào dù trong thời chiến tranh hay hịa bình, chức năng
của quân đội vẫn là đội quân bảo vệ Tổ quốc. Để làm trịn chức năng đó, qn
đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của lực lượng cầm quyền nhằm bảo vệ chế độ,
bảo vệ nhà nước - bảo vệ chính lực lượng đã sinh ra mình. Vì vậy, nếu quân
đội không gắn với sự lãnh đạo của một đảng chính trị nào, một giai cấp điển
hình đại diện nào thì đó quan điểm vừa mơ hồ, ảo tưởng.
Đối với đất nước ta, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập,
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sáng suốt, quyết liệt, hiệu quả của Đảng,
Nhà nước, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc
2
phịng chủ động ứng phó, phịng, chống đại dịch Covid-19 nói chung và đợt
dịch Covid-19 lần thứ tư vừa qua càng khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ
xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn; Qua những kết quả đó,
đã góp phần làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, Quân
đội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Việc học tập, nghiên cứu về Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh hiện nay khơng
chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với tổ
chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơ quan chính trị các cấp trong Qn
đội, Cơng an nhằm khơng ngừng tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Cơng an
nhân dân, từ đó bảo vệ vững chắc nền độc lập của đất nước và xây dựng thành
công Chủ nghĩa xã hội.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
QUỐC PHÒNG, AN NINH LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN
1. Xuất phát từ vị trí, vai trị của quốc phịng, an ninh
1.1. Khái niệm về quốc phịng, an ninh
Quốc phịng “Là cơng cuộc giữ nước bằng sứ mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt”
An ninh “Là trạng thái ổn định, an tồn, khơng có dấu hiệu nguy hiểm,
đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức của từng
lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của tồn xã hội”
Quốc phịng, an ninh là hai lĩnh vực khác nhau song nó có quan hệ chặt
chẽ, gắn bó khơng tách rời nhau.
1.2. Vị trí, vai trị của quốc phịng, an ninh
Quốc phịng, an ninh là một bộ phân trung tâm không thể tách rời của
một quốc gia, liên quan đến sự tồn tại và phát triển của mọi quốc gia, dân tộc
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của quốc gia độc lập có chủ quyền
và tồn vẹn lãnh thổ, là hoạt động của cả nước, lấy lực lượng vũ trang làm
nòng cốt nhằm giữ vững hịa bình, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động
3
chống phá của kẻ thù, đồng thời sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược
dưới mọi hình thức, quy mơ. Vì thế, xây dựng và đấu tranh quốc phịng ln
thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa tính giai cấp-nhân dân-dân tộc; mang
đậm dấu ấn của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới;
phong phú về nội dung, linh hoạt, sáng tạo về hình thức và phương pháp; tập
trung, thống nhất về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Xác định đúng vị trí,
vai trị quốc phịng phản ánh tầm nhìn chiến lược của Ðảng về sự cần thiết
phải tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phịng, đồng thời chỉ rõ mối quan hệ
khơng thể tách rời giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế...
Quốc phịng, an ninh gắn bó mật thiết với q trình xây dựng và phát
triển đất nước, là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Nhà nước ta xác định “Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước bằng sức
mạnh tổng hợp của tồn dân tộc, trong đó sức mạnh qn sự là đặc trưng, lực
lượng vũ trang nhân dân làm nồng cốt”. và Nhà nước ta cũng xác định “An
ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa
và Nhà nước Cộng hòa xa hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Bảo vệ an ninh
quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi hoạt
động xâm phạm an ninh quốc gia”.
Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định “Củng cố quốc phòng, an
ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và tồn dân , trong
đó Qn đội nhân dân và Cơng an nhân dân là nòng cốt”.
