1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm bởi chỉ có con đường cơng nghiệp, hóa hiện đại
hóa mới đưa nước ta trở nên giàu mạnh, đồng thời xây dựng được một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội, từ đó rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, hòa vào
dòng thác chung của nhân loại. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức là một quá trình phát triển. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng về mọi mặt như hiện nay, bên cạnh việc thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, các quốc gia muốn phát triển đều phải gắn cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế tri thức.
Do đó, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
là bước đi tất yếu mà Việt Nam sẽ phải trải qua. Để từng bước thực hiện thành
công mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, mục tiêu tổng quát của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định
tại Đại hội lần thứ VII và tiếp tục khẳng định qua các kỳ Đại hội sau đó.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
1. Tính quy luật của cơng nghiệp hóa
Vào thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở
các nước Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là q trình thay thế lao động
thủ cơng bằng lao động sử dụng máy móc. Khái niệm cơng nghiệp hóa mang
tính lịch sử, tức là ln có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất
xã hội, của khoa học - công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm
này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn
cả về lý luận và thực tiễn. Xét trên phạm vi thế giới, công nghiệp hóa là một
giai đoạn phát triển lịch sử. Đó là q trình khơng chỉ đơn thuần, giới hạn là
những biến đồi về kinh tế mà còn bao gồm cả các biến đổi về văn hóa và xã
hội từ trạng thái nông nghiệp lên công nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp
lên nền văn minh công nghiệp. Cho nên công nghiệp hóa là con đường tất yếu
2
của mọi quốc gia trên con đường phát triển để vươn lên trở thành nền kinh tế
hiện đại. Nguyên nhân do tác động của quy luật phát triển lực lượng sản xuất;
tác động thúc đẩy bởi tiến bộ về tri thức và khoa học công nghệ; tác động
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
2. Sự cần thiết đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức là sự lựa chọn tối ưu để rút ngắn khoảng cách tụt hậu
Đất nước ta chịu hậu quả nặng nề từ sự xâm lược của các nước thực
dân, đế quốc, đã làm cho cơ sở vật chất, kinh tế nước ta gặp vơ cùng khó khăn
khi giành được chính quyền và giành độc lập, thống nhất đất nước. Đồng thời
nước ta là nước đi sau, nên tất yếu Việt Nam phải lựa chọn con đường cơng
nghiệp hóa rút ngắn. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà khoa học, công nghệ
phát triển như vũ bảo thì phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ tất yếu mà Đảng và Nhân dân ta
phải thực hiện. Đặc biệt trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và
sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của
cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. nếu việc sản xuất của cải của một quốc
gia trong nền kinh tế nông nghiệp dựa chủ yếu vào cơ bắp của con người và
tài nguyên thiên nhiên, cịn trong nền kinh tế cơng nghiệp tuy đã có sự trợ
giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên
vẫn là chủ yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trị quyết định
hàng đầu. Kinh tế tri thức là nền kinh tế được phát triển chủ yếu dựa vào tri
thức và công nghệ hiện đại. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung cũng như
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
nước ta nói riêng vẫn tiếp tục phát triển trong tình trạng kinh tế thế giới diễn
biến nhanh chóng và chứa đựng những yếu tố khó lường; cách mạng khoa học
và cơng nghệ vẫn tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao hơn, tăng
nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thế giới, quốc tế hóa kinh tế và đời sống xã hội. Trong điều kiện mới
đó, gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức là xu
hướng lựa chọn tối ưu của các nước đang phát triển. Hiện nay, có khoảng
3
50% dân số thế giới thuộc các nước đang phát triển. Nước đang phát triển
khác hẳn nước phát triển là nền kinh tế chưa được cơng nghiệp hóa, các nước
này phải đối mặt với khơng ít thách thức trong điều kiện hiện nay. Trong nền
kinh tế thế giới, các nước đang phát triển thường xuyên phải đối mặt với các
thách thức về cạnh tranh, điều kiện tài chính bên ngồi và hoạt động xuất
nhập khẩu. Để thóat khỏi tình trạng lạc hậu, trong những thập kỷ gần đây, các
nước đang phát triển đã tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với Việt Nam, nước ta có xuất phát điểm thấp, do đó muốn thực hiện
