MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................. 2
I. LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ ................................................... 4
1. Các quan điểm khác C.Mác về quy luật giá trị. ............................... 4
2. Quan điểm của Mác về giá trị ............................................................ 6
3. Yêu cầu của quy luật giá trị ............................................................... 7
4. Cơ chế tác động của quy luật giá trị.................................................. 7
5. Tác động cơ bản của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa. 7
II. ÁP DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀO NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
TRONG VÀ HẬU ĐẠI DỊCH COVID-19 ................................................ 9
1. Thực tiễn tình hình nước ta hiện nay với đại dịch Covid 19. ......... 9
2. Tác động của quy luật giá trị trong và hậu thời kỳ Covid 19. ........ 9
2.1. Tác động thứ nhất về điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa. . 9
2.2. Tác động tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. ......... 13
2.3. Tác động thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người
sản xuất ................................................................................................ 15
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ..................................................... 18
1. Sản xuất và lưu thông hàng hóa trong và hậu đại dịch ................. 18
2. Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng khoa học cơng nghệ .......... 19
3. Giảm khoảng cách phân hóa giàu nghèo ........................................ 20
IV. KẾT LUẬN.......................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 23
1
LỜI MỞ ĐẦU
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Như vậy, đối với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vận
hành đầy đủ đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường (quy luật giá
trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quan hệ cạnh tranh, quan hệ cung cầu…), một
mặt đảm bảo sự quản lý toàn diện, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm đảm bảo định hướng
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Cho dù trong điều
kiện hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường hay trong những tình huống
bất lợi như thiên tai, dịch bệnh, nhất là trong giai đoạn cả nước chung sức,
đồng lòng chống lại đại dịch Covid-19 thì mục tiêu vì lợi ích của Nhân dân
phải được đặt lên trên hết, trước hết, quan trọng nhất. Trong đó, đảm bảo lưu
thực hiện công tác phòng chống dịch vừa tuân thủ các quy luật kinh tế trong
nền kinh tế thị trường nhằm thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa ổn
định đời sống Nhân dân, phục hồi phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề cấp
bách của đất nước.
Hiểu rõ các quy luật của nền kinh tế thị trường sẽ là “bước đệm” để ta
có được những giải pháp hiệu quả và tối ưu nhất cho đất nước. Cũng chính
vì như vậy, em quyết định chọn đề tài “Tác động của quy luật giá trị trong
và hậu thời kỳ Covid-19”. Em mong muốn có thể tìm hiểu một cách sâu hơn,
cũng như đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc phát
2
triển nền kinh tế nước nhà, đặc biệt trong giai đoạn cấp bách hơn bao giờ hết
– đại dịch Covid-19.
Qua bài tiểu luận này, em muốn đi sâu phân tích một cách tổng quan
những tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường của Việt
Nam xoay quanh đại dịch Covid, từ đó đề xuất một số giải pháp có tính khả
thi.
Kết cấu bài tiểu luận gồm:
I. Lý luận về quy luật giá trị
II. Áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta trong và hậu đại dịch
Covid-19
III. Một số giải pháp đề xuất
IV. Kết luận
3
I. LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ
1. Các quan điểm khác C.Mác về quy luật giá trị.
Ngoài C.Mác, khoa học kinh tế chứng trị cũng đã chứng kiến rất nhiều
những quan điểm khác xoay quanh quy luật giá trị.
W.Petty
Đối với W.Petty, việc phân biệt giá cả tự nhiên - hao phí lao động
trong điều kiện bình thường với giá cả chính trị – lao động chi phí trong
điều kiện chính trị khơng tḥn lợi có ý nghĩa to lớn. Ông là người đầu tiên
trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động.
A.Đam.Simith
Ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao
động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi và khẳng định giá trị sử dụng qút định giá
trị trao đởi. Ơng chỉ ra lượng giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung
bình cần thiết quyết định và đưa ra 2 định nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên
và giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của
giá trị.
Lý thút giá trị – lao động của A.Smith cịn có hạn chế. Ông nêu lên
2 định nghĩa: Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá
quyết định. Lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa
này, ông là người đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị–lao động. Thứ hai,
ông cho rằng, giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng
hố này qút định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do lao động tạo ra
chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế
TBCN, giá trị do các ng̀n thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng
với lợi nhuận và địa tô. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị – lao động
“Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao động là
thước đo thực tế của mọi giá trị”.
4
David Ricardo
Ơng phân biệt rõ 2 thuộc tính của hàng hố là giá trị sử dụng và giá trị
trao đởi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi,
nhưng không phải là thước đo của nó. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị
tương đới, cịn tờn tại giá trị tụt đới. Giá trị trao đởi là hình thức cần thiết
và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. .Ricardo chỉ ra là
định nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết định” là đúng, còn định nghĩa
“Giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hố này qút
định” là khơng đúng. Theo ơng, khơng phải chỉ trong nền sản x́t hàng
hố giản đơn mà ngay cả trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao
động quyết định. Phương pháp nghiên cứu của ơng cịn có tính siêu hình.