Quốc phòng, an ninh là nền tảng của sự ổn định, phát triển bền vững
mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, đồng thời khẳng định sức mạnh của đất
nước trong hội nhập quốc tế hiện nay
Thực tiễn tình hình thế giới, nhất là những năm gần đây cho chúng ta
thấy rất rõ sự tác động và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển đất nước từ tình
4
hình an ninh chính trị, xung đột sắc tộc, tranh giành quyền lực xảy ra ở khơng
ít quốc gia. Lợi ích mà các phe phái tranh giành diễn ra ở một số quốc gia cho
thấy dường như không xuất phát từ lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc,
mà chủ yếu là vun vén, củng cố quyền lực và bảo vệ lợi ích cho một bộ phận
rất nhỏ trong xã hội. Hậu quả của sự tranh giành đó là đời sống khổ cực của
nhân dân; là tạo nên làn sóng di cư lớn; là kinh tế đất nước kiệt quệ; là nạn đói
nghèo, bệnh tật... Khơng ít quốc gia xảy ra nội chiến, mỗi năm có hàng chục
vạn người dân vô tội bị thiệt mạng, nguy cơ khủng hoảng nhiều vấn đề xã hội
hiện hữu. Từ cách nhìn khách quan đó, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng về thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phịng, an ninh có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Sự vững mạnh của quốc phòng, an ninh cho phép
chúng ta phát triển các lĩnh vực khác một cách bền vững. Đầu tư cho quốc
phòng, an ninh là đầu tư cho lâu dài, đầu tư cho sự ổn định. Quốc phòng, an
ninh được củng cố vững chắc chính là tạo ra tiềm lực đủ mạnh để bảo vệ
thành quả cách mạng mà các thế hệ người Việt Nam đã nối tiếp nhau sẵn sàng
hy sinh tất cả vì sự trường tồn của dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Quốc
phịng, an ninh được củng cố vững chắc còn là điều kiện quan trọng mở rộng
đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ
và cơng bằng xã hội.
Quốc phịng, an ninh giữ vai trò quyết định bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng
xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung
đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là
5
những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.
Quân đội, công an là lực lượng tin cậy nhất, trung thành nhất, tinh nhuệ
nhất trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, quân đội, công an vừa là lực lượng
trực tiếp thực hiện, đồng thời là lực lượng nồng cốt quy tụ sức mạnh của toàn
dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Quốc phòng, an ninh giữ vai trò chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó
với các mối đe doạn an ninh phi truyền thống mang tính tồn cầu, khơng để
bị động bất ngờ trước mọi tình huống.
Trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tuy nhiên vẫn cịn nhiều khó
khăn, thách thức đang đặt ra như: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; các vấn đề xã hội bức xúc, những
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân nếu không được khắc phục có hiệu quả sẽ là
nguy cơ tiềm ẩn đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh; Các vấn đề an
ninh phi truyền thống như ma túy, tiền ảo, tội phạm công nghệ cao, an ninh
kinh tế, năng lượng, dịch bệnh, khủng bố….Do đó mà quốc phịng, an ninh
cần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh thời
đại với sức mạnh dân tộc, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, an
ninh…Chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch.
Từ vị trí, vai trị, tầm quan trọng của quốc phịng, an ninh liên quan đến
sự tồn vong, an nguy của bất kỳ quốc gia dân tộc nào có độc lập chủ quyền.
Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh là
tất yếu khách quan.
2. Căn cứ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
6
Xuất phát từ thực tiễn lịch sử ra đời, hình thành, phát triển của Quân
đội ta. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, giai cấp và nhà nước, chiến
tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị - xã hội mang tính lịch sử. Sự
xuất hiện của chiến tranh và quân đội gắn chặt với sự xuất hiện của giai cấp
và nhà nước. Từ bản chất giai cấp và quy luật đấu tranh giai cấp, sự xuất hiện
của chiến tranh đã khẳng định sự ra đời của quân đội là tất yếu, phù hợp quy
luật lịch sử. Bất cứ quân đội nào cũng đều do giai cấp thống trị xã hội đó tổ
chức ra và là cơng cụ bạo lực vũ trang để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của
giai cấp ấy. Giai cấp thống trị xã hội bao giờ cũng nắm quân đội để thực hiện
mục đích chính trị của giai cấp mình. Đây là vấn đề mang tính quy luật về sự
lãnh đạo của giai cấp thống trị xã hội đối với quân đội do giai cấp đó tổ chức
ra. Như vậy, khơng có bất cứ qn đội nào trung lập về chính trị, khơng bảo
vệ lợi ích của giai cấp nào trong một chế độ xã hội nhất định. Từ lý luận của
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, quy luật
đấu tranh giai cấp, chiến tranh và Quân đội.
Đảng ta, khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt của Đảng tháng 02/1930
đã khẳng định quan điểm cách mạng bạo lực để giành chính quyền. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề xuất việc tổ chức ra Qn đội cơng nơng, sau đó Luận
cương chính trị tháng 10/1930 cũng nêu rõ vấn đề “Vũ trang cho công nông”,
“Lập quân đội công nông” và “Tổ chức đội tự vệ công nông”.
Từ mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, đối tượng, đặc điểm tổ chức và
hoạt động của Quân đội ta. Đảng ta cho rằng, việc tổ chức ra Quân đội để
tiến hành đấu tranh cách mạng xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị trong quần
chúng cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng và tổ chức, lãnh đạo
chặt chẽ lực lượng quân sự của mình, khẳng định dứt khốt quyền lãnh đạo
Qn đội thuộc về một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, không
phân quyền lãnh đạo Quân đội cho bất cứ một giai cấp, một tổ chức, một
đảng phái nào khác.