nhanh thời kỳ quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội thì rất cần phải cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, ứng dụng khoa học cơng nghệ hiện đại và từng bước phát
triển kinh tế tri thức. Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân
loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành cơng nghiệp hóa, và từ
thực tiễn cơng nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Từ đó mới có cơ
hội “bứt phá”, đi tắt đón đầu, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Mặt khác, cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra từ năm 2000, còn
được gọi là cuộc cách mạng số, đã cho thấy có nhiều thay đổi khi những yếu
tố mà các nước đã và đang tự coi là có ưu thế như lực lượng lao động thủ
cơng trẻ, dồi dào sẽ khơng cịn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe doạ nghiêm
trọng. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức của Việt Nam nếu sớm nhận thức được bản chất, đặc điểm và xu hướng
của cuộc cách mạng này thì sẽ có thêm căn cứ để tìm giải pháp bứt phá chiếm
lĩnh cơ hội và đưa đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức là đòi hỏi thiết yếu để xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tồn cầu hóa kinh tế lẫn kinh tế tri thức đều là những xu thế phát triển
tất yếu, khách quan trong thời đại ngày nay. Chúng đã, đang và sẽ tiếp tục làm
thay đổi một cách mạnh mẽ, sâu sắc nội dung và bước đi của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khơng chỉ thế, tồn cầu hóa kinh tế và kinh tế tri
thức còn đòi hỏi tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các quốc
gia đi sau, trong đó có Việt Nam, phải được gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức. Trong mối quan hệ biện chứng của nó, việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
4
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức khơng chỉ là q trình tạo ra lực
lượng sản xuất mới, mà còn là điều kiện để xây dựng và phát triển quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp. Đó là sự phù hợp của quan hệ sản xuất trên tất cả
ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất; phân phối kết quả sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Là sự phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; phù
hợp với đặc điểm cụ thể của xã hội Việt Nam và với đặc điểm, xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức là hai nội dung của một quá trình thống nhất và diễn ra
đồng thời. Đảng ta đã xác định rõ rằng, việc thực hiện các nội dung chiến
lược đó ở nước ta hiện nay cần phải dựa vào tri thức. Xuất phát từ một trình
độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, để có thể đi nhanh và phát triển theo hướng
hiện đại, bền vững, chúng ta khơng có con đường nào khác ngồi con đường
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa
với phương thức “rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước
nhảy vọt”. Chúng ta cần phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền
kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế cơng nghiệp
sang kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là, một mặt, chúng ta phải phát triển
nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản, mặt khác, phải phát triển các
ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức và cơng nghệ cao. Nói cách khác, gắn
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức theo
những bước đi và hình thức thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay không
chỉ là quá trình mang tính tất yếu, khách quan, mà cịn là con đường duy nhất
giúp chúng ta “rút ngắn thời gian” để có thể trở thành một nước cơng nghiệp
theo hướng hiện đại như Đảng ta đã xác định.
2.3. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay, chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước đông âu sụp
đổ khiến cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào tình trạng thối trào nhưng
điều đó khơng làm thay đổi tính chất thời đại: loài người vẫn đang trong thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản
trên thế giới vẫn còn tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình
thức có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều
5
hình thức; Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột
vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi; Cách mạng
khoa học và cơng nghệ vẫn tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao hơn,
tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa kinh tế và đời sống xã hội; Cộng đồng thế
giới đứng trước nhiều vấn đề có tính tồn cầu (dịch bệnh Covid-19, bảo vệ
mơi trường, bùng nổ dân số, bệnh tật hiểm nghèo, phân hóa giàu nghèo...)