Ơng coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn. Ông chưa phân biệt được giá trị hàng
hoá và giá cả sản xuất, chưa thấy được mâu thuẩn giữa giá trị và giá trị sử
dụng vì chưa có được lý thuyết tính hai mặt của lao động.
J.Batis.SAY
J.B.Say đã đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò
duy nhất của lao động trong việc tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho
rằng, giá trị chỉ được xác định trên thị trường – tức là chỉ được xác định
trong trao đởi. Thước đo giá trị của một vật phẩm chính là số lượng vật
phẩm khác mà người khác đưa lại để đổi lấy vật phẩm đó. Nói khác đi theo
ông, giá trị được quyết định với quan hệ cung – cầu. Rõ ràng ở đây, Say đã
đồng nhất giá trị với giá cả thị trường.
Sismondi
Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hố.
Ơng đã tiến thêm 1 bước so với D.Ricardo là đưa ra thước đo giá trị hàng
hoá: “thời gian lao động xã hội cần thiết”. Do đó, ông đã quy lao động
thành mối liên hệ giữa nhu cầu xã hội và thời gian lao động xã hội cần thiết
để thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên, khi mà D.Ricardo coi giá trị tương đối của
5
hàng hoá được đo bằng lượng lao động chi phí để sản x́t ra hàng hố, thì
Sismondi, giá trị tương đối của hàng hoá được quy định bởi cạnh tranh, bởi
lượng cầu về hàng hố.
Pi-e Giơ-Dép PruĐơng
Giá trị bao gờm 2 mặt mâu thẫn với nhau: Giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi, chúng phản ánh hai mặt khuynh hướng mâu thuẫn: dồi dào và
khan hiếm. Theo ông, giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào, cịn giá trị
trao đởi là hiện thân của sư khan hiếm. Mâu thuẫn tưởng tượng này chỉ có
thể xoá đi bằng việc thiết lập sự trao đổi ngang giá, tức là “giá trị xác lập”.
Do đó, ông đề nghị không chỉ sản xuất những hàng hoá, mà còn đòi hỏi tạo
ra sự trao đổi ngang giá để tất cả các hàng hoá được thực hiện, tức là biến
thành “giá trị xác lập”. Tức là, giá trị mà nó xuất hiện trong trao đổi và thị
trường chấp nhận, ông cho rằng trao đổi và lao động là nguồn gốc giá trị.
C.Mác đã nhận xét. “Lý luận giá trị của Prudong” là sự giải thích một cách
khơng tưởng lý ḷn của Ricardo. Và bằng chính cách đó đã bóp méo, tầm
thường hoá cả những phạm trù giá trị khác.
2. Quan điểm của Mác về giá trị
Theo C.Mác sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật
kinh tế như : quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ,… Nhưng vai trò cơ sở cho sự chi phới nền sản x́t hàng hóa thuộc về
quy ḷt giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản x́t và trao đởi
hàng hóa, ở đâu có sản x́t và trao đởi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và
phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
6
3. Yêu cầu của quy luật giá trị
Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đởi hàng
hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội
cần thiết. Cụ thể:
Thứ nhất, trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định
hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải
được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng
hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, ḿn bán được hàng
hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao
cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội
chấp nhận được.
Thứ hai, trong lưu thông, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ
sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa trao đổi phải theo nguyên tắc
ngang giá.
4. Cơ chế tác động của quy luật giá trị
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả
hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền
của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều
giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngồi giá trị
cịn , giá cả cịn phụ thuộc vào các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu,
sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tớ này làm cho giá cả
hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục
giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục
giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự
vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
5. Tác động cơ bản của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa.
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
7
Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng
suất lao động. thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất
hàng hóa thành người giàu, người nghèo.
Như vậy, Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa, đó là lao động cụ thể và trìu tượng, lao động tư
nhân và lao động xã hội. Mác định nghĩa lượng giá trị hàng hóa đo được
bằng thời gian lao động xã hội cân thiết, phê phán các quan điểm đi trước.
Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa. Trên cơ sở phát hiện này, Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong
khoa học kinh tế chính trị. Ơng viết: “Tơi là người đầu tiên phát hiện ra tính
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và khoa học kinh tế chính trị xoay
quanh điểm này”.
Những tác động của quy luật giá trị đến nền kinh tế hàng hóa có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt, quy luật giá trị chi phối
sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các ́u kém, kích thích các nhân tớ tích cực
phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự
bất bình đẳng trong xã hội. Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích
cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đờng thời với việc thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Dù ở bất cứ thời điểm nào, nền kinh tế nước ta vẫn tuân
thủ quy luật giá trị. Trong và sau thời kỳ Covid-19, những tác động từ quy
luật giá trị càng được phản ánh sâu sắc hơn bao giờ hết.