7
3. Xuất phát từ kinh nghiệp, thực tiễn cách mạng Việt nam và một
số nước trên thế giới
Thực tiễn và kinh nghiêm lãnh đạo quân đội của các nước, các Đảng
cộng sản và kinh nghiệm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta
đã chứng minh. Từ thực tiễn xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến
thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt hơn 76 năm
qua. Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam; Quân đội phục tùng sự lãnh đạo của Đảng là hai mệnh đề song
hành ngay từ khi mới thành lập Quân đội cho đến nay, đã tồn tại trong suốt
quá trình xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta. Đội Việt
Nam Tuyên truyền giải phóng quân khi mới ra đời đã là đội quân mang bản
chất của giai cấp công nhân Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản chất giai cấp của Quân đội ta là bản
chất giai cấp công nhân và Quân đội là của nhân dân, do Đảng Cộng sản - đội
tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Bất cứ một giai cấp, một Đảng nào lên nắm quyền thống trị xã hội thì
Đảng của giai cầp ấy phải lănh đạo chặt chẽ Quân đội. Xa rời hay buông lỏng
sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội sớm hay muộn cũng sụp đổ.
Từ đặc điểm đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù đối với cách mạng nước ta và nhiệm vụ xây dựng Quân đội ta
trong giai đoạn Cách mạng mới.
Tình hình trên đặt ra càng phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
vững chắc của Đảng đối với Quân đội bảo đảm cho Quân đội luôn trung thành
với Đảng, với Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa, với nhân dân, sẵn sàng nhận và
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Như vậy, thực tiễn đã chứng minh lịch sử xây dựng, chiến đấu, trưởng
thành của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn gắn liền với sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
8
Minh khẳng định: “Qn đội ta có sức mạnh vơ địch, vì nó là một qn đội
nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Đảng lãnh đạo
Quân đội là vấn đề nguyên tắc và đã được thực tế kiểm nghiệm, khơng ai có
thể phủ nhận được.
Sự sụp đổ của một loạt các nước xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm
80, đầu năm 90 của thế kỷ XX có rất nhiều nguyên nhân nhưng một trong
những ngun nhân trực tiếp, quan trọng có tính quyết định là do đảng cộng
sản các nước đó đã bng lỏng, từ bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninh với lực lượng vũ trang.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
QUỐC PHÒNG, AN NINH
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng tiếp tục khẳng định “Mục
tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế đội xã hội chủ nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị,
bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta…Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối
với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng – an
ninh”.
Thực tiễn xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân
Việt Nam dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân
đội ta đã thường xuyên quán triệt, thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quân đội ta luôn lấy
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của
9
cách mạng, của dân tộc làm mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Quân đội luôn nhận rõ kẻ thù của nhân dân, của dân tộc;
xác định đúng đối tượng tác chiến; vận dụng, phát triển sáng tạo nghệ thuật
quân sự truyền thống của dân tộc, ln kề vai, sát cánh, đồn kết, gắn bó máu
thịt với nhân dân, tạo nên sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc - sức mạnh vơ
cùng to lớn để chiến đấu và giành những chiến thắng vĩ đại, đánh bại những
tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn nhiều lần. Nhờ có sự
lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã xây dựng được sức mạnh chiến đấu vô địch,
trở thành một trong những quân đội bách chiến, bách thắng ở thế kỷ XX.
Thực tiễn đó là khơng thể phủ nhận. Hơn thế còn là minh chứng thuyết
phục nhất để bác bỏ mọi luận điểm xun tạc, kích động địi tách Qn đội ra
khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Những luận điểm phi lý này của các thế lực thù
địch, phần tử cơ hội chính trị chắc chắn sẽ chết yểu cũng như mọi mưu đồ
chống phá cách mạng Việt Nam, đi ngược lại quy luật sẽ tất yếu thất bại.
Đảng cộng sản Việt Nam, không chỉ tổ chức ra Quân đội nhân dân Việt
Nam, mà còn lãnh đạo, rèn luyện và xây dựng Quân đội thực sự là một đội
quân cách mạng, mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, luôn
phát huy bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang, hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ của Đảng, Nhà Nước giao cho.