khơng một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết các vấn đề trên, mà cần có
sự hợp tác đa phương giữa các quốc gia; Khu vực Châu á Thái bình dương
đang có những bước phát triển đầy năng động. Đồng thời khu vực này cũng
tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn. Bên cạnh đó, hiện nay trong quan hệ
quốc tế nổi bật xu thế hồ bình, ổn định hợp tác phát triển, đấu tranh vì hồ
bình. Trước những thay đổi lớn của thế giới đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước
ta (cả mặt tích cực và tiêu cực). Đảng ta xác định thời cơ và những thách thức
to lớn đang đặt ra cho đất nước ta trong từng giai đoạn nhất định. Thuận lợi
đó là những thành tựu của cơng cuộc đổi mới tạo ra thế và lực để chuyển sang
giai đoạn phát triển cao hơn. Mặt khác, trong mơi trường hồ bình và ổn định
của khu vực, sự phát triển năng động của vùng Châu Á - Thái Bình Dương,
đặc biệt xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới trong hồ bình ổn định và hợp
tác đang trở thành một xu thế chung, chủ yếu của thời đại thì quan hệ của
nước ta đối với nước ngoài và khả năng hội nhập cộng đồng thế giới được mở
rộng hơn bao giờ hết. Thực trạng thực hiện đường lối công nghiệp hóa trong
thời kì trước đổi mới. Trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến
hành cơng nghiệp hóa dẫn tới một số hạn chế và sai lầm chủ yếu sau: Cơng
nghiệp hóa theo mơ hình nền kinh tế khép kín hướng nội và thiên về phát
triển cơng nghiệp nặng; Cơng nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động;
Tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa; Nóng vội
giản đơn chủ quan duy ý chí, khơng quan tâm tới hiệu quả kinh tế xã hội. Mặt
khác là nước đi sau, tiến trình hội nghập kinh tế quốc tế của nước ta tuy có
nhiều cơ hội, nhưng cũng khơng ít thách thức. Đó là chúng ta phải đối mặt với
cạnh tranh quyết liệt, khơng cân sức với các nước có trình độ phát triển cao
hơn về hàng hóa và dịch vụ không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả ở thị
trường trong nước; phải đối mặt với sức ép chuyển giao công nghệ cũ, lạc hậu
6
từ các nước phát triển; tình trạng chảy máu chất xám, chênh lệch giàu –
nghèo, an ninh quốc gia…Để khắc phục tình trạng này và bảo đảm xây dựng
nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập, tự chủ thì con đường cơ bản và
lâu dài chỉ có thể là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
2.4. Những tác động của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức trong đời sống xã hội
Trong xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện
đại phát triển rất nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và
chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới,
vừa cản trở, thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động
lẫn nhau. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với
việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy
đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là quá trình tạo ra
những điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học - công
nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực để khơng ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh
tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân,
thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức tạo ra
cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao
vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về
kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phịng và an ninh. Thành công của
sự nghiệp này là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng đã đề ra
đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
7
Đường lối đó đã, đang được triển khia thực hiện và tiếp tục được bổ sung,
hoàn thiện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm; thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, mơi trường”. Theo đó, phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020 là: “Tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện mơ hình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn
nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. Như vậy, phải coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cơ sở thực tiễn cho chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức không phải là nóng vội duy ý chí mà do xu thế tồn cầu
hóa, khoa học, cơng nghệ, kinh tế tri thức trên thế giới phát triển và nội lực
của chúng ta được phát huy.
2.5 Đẩy mạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức là đòi hỏi bắt buộc để phát triển sức sản xuất của chủ
nghĩa xã hội hiện thực
Đặc trưng của cơ sở vật chất – kỹ thuật của các phương thức sản xuất
trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, lạc hậu, năng suất thấp.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng phương thức sản
xuất phong kiến vì nó tạo ra nền đại cơng nghiệp để có năng suất lao động cao
“chưa từng có dưới chế độ nông nô”. Do vậy, phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa tất yếu phải phát triển dựa trên cơ sở vật chất – kỹ thuật ở trình độ
cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn
hiện đại với cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng
khoa học và cơng nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Đối với các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm
xuất phát thấp, ở giai đoạn đàu hoặc không qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa
tư bản như Việt Nam, thì yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội càng trở nên cấp thiết hơn.