8
II. ÁP DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀO NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
TRONG VÀ HẬU ĐẠI DỊCH COVID-19
1. Thực tiễn tình hình nước ta hiện nay với đại dịch Covid 19.
Đại dịch COVID-19 do virus SARS-CoV-2 gây ra có trường hợp
nhiễm bệnh đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 1 năm 2020. Xã
hội, kinh tế bị tác động bởi đại dịch. Giống như đa số nền kinh tế trên thế
giới, ở Việt Nam, các ngành công nghiệp tư nhân bị thiếu hụt nguồn
nguyên liệu cung ứng và đối mặt với nguy cơ dừng sản xuất.[1] Dịch
Covid-19 còn ảnh hưởng nặng nề đến hàng hải, hậu cần hay các lĩnh vực
phân phối, bán lẻ trong nước. Nhiều doanh nghiệp (DN), các hộ kinh doanh
"gặp khó khăn" hoặc đứng bên bờ vực phá sản.
2. Tác động của quy luật giá trị trong và hậu thời kỳ Covid 19.
2.1.Tác động thứ nhất về điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
❖ Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất (đối với việc lên kế
hoạch phương án sản xuất của các DN):
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi DN là người sản xuất
hàng hóa cạnh tranh gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường,
ḿn chiến thắng đới thủ cạnh tranh thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí... Để
việc sản x́t hàng hóa diễn ra tḥn lợi, sản xuất được mặt hàng phù hợp
với nhu cầu xã hội, họ cần phải có phương án sản xuất cho DN, nên tập
trung, đẩy mạnh sản xuất mặt hàng nào, mặt hàng nào nên tạm thời dừng
lại. Để làm được điều đó, DN phải nắm vững quy luật cung – cầu và vận
dụng tớt vào trong hoạch tốn kinh tế.
Thơng qua tình hình cung – cầu của các ngành hàng, biến động giá cả
trên thị trường, các DN đã có nhiều hướng đi khác biệt. Những mặt hàng
liên quan đến sức khỏe, y tế đã tăng giá trong đại dịch do nhu cầu sử dụng
khẩu trang và các loại dung dịch sát trùng, diệt khuẩn y tế lại tăng cao.
9
Nghiên cứu thị trường mới đây của Ngân hàng Thế giới đã dự báo: tính đến
năm 2020, thị trường ngành y tế dịch vụ chăm sóc sức khỏe của Việt Nam
sẽ tăng trưởng gấp ba lần kể từ năm 2010. BMI dự báo chi tiêu y tế sẽ tăng
lên 22,7 tỷ USD vào năm 2021, ghi nhận tốc độ tăng trưởng kép hàng năm
(CAGR) khoảng 12,5% từ năm 2017 đến năm 2021. Chính vì thế, rất nhiều
DN đã đẩy mạnh sản xuất, tập trung nguồn lực vào việc sản xuất các sản
phẩm khẩu trang y tế, dung dịch sát trùng, đồ bảo hộ trước lượng cầu tăng
lên đáng kể như vậy. Đây là một ví dụ điển hình cho việc thay đởi hàng hóa
chủ lực để duy trì trong đại dịch.
Ngược lại, các DN cũng phải thực hiện các chính sách gia giảm hoạt
động sản xuất các hàng hóa có cầu giảm mạnh trong thời gian dịch bệnh.
Các sản phẩm hàng hóa có thể kể đến ở đây thuộc ngành Du lịch, Hàng
không hoặc Nhà hàng, Khách sạn. Cục Hàng khơng ước tính doanh thu
hàng khơng thiệt hại khoảng 25.000 tỷ đờng; ngành hàng khơng rơi vào
tình trạng "xấu nhất" trong lịch sử 60 năm phát triển, toàn bộ các đường
bay bị tạm ngừng. Cục Thuế Hà Nội cho biết trong 2 tháng đầu năm 2021
có hơn 2.600 hộ kinh doanh giải thể và 6.400 hộ kinh doanh nghỉ kinh
doanh, ngân sách Nhà nước thất thu từ 4.200 đến 16.600 tỷ đồng. Công
nghiệp du lịch–nghỉ dưỡng và liên vận thiệt hại doanh thu do chính
sách cách ly xã hội, lượt du khách quốc tế trong 3 tháng đầu năm đạt 3,7
triệu người và giảm 18,1% so với cùng kỳ năm 2019, thị trường du lịch
trong nước và quốc tế "gần như đóng băng hoàn toàn".
❖ Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thơng hàng hóa.
Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên
tắc ngang giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng
hóa trong nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả
cao, từ nơi cung nhiều đến nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến động về giá cả
10
trên thị trường, l̀ng hàng hóa sẽ lưu thơng từ đó tạo sự cân đối về nguồn
hàng giữa các vùng miền.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam, thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến
việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn
hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà
Nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị
để kích thích cải tiến kỹ tḥt, tăng cường quản lý. Khơng những thế Nhà
nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong
từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều
tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối.
Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu
dùng của xã hội. Ví dụ: giá cả của sản phẩm dịch vụ du lịch ngay sau khi
dịch bệnh đã trong tầm kiểm soát đã đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích,
kích “cầu” du lịch, tăng doanh thu.