Lãnh đạo tuyệt đối: Đảng ta khẳng định dứt khoát quyền lãnh đạo Quân
đội là thuộc về Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng cộng sản Việt nam là Đảng
duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lãnh đạo của Đảng
đối với Quân đội là tuyệt đối, không chia sẻ quyền lãnh đạo đó cho bất kỳ một
tổ chức, đảng phái, hay một cá nhân nào khác.
Lãnh đạo trực tiếp: Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là trực tiếp
không thông qua một khâu trung gian, một tổ chức trung gian nào.
Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” là nguyên tắc bất biến,
nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, nhân tố quyết định mọi
10
thắng lợi, bảo đảm cho Quân đội ta ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc.
Đảng cộng sản VN lãnh đạo về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam:
Lãnh đạo mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động, lãnh đạo mọi tổ chức, mọi
lực lượng, mọi đơn vị trong Quân đội; Lãnh đạo tất cả các lĩnh vực hoạt động
chính trị, tư tưởng, tổ chức; Lãnh đạo tất cả các mặt cơng tác qn sự, chính
trị, hậu cần, kỹ thuật; Lãnh đạo trong tất cả các nhiệm vụ chiến đấu, huấn
luyện, xây dựng, lao động sản xuất và làm nhiệm vụ quốc tế; Sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội tập trung thống
nhất vào Ban chấp hành trung ương mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính
trị, Ban Bí thư.
2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninh
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp quốc phịng, an ninh tồn
diện: hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược…; tổ chức xây dựng tiềm
lực, lực lượng, thế trận và hoạt động quốc phòng, an ninh.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội
thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: Đảng định ra đường lối, nhiệm vụ quân
sự (bao gồm đường lối xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân); Lãnh đạo nghiên cứu xây dựng
và phát triển nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam; Lãnh đạo
việc bảo đảm vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật và tổ chức nuôi dưỡng
bộ đội; Lãnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội; Lãnh đạo tiến
hành công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đồng thời phải chú trọng xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong
sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, thật sự
là hạt nhân lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc.
11
III. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH
1. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách quốc phịng, an ninh
Đảng khơng những đề ra đường lối, chủ trương quân sự, bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội; xác định phương hướng phát triển
tiềm lực quân sự, quốc phòng, an ninh của đất nước; xác định các chủ trương,
giải pháp nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội, Đảng bộ Cơng an
mà cịn lãnh đạo việc tổ chức hiện thực hóa quan điểm, đường lối xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đảng
Cộng sản Việt Nam, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Quân ủy Trung ương quyết định những vấn đề về xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; trở thành lực
lượng tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, trở thành lực
lượng nịng cốt cùng tồn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và
tích cực, chủ động tham gia xây dựng đất nước. Đảng, Nhà nước thống nhất
chỉ huy, quản lý lực lượng vũ trang theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Đây là yếu tố căn cốt đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ
trang. Cùng với quy định của pháp luật, Đảng ln nêu cao tinh thần tự hồn
thiện nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với
lực lượng vũ trang.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo, tổ chức đảng các cấp trong Quân đội
và Công an phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm chủ trương, quan
điểm, đường lối về quân sự, quốc phòng an ninh của Đảng; đồng thời, phải
thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực quân
sự, quốc phòng, bảo vệ an ninh, trật tự; thực hiện có hiệu quả các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, Nhà nước về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây
dựng vững chắc nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và
sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới.
12
Chỉ đặt dưới sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang
mới giữ vững bản chất của đội quân cách mạng, của dân do dân và vì dân,
mới phát huy được vai trò trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi
ích của nhân dân. Do vậy, sự lãnh đạo lực lượng vũ trang của Đảng không thể
phân chia cho bất kỳ ai hay lực lượng tổ chức chính trị nào khác. Nhà nước
thống nhất quản lý chặt chẽ lực lượng vũ trang, trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật.
2. Đảng lãnh đạo Nhà nước thế chế hóa đường lối,
chính sách quốc phịng, an ninh thành pháp luật, chính
sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng gắn với tăng
cường sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang cách
mạng quan hệ chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại”. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng nhằm
giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
Nhà nước quản lý thống nhất lực lượng vũ trang trên cơ sở thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luật
pháp; đồng thời, không ngừng cải cách tổ chức và
hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Kịp thời điều chỉnh chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, các
Bộ và cơ quan ngang Bộ khác, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương cho
phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với lực lượng vũ trang; không
ngừng củng cố, hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chỉ huy các cấp trong các cơ
quan, đơn vị trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt
Nam, Dân quân tự vệ. Nỗ lực cải tiến phương pháp, lề lối làm việc; xác định
rõ nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp vận hành của bộ máy lãnh đạo,
quản lý, chỉ huy các cấp của các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang.