8
II. MỘT SỐ NỘI DUNG QUAN TRỌNG ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC Ở VIỆT NAM
1. Chủ động lựa chọn và phát triển hệ thống công nghệ tiên tiến,
hiện đại dựa vào tri thức và thích ứng với cuộc cách mạng cơng nghiệp
lần thứ tư, nâng dần trình độ văn minh của xã hội Việt Nam
Để tiến hành sản xuất lớn, hiện đại, nước ta phải thực hiện q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là một
quá trình nhảy vọt của lực lượng sản xuất, phát triển một cách mạnh mẽ cả về
số lượng và chất lượng, chủng loại và quy mô. Lực lượng sản xuất được tạo ra
trong thời kỳ này là cái “cốt” vật chất kĩ thuật rất quan trọng và có ý nghĩa
quyết định đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó chúng
ta chủ động lựa chọn và phát triển công nghệ là cách để giải bài toán phát
triển của nước đi sau. Đối với nước ta, mục tiêu của việc lựa chọn và phát
triển công nghệ nhằm tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, chủ
động thích ứng với những biến đổi của khoa học, công nghệ, với cuộc cách
mạnh công nghiệp lần thứ tư. Hệ thống công nghệ đó phải được khai thác và
đưa vào sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước, đồng
thời tạo ra khả năng thu hút được các nguồn lực từ bên ngoài đáp ứng yêu cầu
phát triển các cơ sở, ngành, lĩnh vực, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền
vững nền kinh tế quốc dân, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
2. Xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại theo
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào
tri thức
Thực tế cho thấy, phần thắng trong cuộc chiến “ai thắng ai” trên thị
trường, suy cho đến cùng là do trí tuệ và năng lực sáng tạo của cả dân tộc, biết
học hỏi một cách khôn ngoan kinh nghiệm và thành tựu tri thức của nhân loại,
tận dụng được lợi thế của nước đi sau, đề ra được những chủ trương, biện
pháp thích hợp với đất nước mình trong hồn cảnh mới, giải quyết có hiệu
quả các vấn đề kinh tế – xã hội, công nghệ, kỹ thuật, môi trường sinh thái.
Với mục tiêu cơ cấu kinh tế phải đáp ứng được các yêu cầu:
9
- Tính khách quan, nghĩa là phản ánh được và đúng các quy luật khách
quan, nhất là các quy luật kinh tế.
- Tính thị trường, được thực hiện trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao
động xã hội gắn xây dựng cơ cấu kinh tế với nhu cầu thị trường, xu hướng
khu vực hóa, tồn cầu hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế.
- Tính hiện đại, hay sự phù hợp với xu thế của sự tiến bộ của khoa học
và công nghệ đã và đang diễn ra trên thế giới.
- Tính hiệu quả kinh tế - xã hội, nhờ đó cho phép cơ cấu kinh tế khai
thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nước, ngành, doanh nghiệp cả
chiều rộng và chiều sâu.
3. Từng bước hình thành và phát triển nguồn tài nguyên trí lực
Những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, sự tác động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là những thành tựu trong bốn
lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng và
công nghệ thông tin, đã tạo nên những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế –
xã hội của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Sự phát triển vượt
bậc của khoa học, công nghệ hiện đại đã dẫn đến sự ra đời của ngành kinh tế
tri thức. Điều đó có nghĩa là, sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện kinh tế tri thức đã trở thành một xu
hướng phát triển mới của các nước trên thế giới. Có thể nói, sự xuất hiện của
kinh tế tri thức là vận hội chưa từng có để Việt Nam đi tắt đón đầu, từng bước
đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Tài nguyên trí lực chính là tiềm năng
về sức mạnh trí tuệ để con người có thể thực hiện, hồn thành một cơng việc
nhất định. Do những lợi ích mà nó mang lại nên từ trước đến nay, các chủ thể
kinh tế dù là hộ gia đình, doanh nghiệp, ngành hay nền kinh tế quốc gia đều
đã tiến hành sản xuất và tái sản xuất với sự trợ giúp của trí lực.
Trong kinh tế tri thức, tài nguyên trí lực là nguồn lực của nền kinh tế thị
trường hiện đại, nó có vai trị chủ yếu và là nguồn lực quan trọng nhất quyết
định lợi thế cạnh tranh. Vì vậy phát triển tiềm năng trí lực được Đảng ta xác
định là một trong ba đột phá chiến lược: Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
10
với phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ. Xác định tài nguyên trí lực
là nguồn lực của nền kinh giúp chúng ta khơng chỉ thóat khỏi nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực Đông Nam Á và trên thế
giới, mà cịn giữ được ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ
quyền quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
III. ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM
1. Điều kiện đảm bảo đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Như vậy, có thể hiểu rằng, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức là một phương thức cơng nghiệp hóa mới trong
điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, của xu hướng tồn cầu
hóa kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Quá trình này là một q trình phát triển
khơng phải một sớm một chiều, mà phải trải qua thời gian khá nhiều năm.