Bên cạnh đó quá trình lưu thông hàng hóa lại làm phát sinh thêm chi
phí lưu thông, chi phí lưu thông hàng hóa là chi phí lao động xã hội cần
thiết thể hiện bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông nhằm chuyển đưa hàng
hóa từ nơi sản xuất (mua hàng) đến nơi tiêu dùng (hay nơi bán hàng). Đó là
chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hóa; chi phí bảo quản, thu mua, tiêu thụ (bán
hàng); chi phí hao hụt hàng hóa và chi phí quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp thương mại. C.Mác đã chỉ ra các phi phí lưu thông (chi phí lưu
thông thuần túy và chi phí lưu thông bổ sung đã được nhà sản xuất tính
toán và bán hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế của nó (giá bán bn), để rồi
DN thương mại bán lại hàng hóa cho người tiêu dùng đúng giá trị (giá bán
lẻ), thu về lợi nhuận thương nghiệp.
Tuy nhiên, có những trường hợp chi phí lưu thông tăng vượt mức dự
kiến trong những tình huống bất bình thường (thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh,
11
chiến tranh, giao thông ngưng trệ, thiếu nhân viên vận chuyển, giá xăng
dầu tăng,…) trong tình huống này chi phí lưu thông phát sinh được doanh
nghiệp thương mại cộng trực tiếp vào giá bán lẻ gây ảnh hưởng trực tiếp
đến người tiêu dùng. Đây chính là hiện trạng của lưu thông trong đại dịch
vừa qua. Một số doanh nghiệp thương mại bán lẻ lại thực hiện tăng giá bán
hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu với lý do bất khả kháng là chi phí
lưu thông hàng hóa và nhu cầu về hàng hóa thiết yếu trong điều kiện phòng
chống dịch Covid-19 tăng cao, điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của đại bộ phận người dân nhất là những người yếu thế trong xã hội.
Những ngành như phân phối bán lẻ, vận tải và logistics, xuất khẩu
nông sản… chính là những huyết mạch của nền kinh tế. Tại thời điểm xảy
ra tình trạng chuỗi cung ứng hàng hóa bị đứt gãy, nhiều người dân tại các
tỉnh, thành phớ thực hiện giãn cách khó mua hàng hóa thiết yếu. Các hoạt
động xuất nhập khẩu bị đình trệ, kể cả vật tư, nguyên liệu đầu vào và sản
phẩm đầu ra cho thị trường trong nước và thế giới. Nhiều sản phẩm nông
sản đã không thể xuất khẩu do tình hình dịch bệnh, nhưng một thời gian
sau đã được vận chuyển đến các địa phương để tiêu thụ. Theo kết quả khảo
sát vào của Tổng cục Thống kê cho thấy, tại thời điểm từ 10/4/202020/4/2020 có tới 85,7% sớ DN trên phạm vi cả nước bị tác động bởi dịch
COVID-19. Số DN bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 cho rằng thị trường
tiêu thụ bị giảm mạnh chiếm 57,7%. Có 22,1% DN bị thiếu hụt nguyên liệu
đầu vào. Có tới 45,5% số DN khảo sát đang bị thiếu hụt nguồn vớn cho sản
x́t kinh doanh. Để ứng phó với đại dịch và cũng như tác động tất yếu của
quy luật giá trị, 5,4% DN chuyển đổi sản phẩm chủ lực; 7,7% DN tìm thị
trường mới cho nguyên liệu đầu vào; 17% DN phải tìm thị trường tiêu thụ
sản phẩm đầu ra ngồi thị trường trùn thớng.
12
2.2. Tác động tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. DN sản
xuất hàng hóa có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị
xã hội sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, DN có giá trị cá biệt lớn
hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh
tranh và tránh khơng bị phá sản, các DN phải ln tìm cách làm cho giá trị
cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy,
phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản
lý, thực hiện tiết kiệm... Kết quả là lực lượng sản xuất ngày càng phát triển,
năng suất lao động tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm x́ng. Trong
lưu thơng, để bán được nhiều hàng hóa, cơng ty daonh nghiệp phải không
ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu bán hàng...
làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng, tḥn
tiện với chi phí thấp nhất.
Sớ liệu của Tởng cục Thống kê cho thấy, đại dịch COVID-19 ảnh
hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DN, đặc biệt là các
DN ở các mảng du lịch, dịch vụ, ăn uống, nghỉ dưỡng. Cụ thể, doanh thu
dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm nay ước tính đạt 280,9 nghìn tỷ đờng,
giảm 16,6% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng
ước tính đạt 11,1 nghìn tỷ đờng, giảm sâu tới 55,4% so với cùng kỳ năm
trước. Vì vậy, khi dịch COVID-19 bùng phát trở lại trong cộng đồng sẽ tiếp
tục ảnh hưởng tới nguồn thu của các DN này. Không chỉ các DN trên, việc
đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp trong cộng đồng nếu diễn biến
nhanh cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các DN thuộc các lĩnh vực khác
như: nông sản, may mặc, giáo dục,… Tuy nhiên, trước tình hình trên, nhiều
DN đã chủ động chuẩn bị cho bản thân các hướng đi nhất định để đứng
vững trong tình hình dịch bệnh, cớ gắng duy trì giá trị cá biệt của hàng hóa
nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội.