13
Duy trì nghiêm cơ chế lãnh đạo để Đảng ln ln nắm chắc được lực lượng
vũ trang trong mọi tình huống.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, các chủ trương, quan điểm của Đảng
về các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh phải được thể chế hoá thành các văn
bản pháp luật và được thực hiện bằng các cơ chế quản lý nhà nước. Nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước đối lực lượng vũ trang là nhiệm vụ quan trọng
trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, cần chủ động đề xuất xây dựng, ban hành
các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quốc phòng, an ninh làm cơ sở để
xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc,
giữ môi trường ổn định để phát triển đất nước.
3. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống tổ chức đảng hoạt động trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Đảng lãnh đạo quốc phòng, an ninh bằng hệ thống tổ chức đảng từ
Trung ương tới cơ sở. Hệ thống tổ chức của Đảng được thiết lập tương ứng
với tổ chức hành chính của Nhà nước, trong bộ máy Nhà nước và các tổ chức
của hệ thống chính trị.
Quân ủy Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, đặt dưới sự lãnh đạo của
Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban
Bí thư. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
trực tiếp làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Cấp ủy đảng trong bộ đội chủ lực
và bộ đội biên phòng ở cấp nào do đại hội cấp đó bầu, lãnh đạo các đơn vị
thuộc cấp mình về mọi mặt đồng thời chấp hành Nghị quyết của Đảng ủy
quân sự cấp trên về nhiệm vụ quốc phịng tồn dân và cơng tác qn sự địa
phương. Đảng ủy Cơng an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, đặt dưới sự
lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị,
Ban Bí thư. Đảng ủy Cơng an Trung ương có sự tham gia của Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam và ủy viên Bộ Chính trị là Chủ tịch nước và Thủ
tướng Chính phủ. Cấp ủy cơng an cấp nào do đại hội cấp đó bầu, lãnh đạo các
đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt. Tổ chức đảng Cơng an nhân dân địa
14
phương cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy địa
phương cấp đó, đồng thời chấp hành nghị quyết của Đảng ủy Công an cấp
trên về giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo xây dựng
đảng bộ trong sạch vững mạnh.
4. Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức, phát huy
vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng
viên hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Đảng xác định những quan điểm, đường lối, nguyên tắc tiến hành công
tác cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ,
phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt
động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
5. Đảng lãnh đạo bằng tổ chức và hoạt động cơng tác đảng, cơng
tác chính trị trong lĩnh vực quốc phịng, an ninh
Tổng cục chính trị Qn đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm công tác
đảng, công tác chính trị trong tồn qn, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban
Bí thư và trực tiếp thường xuyên là của Quân ủy Trung ương. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng, hiệu lực,
hiệu quả cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh về chính trị, làm nịng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới”
6. Đảng lãnh đạo bằng cơng tác kiểm tra, giám sát hoạt động của
nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân
Thông qua kiểm tra, giám sát việc quán triệt tổ chức thực hiện mọi
đường lối, chủ trương, quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh để phát hiện, khuyến khích, phát huy
những nhân tố mới, những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, thiếu sót, chỉ đạo
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm
trong q trình tổ chức thực hiện đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh.
15
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP QUỐC PHỊNG, AN NINH TRONG
TÌNH HÌNH HIỆN NAY
1. Kết hợp chặt chẽ xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng; bảo vệ vững
chác an ninh chính trị nội bộ
Về chủ trương, định hướng: Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, phải
chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Kết hợp xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng,
bảo vệ vững chắc chính trị nội bộ; bảo vệ vững chắc vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội; đạp tan âm mưu, hoạt động phá hoại, tác
động chuyển hóa từ bên trong của các thế lực thù địch.
Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là: Tập trung củng cố, xây dựng tổ
chức Đảng từ Trung ương đến địa phương trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức. Chủ động ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống; những biểu hiện mất đoàn kết, bè phái, cục
bộ, kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…
2. Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa – xã hội với quốc
phịng, an ninh
Thường xun làm tốt cơng tác tun truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức cho toàn dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận thức rõ và vạch trần
những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động nguy hại của các thế lực thù
địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán
bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và cho toàn dân. Lựa chọn nội dung và
đa dạng hóa các hình thức tun truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp
luật phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Chủ động trong cuộc đấu
tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và
hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo người dân
16
tham gia. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây
dựng và bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nắm chắc nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thường xuyên,
trọng yếu. Giải quyết hợp lý, hài hòa việc phát triển bền vững, sáng tạo, bao
trùm kinh tế - xã hội đất nước với xây dựng Qn đội nhân dân và Cơng an
nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
3. Mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, thường xuyên giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng, củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Cho đến nay, nước ta đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với
tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè
truyền thống, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế
đối với công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Nước ta đã có quan hệ ngoại giao
với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3
nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác
toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có
trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp
quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO...
Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại
của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ
động, tích cực và đi vào chiều sâu. Trong đó, Đảng ta đã có quan hệ với 247
chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và cơng nhân
quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trị quan trọng. Quốc hội
có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực
tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Hoạt động đối ngoại của
Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an ninh, kinh tế, văn hố xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen
17
lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức hữu nghị của nhân
dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu
nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng cơng cuộc đổi mới, hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.
Đối ngoại đóng vai trị tiên phong trong việc giữ vững mơi trường hồ
bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Các vấn đề biên giới với
các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện
thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, giữ vững đường biên giới hồ bình, hữu nghị,
hợp tác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần vào việc củng
cố hồ bình, ổn định trong khu vực. Đối với những vấn đề phức tạp về biên
giới lãnh thổ, nước ta luôn giương cao ngọn cờ hịa bình, hợp tác, tích cực
trao đổi, đàm phán với các nước liên quan kiểm soát bất đồng, tìm kiếm giải
pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hồ bình trên cơ sở
luật pháp quốc tế
4. Củng cố vững chắt khối đại đoàn kết tồn dân tộc
Xây dựng thế trận lịng dân, thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an
ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” là một
nội dung quan trọng trong phần những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa đất
nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, được nhấn mạnh trong văn
kiện Đại hội XIII của Đảng. So với các kỳ đại hội trước, thế trận lòng dân
được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ với thế trận quốc phịng tồn dân và
thế trận an ninh nhân dân. Đó là sự khẳng định, bổ sung, thể hiện sự phát triển
mới trong tư duy của Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng và nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc.
Củng cố vững chắc thế trận lịng dân khơng chỉ tạo tiền đề cho nhiệm
vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đó cịn là sự
kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
18
tộc đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vào tình hình mới của
đất nước.
Thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”, quy chế dân chủ cơ sở trong mọi lĩnh vực, nhất
là những vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân. Thực hiện tốt
chính sách dân tộc, tơn giáo của Đảng và Nhà nước. Tăng cường quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo.
5. Kiên quyết làm thất bại hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận sự lãnh đạo
của Đảng với sự nghiệp quốc phòng, an ninh
Đấu tranh chống lại những luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh là nội dung cơ
bản, thể hiện sâu sắc tính chính trị - thực tiễn trong bảo vệ quan điểm xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân của Đảng. Đặ biệt là những
luận điệu thù địch, xuyên tác về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với qn đội ta.
Nhận thấy khơng xóa được chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nếu
khơng xóa được vai trị lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, các thế lực thù
địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Họ cho rằng, “quân đội do nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước,
không phục tùng đảng phái nào”. Họ viện dẫn thực tiễn ở các thể chế chính trị
tư sản với chế độ đa đảng, quân đội không do đảng nào lãnh đạo. Dựa vào đó,
họ phủ nhận nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam”; đòi bỏ quy định “Lực
lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng” ở Điều 65, Hiến
pháp 2013...
Mục tiêu nhất quán của những thủ đoạn trên là thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng cách
mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vơ hiệu hóa vai
19
trò Quân đội ta là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Chủ động đấu tranh, phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhưng
rất bức thiết, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải ln nêu cao tinh thần
cảnh giác, tích cực xây dựng nội bộ đơn vị mình, tổ chức mình vững mạnh
tồn diện để khơng có ai dao động trước những thủ đoạn xuyên tạc của các
thế lực thù địch. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực
hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nghiên cứu, các học
viện, nhà trường; phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí đối với nhiệm
vụ đấu tranh phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội. Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực
lượng; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận nòng cốt, chuyên sâu; tổ
chức đấu tranh bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại
chúng, qua hệ thống giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền miệng và trên
mạng xã hội, internet.
Phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng đối với
qn đội là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó nhiệm vụ
thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên,
trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vai trò nòng cốt. Kết hợp chặt chẽ
giữa “xây” và “chống”; giữa phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với xây
dựng nội bộ vững mạnh là phương thức hữu hiệu để làm thất bại mọi mưu đồ
chống phá của các thế lực thù địch.