Việc đảm bảo ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho quá trình này là rất cần
thiết và đây chính là điều kiện tiên quyết để phát triển.
- Ổn định về chính trị: là độ bền vững và tính tồn vẹn của một chế độ
chính trị hiện hành. Một xã hội ổn định là một xã hội trong đó người dân hài
lòng với đảng cầm quyền và hệ thống quản lý của các cấp chính quyền nhà
nước. Ổn định về chính trị có vai trị đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác
phát triển bền vững, quá trình tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trở nên
có ý nghĩa và sâu sắc hơn. Ổn định chính trị được thể hiện ở tính nhất quán,
tính đồng bộ và ổn định lâu dài của đường lối, phải có tầm nhìn dài hạn, phải
xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chính
sách cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh, tức là
phải có chiến lược đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
11
kinh tế tri thức. Các quy định luật pháp, chính sách, nhất là lập pháp, chính
sách kinh tế phải ổn định.
Đảng ta xác định để ổn định chính trị cần phải tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước và thực sự
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay, Việt Nam ta là một trong
các quốc gia an tồn nhất thế giới trong được cơng đồng quốc tế thừa nhận.
- Ổn định về kinh tế: là sự ổn định về môi trường sản xuất, kinh doanh
của nền kinh tế. Nó được thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mơ, trong đó trước
hết là sự ổn định về thị trường, ổn định tài chính, tiền tệ, giá cả, việc làm, thu
nhập. Điều kiện để duy trì sự ổn định này là Nhà nước phải duy trì được cân
bằng tổng cung – tổng cầu, phải kiểm soát được lạm phát, xây dựng và bảo vệ
môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đảm bảo sự tăng tiến nhanh, an tồn và có
chất lượng về mọi mặt của nền kinh tế.
- Ổn định về xã hội: là sự cân bằng xã hội, trong đó mọi người hợp lại
với nhau cùng hướng đến một xã hội an toàn, đồng thuận và phát triển. Nó địi
hỏi sự hợp tác giữa các thành viên tập trung vào việc làm thế nào để các bộ
phận trong xã hội hợp tác với nhau để cùng phát triển.
Sự ổn định xã hội khi đã được duy trì thường xun, lâu bền thì nó là
nhân tố quan trọng kích thích tiến bộ xã hội. Ổn định về xã hội là một điều
kiện tiên quyết cho sự ổn định về chính trị và phát triển kinh tế, xã hội nói
chung, cho thực hiện các mục tiêu chiến lược và kế hoạch phát triển của Đảng
và Nhà nước nói riêng. Coi trọng các vấn đề xã hội, thực hiện an sinh xã hội
địi hỏi phải có nhận thức đúng rằng, đầu tư các nguồn lực cho việc giải quyết
các vấn đề xã hội là đầu tư cho phát triển. Phát triển con người là mục tiêu
đích thực của ổn định và phát triển xã hội.
2. Giải pháp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.1. Giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô:
Sự ổn định về kinh tế vĩ mơ có vai trị đặc biệt quan trọng đối với hoạt
động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế và toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Có ổn định kinh tế vĩ mơ thì doanh nghiệp, người dân mới yên
12
tâm đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh mới thu hút được thêm
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Giải pháp chủ yếu để ổn định kinh tế vĩ mơ là chính sách kinh tế của
Nhà nước phải nhất quán, không chồng chéo, không mâu thuẩn, loại trừ nhau
mà phải duy trì ổn định lâu dài, kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những chính
sách, quy định khơng cịn phù hợp. Phải kiểm sốt được lạm phát. Phải duy trì
sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và
khả năng sử dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ. Kiểm sốt đầu tư cơng,
kiểm sốt tình trạng “bong bóng” trên thị trường bất động sản... Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hồn thiện và phù hợp hơn với luật
pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội
nhập quốc tế.
2.2. Giải pháp xây dựng hệ thống thể chế kinh tế thị trường dựa
trên tiến bộ của khoa học, công nghệ và tri thức:
Thể chế kinh tế thị trường là tổng thể các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống
các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh các hoạt động trao
đổi, giao dịch của các chủ thể thị trường. Nó chính là thể chế kinh tế được áp
dụng trong nền kinh tế thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khi đã được tạo
lập và hoàn thiện đồng bộ ở trình độ hiện đại thì có vai trò rất quan trọng
trong việc tạo lập tiền đề ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển nền kinh
tế thị trường và thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng yêu cầu tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đến năm 2030,
hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục yêu cầu:
“…hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng đổi mới sáng
tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số”.