13
Hiện nay, đối với một số DN , khi giãn cách xã hội và hạn chế giao
tiếp, đi lại đã tác động đến doanh số của DN khi không thể trực tiếp làm
việc cùng với các đối tác; điều này thơi thúc các DN này tìm ra các giải
pháp để đưa các mặt hàng đến với khách hàng với cách tiếp cận hiệu quả
mà không cần đến trực tiếp các gian hàng. Cụ thể, phương pháp bán hàng
qua các kênh thương mại điện tử đang được nhiều DN áp dụng. Đây cũng
là phương pháp lưu thông hàng hóa đang được khún khích trong bới
cảnh dịch bệnh lan rộng. Hoạt động quảng cáo được đẩy mạnh trên nền
tảng kĩ thuật số, phù hợp với bối cảnh công nghệ thông tin đang ngày càng
phát triển và các hoạt động bên ngoài đang phải tạm dừng. Các DN đã củng
cố, cải tiến, quản lý chặt chẽ hoạt động giao hàng, đề cao tính hiệu quả,
nhanh chóng và giá thành thấp nhất để giảm thiểu tới đa chi phí vận chủn
của hàng hóa, từ đó đảm bảo việc khơng tăng giá của hàng hóa trong lúc
dịch bệnh.
Theo kết quả khảo sát của Tổng cục Thớng kê năm 2020, Để ứng phó
với dịch COVID-19, 66,8% số DN phải áp dụng các giải pháp liên quan
đến lao động; 44,7% DN áp dụng giải pháp nâng cao trình độ chun
mơn/tay nghề cho người lao động (NLĐ). Có thể thấy, dịch COVID-19 đã
gây ra nhiều thách thức, khó khăn cho các DN, nhất là các DN khởi nghiệp.
Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm mở ra nhiều cơ hội để các ý tưởng, dự án
khởi nghiệp nắm bắt thời cơ, tìm ra hướng đi mới phù hợp với nhu cầu thị
trường, đầu tư, tập trung khai thác các lợi thế từ chuyển đổi số, từ đó tạo ra
các đột phá trong sản xuất, kinh doanh. Thông qua đó, nhiều DN đã vươn
lên khẳng định thương hiệu của mình, ký kết được các hợp đồng lớn để bán
hàng hóa cho đới tác trong nước, nước ngồi, từng bước tham gia vào chuỗi
cung ứng sản phẩm tồn cầu.
“Cơng ty TNHH Sản xuất thiết bị và phần mềm iCare, huyện Trảng
Bom, tỉnh Đồng Nai cho hay, Công ty được thành lập hơn 1 năm và trùng
14
với thời điểm dịch COVID-19 bùng phát ở khắp thế giới cũng như trong
nước. Do tác động của dịch bệnh, nên việc kinh doanh ban đầu liên quan
đến thị trường bất động sản gặp khó khăn. Nhưng ơng Quang đã lựa chọn
khởi nghiệp bằng lĩnh vực công nghệ, sáng tạo sẽ có nhiều tiềm năng phát
triển trong bối cảnh này với sản phẩm thiết bị và phần mềm theo dõi, bảo
vệ sức khỏe iCare. Mới đây, dự án về thiết bị iCare đã đoạt giải nhất và
nhận được nhiều đánh giá tích cực từ phía ban giám khảo, các chuyên gia
về khởi nghiệp. Hiện dự án của ông Quang cũng đang chuẩn bị cho việc
thương thuyết với các nhà đầu tư”.
Quy luật giá trị đã có những tác động rõ rệt, thể hiện qua nhiều chính
sách phát triển về mặt kĩ thuật công nghệ, quản lý cũng như phát triển trong
hoạt động vận chuyển, lưu thông. Mặc dù 70% DN bị ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhiều DN phải tạm ngưng hoạt động hoặc tạm
đóng cửa, đa số DN khác đều giảm từ 50% đến 90% doanh thu so với thời
điểm trước dịch. Đây chính là lúc để các DN, người sản xuất nắm bắt thời
cơ, có những hướng đi mới, sáng tạo trong đại dịch, làm tiền đề để bứt phá
hậu đại dịch Covid.
2.3. Tác động thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị
trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức
hao phí chung của xã hội nên lãi nhiều. Những người này sẽ mở rộng quy
mô sản xuất, trở nên giàu có, phát triển thành ơng chủ. Ngược lại, những
người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ cơng
nghệ lạc hậu... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội. Những người này
dễ lâm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê.
Đây chính là nguyên cơ dẫn đến khoảng cách giàu nghèo trong một nền
kinh tế càng rõ rệt. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích
cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế… là những ́u tớ có thể
15
làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng những tiêu cực về kinh tế
xã hội khác. Những tác động tiêu cực này có thể hạn chế nếu có sự điều
tiết, can thiệp của nhà nước.
Khảo sát của ĐH Kinh tế quốc dân với 510 DN cho thấy nếu đại dịch
tiếp tục tới cuối tháng 6/2020, 38,5% DN sẽ phải ngừng kinh doanh hoặc
phá sản. Tỉ lệ này lên tới 75,5% nếu dịch bệnh kéo dài tới cuối năm (NEU
2020). Các khảo sát gần đây về tác động kinh tế của Covid-19 cho thấy các
DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ tư nhân dễ bị tổn thương nhất. Các DN lớn
thường có khả năng chớng chịu tớt hơn với 18% DN lớn mất trên 60%
doanh thu trong nửa đầu 2020 trong khi tỉ lệ này với DN vừa và nhỏ là 21%
và DN cực nhỏ là 45% (CCIFV 2020).