6. Các bộ, ngành, địa phương tích cực, chủ động cụ thể hóa Nghị
quyết của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc
20
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ “Bổ sung, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phịng, an ninh và liên
quan tới quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”. Cùng với việc luật hóa,
quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phịng, an ninh cần phải được cụ thể
hóa trong các chương trình, kế hoạch hoạt động của từng bộ, ngành, địa
phương. Đồng thời, chính quyền các cấp phải tiến hành thanh tra, kiểm tra
thường xuyên để biểu dương, khen thưởng những việc làm tốt, làm đúng, phát
hiện xử lý những nơi chưa làm tốt để uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời.
IV. LIÊN HỆ THỰC TẾ VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH
CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ AN TỒN XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH HIỆN
NAY TẠI XÃ PHẠM VĂN CỘI
Đối với xã Phạm Văn Cội, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân xã trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
vận dụng trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững quốc
phòng – an ninh của địa phương, cùng với truyền thống Anh hùng trong chiến
đấu và Anh hùng trong thời kỳ đổi mới, những năm qua, dưới sự lãnh đạo
toàn diện, trực tiếp, tập trung, thống nhất của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân xã, cơng tác quốc phịng, qn sự địa phương đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội trên địa bàn; thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân được củng cố và ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, góp phần
phát triển mọi mặt về kinh tế - xã hội tại địa phương.
Trên cơ sở những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, quán triệt sâu sắc chủ trương,
quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã đã ban hành đồng bộ hệ thống
văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện cơng tác quốc phịng, qn sự
địa phương và các biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang, nền quốc phịng
tồn dân và an ninh nhân dân trên địa bàn xã.
21
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế vững mạnh, kết hợp kinh tế với quốc phòng - quốc phòng với
kinh tế; phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn
mới; đầu tư phát triển kinh tế gắn với xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân,
thế trận an ninh dân dân ngày càng vững chắc; xây dựng lực lượng dân quân
tự vệ, dự bị động viên và các lực lượng thường trực của địa phương sẵn sàng
chiến đấu…
Những năm qua, cấp ủy, chính quyền đã quan tâm tăng cường cơng tác
giáo dục tư tưởng chính trị, nhất là giáo dục cán bộ, đảng viên trong việc bảo
vệ quan điểm, đường lối của Đảng, đấu tranh phản bác những luận điệu thù
địch, xuyên tạc của các thế lực thù địch đặc biệt là trên không gian mạng hiện
nay. Để nâng cao nhận thức về công tác quốc phòng, quân sự địa phương,
từng thành viên trong cấp ủy, cán bộ chủ chốt luôn gương mẫu đi đầu, nắm
vững và quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối của Đảng về cơng tác
quốc phịng, các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên cũng như yêu
cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tế của địa phương. Thường xuyên nâng cao
cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, nâng
cao ý thức trách nhiệm trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Kết quả tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ: đã xây dựng tổng
số dân quân tự vệ là 184 đồng chí, đạt 1,92% so với dân số.
Kết quả kiện toàn Ban Chỉ huy quân sự xã: đồng chí Chỉ huy trưởng
Qn sự tham gia cấp ủy, có trình độ chun mơn qn sự cơ sở là cao đẳng
và đang học Đại học, Chỉ huy phó Quân sự có trình độ từ Trung cấp qn sự
cơ sở trở lên.
Trong thời gian tới, để chủ động đối phó với các tình huống có thể xảy
ra, kiên quyết góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, xã sẽ tiếp tục tập trung
nâng cao năng lực lãnh đạo đối với công tác quân sự, quốc phòng địa
phương. Cấp ủy thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo tin cậy trong tổ chức
22
đảng, chính quyền, lãnh đạo và vận hành hiệu quả hệ thống chính trị thực
hiện tốt đường lối, quan điểm chính trị, quân sự của Đảng; nắm vững các
nguyên tắc tiến hành chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ
vững mạnh; tập trung cao cho xây dựng địa phương phục hồi và phát triển
về kinh tế trong bối cảnh vừa phòng chống dịch bệnh Covid-19 vừa phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố vững chắc tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế
trận an ninh nhân dân, để mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tiếp tục phát động có hiệu quả phong
trào tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; thường xuyên và chủ động sẵn sàng
với mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra, không để bị động, bất ngờ trước
mọi tình huống.