Cụ thể, hoàn thiện thể chế về sở hữu theo hướng thể chế hóa đầy đủ quyền sở
hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến
pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm
13
trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao
dịch thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở
hữu tài sản; hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên; hoàn thiện thể chế về
phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... như Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII về
hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã khẳng
định: “Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động
lực để phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.”
2.3. Giải pháp thúc đẩy phát triển nguồn tài nguyên trí lực:
Việc chăm lo phát triển nguồn tài ngun trí lực ln được đặt ra trong
đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Trong
bối cảnh nhân loại đang chuyển mạnh sang phát triển kinh tế tri thức, tiến vào
nền văn minh trí tuệ như hiện nay, thì nguồn tài ngun trí lực lại càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Để cụ thể hóa giải pháp này, Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra và đang thực hiện Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011-2020 và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020;
chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn
với thực tiễn. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
dục – đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Phát huy những lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là công
nghệ thông tin và công nghệ sinh học, ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức
cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng
bước phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam.
2.4. Giải pháp đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ:
Trong thời đại ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn
ra với tốc độ vũ bão. Để có giải pháp tối ưu, cần có một chiến lược phát triển
khoa học-cơng nghệ với những bước đi thích hợp. Khoa học và công nghệ là
động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đãi, là yếu tố
14
quyết định lợi thế cạnh tranh trên thị trường, quyết định tốc độ tiến hành cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đảng ta xác định:
Khoa học và công nghệ...là quốc sách hàng đầu là nền tảng và động lực đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải “lấy khoa học và công nghệ, tri thức,
nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. Để thực hiện mục tiêu
này, Đảng và Nhà nước đã đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu là: Tiếp tục đổi mới căn
bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học
và công nghệ; Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia; đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ
với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
2.5. Giải pháp tạo lập, sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn, tài ngun
thiên nhiên và bảo vệ mơi trường:
Tiếp tục hồn thiện hệ thống chính sách thu ngân sách đi đơi với cơ cấu
lại thu ngân sách. Xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, bền vững, đảm bảo
nhu cầu chi tiêu cần thiết, hợp lý của ngân sách nhà nước để khuyến khích
cạnh tranh, tích tụ vốn cho sản xuất, kinh doanh. Khai thác và sử dụng tài
nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường. Nâng cao hiệu quả
phân bổ và sử dụng nguồn vốn. Bảo vệ môi trường tự nhiên vừa là nội dung,
vừa là mục tiêu phát triển bền vững, vì thế phải đảm bảo sự hài hịa giữa mơi
trường tự nhiên với mơi trường sống, đặc biệt tại các khu công nghiệp, đô thị,
dân cư; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường, sử dụng tiết
kiệm và bảo vệ tài nguyên. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy
hoại, làm cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các
khu công nghiệp, khu đô thị.
2.6. Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế:
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
trình Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng, một trong những giải
pháp hướng tới mục tiêu “hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là cần “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là đòi hỏi thiết yếu
trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Thông qua
việc mở rộng này chúng ta có thể phát huy lợi thế của đất nước và tranh thủ
15
vốn, khoa học, cơng nghệ, tri thức từ bên ngồi để đầy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Do vậy, cần chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế,
tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại
lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ.
Thường xun rà sốt, hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký
kết. Từ đó tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được
thực hiện theo đúng định hướng, giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững.