Khảo sát NLĐ cho thấy 18,1% NLĐ, chủ yếu là NLĐ trong các hộ
kinh doanh và DN cực nhỏ, nhỏ và vừa, đã mất việc làm hoặc toàn bộ thu
nhập tại thời điểm phỏng vấn và 5,8% chỉ còn mức lương thấp hơn mức tới
thiểu. Thậm chí với 15,8% NLĐ vẫn giữ được việc làm và thu nhập, họ
khơng có thu nhập từ làm thêm giờ, thường chiếm tới 50% tổng thu nhập
bình thường đối với NLĐ ngành may hoặc điện tử. Đại dịch tạo ra khó
khăn kép với NLĐ di cư: một mặt thu nhập và việc làm của họ bị ảnh
hưởng (87,9% NLĐ di cư mất việc hoặc bị giảm lương).
COVID-19 tác động làm tăng tỷ lệ nghèo và cận nghèo về thu nhập và
làm sụt giảm thu nhập tạm thời của hộ gia đình và NLĐ. Theo kết quả khảo
sát của UNDP và UN WOMEN (2020), “trong tháng 12-2019, trung bình
tỷ lệ hộ nghèo là 11,3%. Tỷ lệ này tăng lên tới 50,7% trong tháng 4-2020.
Tỷ lệ hộ cận nghèo tăng từ 3,8% vào tháng 12-2019 lên 6,5% vào tháng 42020”. Quan trọng hơn, những hộ gia đình thuộc nhóm dân tộc thiểu sớ và
hộ gia đình có lao động phi chính thức và gia đình những người nhập cư
chịu tác động từ dịch bệnh lớn hơn. Cũng theo kết quả điều tra của UNDP
và UN WOMEN (2020), “thu nhập trung bình của các hộ gia đình dân tộc
16
thiểu số trong tháng 4 và tháng 5-2020 lần lượt chỉ tương ứng 25,0% và
35,7% so với mức tháng 12-2019. Trong khi đó, những con số này cao hơn,
lần lượt ước tính khoảng 30,3% và 52% đới với nhóm hộ gia đình người
Kinh và người Hoa. Trong tháng 4 và tháng 5-2020, thu nhập trung bình
của hộ di cư được ước tính chỉ tương đương 25,1% và 43,2% so với mức
của tháng 12-2019. Những con số này lần lượt là 30,8% và 52,5% đới với
nhóm hộ gia đình khơng di cư”
Trước đại dịch, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội cũng đã rõ. Tổng
Cục Thống kê năm nào cũng chia ra năm nhóm thu nhập, một nhóm người
có thu nhập rất cao, nhóm người nhiều hơn rơi vào nhóm thu nhập trung
bình và thấp. Đại dịch Covid-19 làm cho khoảng cách giữa nhóm đầu tiên
và nhóm ći cùng tăng lên. Khi Covid-19 xảy ra, với những giải pháp
phòng dịch như giãn cách xã hội, tạm dừng các hoạt động sản xuất, tạm
dừng cung cấp dịch vụ dẫn đến những người trong nhóm đó không có thu
nhập, rơi vào tình cảnh rất khó khăn. Trong khi đó mọi hoạt động trợ giúp
của Nhà nước hay các nhóm thiện nguyện cũng không đến ngay lập tức, tạo
ra những vấn đề xã hội như thiếu ăn, thiếu nhu yếu phẩm, không chỗ ở,
khơng có điều kiện phịng dịch. Hai vấn đề nởi lên trong lúc này là bình
đẳng về kinh tế và bình đẳng về tiếp cận các dịch vụ bảo vệ sức khỏe. Sự
trợ giúp của Nhà nước với hệ thống an sinh xã hội tương đối nhiều tầng bậc
và càng ḿn bảo đảm cơng bằng thì lại có một nhược điểm là sự trợ giúp
đến với người nghèo càng lâu hơn. Đại dịch này đã cho thấy hệ thống an
sinh xã hội của Việt Nam đang có nhiều vấn đề, đặc biệt là an sinh xã hội
dành cho nhóm “dễ bị tổn thương”.
17
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT.
1. Sản xuất và lưu thơng hàng hóa trong và hậu đại dịch
X́t phát từ thực trạng trên, nhằm giải quyết vấn đề lưu thông hàng
hóa trong điều kiện vừa chống dịch Covid-19 vừa tuân thủ các quy luật
kinh tế khách quan nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện
tính nhân văn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Thiết nghĩ các cấp
ngành, các địa phương cần phải tích cực thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho Nhân dân hiểu rõ về
các yêu cầu cần thiết khi thực hiện các biện pháp quyết liệt phòng, chống
dịch, an tâm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Thứ hai, quán triệt thực hiện tốt văn bản chỉ đạo của Chính phủ về việc
không thực hiện kiểm tra đối với các phương tiện vận chuyển hàng hóa
thiết yếu, lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống người dân (đã được dán
giấy nhận diện có mã QR Code của ngành Giao thông Vận tải) trên các
tuyến đường cao tốc, quốc lộ, tỉnh lộ, đường giao thông liên huyện, giao
thông đô thị.