Dự báo trong năm 2022 cùng với diễn biến dịch bệnh Covid-19 cịn
phức tạp, tình hình thế giới và khu vực cịn những biến động khó lường
trong cơng tác lãnh đạo về quốc phòng, an ninh thời gian tới cấp ủy, chính
quyền xã xác định tập trung thực hiện các nội dung cơ bản như sau:
Lãnh đạo, chỉ đạo nắm chắc tình hình, phối hợp chặt chẽ, bảo đảm an
ninh trật tự, an toàn xã hội trước, trong và sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần
2022, giải quyết dứt điểm, hiệu quả, xử lý nghiêm các đối tượng trục lợi về
các chính sách của Đảng, Nhà nước, kích động nhân dân. Các ngành triển
khai có chất lượng, kịp thời nhiệm vụ, chỉ tiêu, kế hoạch đã đề ra trong năm
2022. Tiếp tục duy trì xây dựng khu vực phịng thủ vững chắc, nắm chắc
tình hình, sẵn sàng lực lượng, phương tiện, chủ động trước mọi tình huống
thiên tai, dịch bệnh. Tăng cường phối hợp giữa các lực lượng, và các địa
phương lân cận thực hiện tốt công tác bảo đảm trật tự an tồn giao thơng, tấn
cơng trấn áp các loại tội phạm.
Triển khai, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phịng, an ninh gắn với phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trong cơng tác phịng, chống dịch
COVID-19. Tiếp tục tập trung các nguồn lực để phòng, chống dịch COVID19 theo đúng phương châm: Thích ứng an tồn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả
23
dịch COVID-19, từng bước khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, an toàn xã hội.
Tập trung thực hiện nhiệm vụ tuyển gọi công dân nhập ngũ, đủ chỉ
tiêu, đảm bảo chất lượng tốt.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước liên quan đến cơng tác quốc
phịng, an ninh, nhất là lĩnh vực tơn giáo, vấn đề đất đai, mơi trường, phịng
cháy, chữa cháy, trật tự an tồn giao thơng...; khơng tạo sơ hở cho các phần
tử xấu lợi dụng, chống phá.
Tập trung trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, nhất là đảm bảo an
ninh, trật tự trước, trong và sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022; kiên quyết
không để hình thành tội phạm “xã hội đen”, tội phạm có vũ trang, tội phạm núp
bóng doanh nghiệp. Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc;
củng cố nền quốc phịng tồn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân.
24
PHẦN III: KẾT LUẬN
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn quân, toàn dân; kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với quốc
phòng an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế; ra sức củng cố, xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, mà nòng cốt là
quân đội nhân dân, an ninh nhân dân, không ngừng nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức chiến đấu của quân đội đáp ứng yêu cầu tác chiến mới, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc địi hỏi bản lĩnh chính trị vững vàng của quân đội trong điều kiện mới
phải được thể hiện ở việc nhận thức rõ mục tiêu chiến đấu, tích cực đấu tranh
bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, không dao động, ngả nghiêng trước
những diễn biến phức tạp của tình hình và sự tiến cơng hiểm độc của các thế
lực thù địch.
Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa quy định bản chất, quy luật
vận động, phát triển quốc phịng nước ta. Vì vậy, tăng cường quốc phòng gắn
liền với tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối
với Quân đội nhân dân và công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về quốc phòng. Các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế,
chính sách về quốc phịng, an ninh phải được hoàn thiện trong điều kiện mới.
Hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân đội, công an và các tổ
chức chính trị - xã hội... phải ln được bổ sung, hồn thiện. Do đó cần phải
tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn về xây dựng lực
lượng và thế trận quốc phịng tồn dân; về các mối quan hệ giữa quốc phòng,
an ninh đối ngoại; giữa đối tượng, đối tác với phân biệt rõ bạn, thù; giữa hoạt
25
động chống phá của các thế lực thù địch với những sai lầm, yếu kém của ta để
không rơi vào chủ quan, hoặc mơ hồ, ảo tưởng.
Quan điểm tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Ðảng, Nhà nước và
nhân dân ta, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng
cốt, cần được quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, nhất quán, đồng bộ,
hiệu quả trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân và mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Vì vậy, phải kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện thiếu nghiêm
túc, đơn giản trong nhận thức về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng
nền quốc phịng tồn dân; chậm trễ, máy móc, chủ quan, ỷ lại, lúng túng
trong triển khai và xử lý tình huống phức tạp nảy sinh về quốc phịng, an
ninh; bng lỏng, mất cảnh giác, kém hiệu quả trong việc gắn kết giữa phát
triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt
là tại các vùng chiến lược, biển đảo; bất cập, tụt hậu về phát triển nguồn lực
con người và hịa nhập với cơng nghiệp quốc gia trong phát triển cơng nghiệp
quốc phịng; mất cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế
lực thù địch, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ./.