2.7. Giải pháp bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân:
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước với phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là quyết tâm chính trị
cao của tồn Đảng và cả hệ thống chính trị nhằm tạo sự đột phá, đảm bảo cho
công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức; củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng, tạo động lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đổi mới
hơn nữa tư duy lý luận nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường lãnh đạo việc thể
chế hóa thực hiện đường lối, chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Làm
tốt cơng tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng. Làm tốt cơng tác cán bộ… Phát huy vai trị của
Nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Đảng. Đẩy mạnh dân chủ xã hội, tăng cường đồng thuận xã hội trên cơ sở
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để mọi
người dân đều nhận thức rõ tầm quan trọng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
mà nêu cao tính tự cường và trách nhiệm công dân trước yêu cầu phát triển
của đất nước. Công cuộc đổi mới thành công đã khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng, đồng thời cũng khẳng định vai trò to lớn của nhân dân. Song cách
mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, tình hình thế giới cũng
có nhiều thay đổi so với trước đây. Nhiều vấn đề mới đang tiếp tục phát sinh
16
liên quan cần phải được tiếp tục nghiên cứu, cần được các cấp ủy đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị xã hội vận dụng sáng tạo trong thời gian tới.
Do đó phải tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng nâng cao hiệu quả quản lý
của Nhà nước với phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là tất yếu.
IV. PHẦN LIÊN HỆ VẬN DỤNG VỚI XÃ PHẠM VĂN CỘI,
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1. Đặc điểm tình hình
Xã Phạm Văn Cội là 01 trong 21 xã – thị trấn thuộc huyện Củ Chi, nằm
về hướng Tây Bắc Thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích đất tự nhiên 2.329,61
ha, dân số 9.390 người với 2.226 hộ, xã chia thành 5 ấp với 35 tổ nhân dân.
Người dân trên địa bàn xã chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, lao động tại các doanh nghiệp, thương mại dịch vụ có
phát triển nhưng cịn hạn chế.
2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Trong chiến tranh, cùng với huyện Củ Chi, vùng đất Phạm Văn Cội
cũng bị tàn phá nặng nề, cơ sở hạ tầng hầu như khơng có, đa số người dân
thuộc diện đói nghèo. Sau ngày giải phóng, được sự quan tâm, hỗ trợ của
Thành phố, Huyện và sự nỗ lực, phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền, cùng
nhân dân xã Phạm Văn Cội xây dựng lại quê hương phát triển vượt bậc, làm
thay đổi diện mạo địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn xây dựng nông thôn
mới. Là một xã nơng thơn ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, để đưa xã
phát triển nhanh và bền vững; trong thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng
năm Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân xã ln xem vấn đề thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là mục tiêu hàng
đầu để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu này, trong giai đoạn từ năm 2010-2015 và 20152020 xã luôn tập trung đẩy nhanh tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp nơng thơn, phát triển nền nơng nghiệp đơ thị, tạo ra sự chuyển
dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp
dịch vụ, kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, chú trọng phát
triển nông nghiệp kỹ thuật cao. Đến năm 2015 và cuối năm 2019 xã được Ủy
ban nhân dân thành phố công nhận là xã nông thôn mới và xã đạt chuẩn nông
17
thôn mới nâng cao. Thu nhập của người dân từng bước được nâng lên, đời
sống được cải thiện, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng môi trường xã hội
nông thôn văn minh lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tiếp tục giữ vững ổn
định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh, phát huy dân chủ cơ sở, xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh. Đến nay sau 10 năm thực hiện, trên địa bàn xã
đã có nhiều thay đổi tích cực. Có thể kể đến như diện tích trồng trọt và giá trị
nơng sản ngày càng tăng, số lượng và tổng đàn bò, heo liên tục tăng qua các
năm (diện tích trồng trọt trên địa bàn xã là 107,22 ha, trong đó gồm rau an
tồn, cỏ trồng, lan, mai kiểng…; tổng đàn bò tăng lên 610 con, tổng đàn heo
là 3.089 con và một số vật nuôi khác như dê, cá cảnh…),
Sau 10 năm, trên địa bàn xã đã có nhiều thay đổi tích cực, từ một xã chỉ
có vài doanh nghiệp siêu nhỏ, nay số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa
bàn xã tăng lên 74 doanh nghiệp, giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn
1.000 lao động tại xã và các địa phương lân cận. Bên cạnh đó là hơn 100 hộ
kinh doanh, cùng với Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao và 4 tổ hợp tác
nông nghiệp khác. Hiện nay trên địa bàn xã có 01 Khu Nơng nghiệp cơng
nghệ cao với 14 doanh nghiệp đầu tư, thu hút hơn 500 lao động thường
xun.