Thứ ba các địa phương, vùng có dịch, khu vực phong tỏa cần linh động,
sáng tạo trong xây dựng các mô hinh đi chợ giúp dân, đội hình shipper áo
xanh, tổ chức các xe bán hàng lưu động phục vụ các mặt hàng thiết yếu
nhằm phục vụ kịp thời nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho Nhân dân
khu vực phong tỏa, cách ly.
Thứ tư, hoàn chỉnh hệ thống cập nhật dữ liệu của các đầu mối cung cấp
nông sản, hỗ trợ DN gặp khó khăn về vận chuyển, xét nghiệm nhanh
Covid-19, tạo điều kiện cho DN đến địa phương mua hàng, kịp thời giải
quyết nhu cầu tiêu thụ nông sản của những vùng sản xuất nông sản vào vụ
thu hoạch.
Thứ năm, yêu cầu các doanh nghiệp thương mại, bán lẻ hàng hóa cam
kết không tăng giá cả hàng hóa, dịch vụ, nhất là các mặt hàng thiết yếu.
18
Đảm bảo giá bán bình ổn thị trường, chung tay, đồng lòng cùng các cấp
chính quyền chia sẻ, hỗ trợ nhân dân vượt khó khăn mùa dịch.
Trên thực tế, đây là những giải pháp cấp bách, kịp thời để phục vụ nhu
cầu lưu thông hàng hóa thiết yếu trong điều kiện phòng, chống dịch. Về lâu
dài để phục vụ cho nhu cầu ổn định, phục hồi phát triển kinh tế - xã hội,
chúng ta cần phải có sự chuẩn bị cẩn trọng, từng bước, xây dựng những
kênh phân phối, vận chuyển hàng hóa dịch vụ đảm bảo an toàn, thông suốt
trong mọi điều kiện, thích nghi với những biến động nhanh chóng của tình
hình.
2. Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng khoa học cơng nghệ
Chính sách khún khích từ phía Chính phủ hướng đến các doanh
nghiệp công nghệ (DNCN). Các DNCN Việt Nam sẽ có nhiều ưu đãi hơn,
được tạo điều kiện nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm.
Thứ nhất, có các chính sách đãi ngộ cởi mở nhằm thu hút nguồn lực
người Việt chất lượng cao đang học tập, làm việc ở khắp nơi trên thế giới
về nước phục vụ công cuộc phát triển KHCN nước nhà. Khuyến khích học
sinh, sinh viên trong lĩnh vực KHCN đầu tư chất xám tập trung học tập,
nghiên cứu để chuẩn bị nguồn nhân lực bổ sung. Thường xuyên cử chuyên
viên đi học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ, tiếp cận với những
công nghệ tiên tiến hiện đại ở các quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, thành lập các công ty, viện, trung tâm nghiên cứu chuyên sâu
về phát triển, ứng dụng các cơng nghệ mới (trí ṭ nhân tạo - AI, Internet
vạn vật - IoT, Dữ liệu lớn - Big Data, Chuỗi khối - Blockchain…)
để giải quyết những vấn đề chưa có giải pháp đang tồn tại trong xã
hội. Tạo môi trường nghiên cứu đầy đủ, thuận tiện cho các chuyên gia có
điều kiện hoạt động chuyên mơn. Có nhiều chính sách miễn giảm th́ DN,
th́ ưu đãi về thuế xuất - nhập khẩu đối với hoạt động nghiên cứu khoa
học; hỗ trợ các khoản vay với ưu đãi về lãi suất đối với các DNCN.
19
Thứ ba, DNCN Việt Nam cần hướng tới làm chủ thiết kế
hệ thớng, tích hợp hệ thớng, tự chủ được tồn bộ q trình nghiên
cứu, sản x́t các sản phẩm cơng nghệ và cơng nghệ cao, ngồi việc xây
dựng tên tuổi Việt Nam trên thị trường công nghệ thế giới cịn nhằm đảm
bảo an tồn, an ninh mạng…
Thứ tư, xây dựng chuỗi liên kết, gia tăng tỉ lệ nội địa hóa, phát triển DN
hỗ trợ nhằm chủ động ng̀n vật liệu trong việc sản xuất sản phẩm. Các
DNCN lớn đóng vai trò đầu tàu, từ đó kéo theo hàng ngàn DNCN Việt
Nam tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất vừa để giúp các DN nhỏ có cơ
hội phát triển, mở rộng quy mô, vừa để thay thế các DN ngoại, góp phần
tạo cơng ăn việc làm, phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, khi nghiên cứu, phát triển các sản phẩm công nghệ,
DNCN cần chú ý đến nhu cầu, thị trường ứng dụng, từ đó
sản xuất các dòng sản phẩm từ giá rẻ đến cao cấp nhằm vào mọi đới tượng
trong xã hội để tận dụng tồn diện thị trường, mục tiêu đưa công nghệ 4.0
phổ cập ở Việt Nam và chinh phục được cả thị trường thế giới.