Với nỗ lực thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, hiện nay bộ mặt nông thôn của xã Phạm Văn Cội đã có sự
phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực, kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng
bộ, khang trang; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được
nâng cao, thu nhập bình quân từ 18 triệu đồng/người/năm năm 2011 lên trên
40,3 triệu đồng/người/năm năm 2015, lên trên 60 triệu đồng/người/năm trong
năm 2020. Hộ nghèo theo tiêu chí của Thành phố (thu nhập dưới 36 triệu
đồng/người/năm) chỉ còn 58 hộ, cận nghèo 135 hộ. Xã có trạm y tế đạt chuẩn
quốc gia, đảm bảo chăm sóc tốt sức khỏe của người dân....
3. Thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai
đoạn 2010-2020
Trong điền kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
cạnh tranh cao và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với huyện, xã luôn luôn
xác định chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng phản ánh
trình độ phát triển kinh tế và đời sống. Do đó cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán
18
bộ, công chức được triển khai thực hiện theo Kế hoạch của huyện triển khai.
Thông qua các lớp bồi dưỡng cán bộ, công chức đã trang bị, cập nhật thêm kỹ
năng, trình độ, chun mơn nghiệp vụ, tích lũy thêm kinh nghiệm xử lý các
tình huống thực tế nâng cao trình độ quản lý nhà nước…. Từng bước nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn, trình độ cán bộ,
cơng chức theo quy định.
Bên cạnh đó, xã ln chú trọng cơng tác đào tạo nghề nông nghiệp và phi
nông nghiệp cho người dân, đặc biệt là kết hợp, phối hợp với các tổ chức, cá
nhân trong việc chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất
nông nghiệp và các ngành nghề sản xuất.
Từ kết quả đạt được, cấp ủy, chính quyền và nhân dân xã rút ra bài học
kinh nghiệm trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nâng chất các tiêu chí nơng
thơn mới tại địa phương trong giai đoạn tới, đó là:
- Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn tại địa phương, nguồn nhân lực; huy
động nguồn lực nhân dân phải gắn liền với bồi dưỡng sức dân, thơng qua các
đề án, chương trình hợp lịng dân, được nhân dân hưởng ứng, đồng tâm hiệp
lực thực hiện.
- Trong thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, giải thích, thuyết
phục người dân có tính quyết định vì khơng thể chỉ sử dụng các biện pháp
hành chính, quyền lực Nhà nước. Phải thực sự phát huy vai trò chủ thể của
người dân. Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng phải là giải pháp
quan trọng hàng đầu. Làm cho dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham
gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp cơng, của, trí tuệ và chủ động thực hiện các
nhiệm vụ của mình là yếu tố quyết định sự thành cơng của Chương trình.
- Trong q trình thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức phải gắn liền với quy chế dân chủ cơ sở, tổ
chức họp dân, bàn bạc, lắng nghe ý kiến và thống nhất chủ trương, đảm bảo
công khai, công bằng, tạo được sự ủng hộ trong nhân dân, đồng thời quan tâm
đến hộ nghèo, hộ thuộc diện chính sách khó khăn, có biện pháp hỗ trợ, vận
động cá nhân đóng góp, giúp đỡ ổn định cuộc sống. Chú trọng ý kiến đánh
giá, góp ý của nhân dân, xem đây là yếu tố quan trọng, quyết định tính bền
19
vững trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức.
- Phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt
của các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của
các ban, ngành, đồn thể từ xã đến ấp. Trong đó, người đứng đầu cấp ủy và
chính quyền có vai trị quan trọng. Thực tiễn cho thấy nơi nào các cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể thực sự quan tâm vào cuộc thường xuyên, quyết liệt thì
trong cùng hồn cảnh cịn nhiều khó khăn vẫn tạo ra sự chuyển biến rõ nét.
20
PHẦN III: KẾT LUẬN
Tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong các nhiệm kỳ Đại hội của
Đảng, nhằm phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa một
cách bền vững và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng khơng cịn con đường
nào khác hơn con đường phát triển mạnh kinh tế tri thức, chăm lo phát triển
văn hóa và con người, đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế tạo
ra thế và lực để chủ động hội nhập kinh tế thế giới, góp phần quan trọng đưa
nước ta thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, “vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đảng ta đã xác
định “con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”. Phát huy
những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu
mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức, vũng tin
hội nhập kinh tế quốc tế./.