3. Giảm khoảng cách phân hóa giàu nghèo
Kể từ đầu tháng 3/2020, Chính phủ đã đưa ra gói hỗ trợ cho các DN bị
ảnh hưởng bao gờm gói hỗ trợ lãi śt trị giá 250 nghìn tỷ đờng, tạm ngừng
đóng kinh phí công đoàn và bảo hiểm hưu trí và tử t́t. Gói hỗ trợ trị giá
62 nghìn tỉ đờng (theo hình thức hỗ trợ tiền mặt) cho NLĐ cũng đã được
đưa ra nhằm hỗ trợ NLĐ bị tác động và các hộ nghèo. Ngồi ra cịn khá
nhiều các chương trình hỗ trợ của công đoàn, hội phụ nữ, tổ chức xã hội,
NSDLĐ và các nhà tài trợ cá nhân, tập trung chủ yếu vào hỗ trợ hiện vật,
giảm giá thuê trọ và đào tạo cho NLĐ. Ứng phó với đại dịch Covid-19,
Việt Nam đã làm đúng khi đưa ra các gói cứu trợ kịp thời cho NLĐ bị ảnh
hưởng41. Cho tới tháng 5/2020, khoảng 20% DN bị ảnh hưởng đã tiếp cận
các gói hỗ trợ của chính phủ và đã có dấu hiệu hồi phục trong các ngành
hải sản, may và điện tử. Hơn một nửa NLĐ mong muốn được nhận hỗ trợ
20
ngay để duy trì cuộc sớng, 54,1% NLĐ cần hỗ trợ tiền mặt, 13,3% cần hỗ
trợ hiện vật như gạo, mỳ tôm, dầu ăn và 50% mong muốn được hỗ trợ giảm
giá điện, phòng trọ và các mặt hàng thiết yếu như thịt lợn.
Tuy nhiên đây cũng là những biện pháp ứng phó cấp bách ngay trong
đại dịch. Vẫn cịn nhiều điểm bất cập, nhiều tồn tại vẫn chưa được giải
quyết. Dưới đây là một số đề xuất trong ngắn hạn để cải thiện được vấn đề:
Thứ nhất, Chính phủ và các hiệp hội DN có thể thành lập các đường dây
nóng hỗ trợ DN khó khăn tiếp cận các chương trình hỗ trợ. Các đường dây
nóng vừa tư vấn cho các DN thiếu thông tin về vấn đề thủ tục, quy định,
vừa có thể báo cáo nhanh cho các cơ quan thẩm quyền về nhu cầu thực sự
của DN đối với các khoản hỗ trợ
Thứ hai, Công đoàn cơ sở và cơng đoàn địa phương cần tích cực hơn
trong việc hỗ trợ NLĐ bị NSDLĐ đối xử không công bằng.
Thứ ba, Trong thời kỳ khủng hoảng, đối thoại xã hội đóng vai trò quan
trọng với cả NSDLĐ và NLĐ để tìm ra giải pháp phù hợp nhất cho cả hai
bên và phòng ngừa tranh chấp lao động. Do đó, cả tở chức của NSDLĐ và
cơng đoàn nên khún khích thành viên tiến hành đới thoại và tham vấn để
tìm ra giải pháp ứng phó và cùng nhau vượt qua khủng hoảng.
Thứ tư, Đại dịch cũng cho thấy NLĐ đang được trả mức lương (cơ bản)
quá thấp nên phải phụ thuộc quá nhiều vào lương tăng ca. Công đoàn, do
đó, cần thúc đẩy thương lượng tập thể thực chất để tăng lương cho NLĐ
thay vì chỉ điều chỉnh lương tới thiểu. Đồng thời cũng cần đầu tư nhiều hơn
vào đào tạo nâng cao tay nghề cho NLĐ để đảm bảo ổn định về lâu dài
trong tương lai.
21
IV. KẾT LUẬN
Bài tiểu luận này chỉ phân tích một góc nhỏ trong tởng thể lớn những
tác động của các quy luật kinh tế liên quan đến đại dich Covid-19. Trước
khi nhìn vào “bức tranh” tổng thể, em muốn tập trung vào phân tích thực
trạng hiện nay và những tác động cụ thể của quy luật giá trị đối với nền
kinh tế nước ta, từ đó dễ dàng hơn trong việc đưa ra những giải pháp khắc
phục nếu cần.
Thực tế nêu trên cho thấy, lý luận về quy luật giá trị của C.Mác không
chỉ đúng trong chủ nghĩa tư bản mà nó còn có ý nghĩa về lý luận và thực
tiễn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Vì thế, nghiên cứu và
vận dụng lý luận quy luật giá trị của C. Mác vào tình hình nước ta trong và
hậu thời kỳ Covid-19 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự
đồng bộ trong đởi mới các chính sách kinh tế - xã hội.
Hy vọng trong tương lai gần, Việt Nam sẽ chiến thắng được đại dịch
và nền kinh tế sẽ được cải thiện và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Q́c gia
2. Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) (2020), ‘’Evaluation of Covid-19
Impacts on the Economy and Policy Recommendations’’
3. Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân của Thủ tướng (Ban 4), Báo
cáo kết quả khảo sát tác động của Covid-19 tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp (5/3/2020).
4. VASEP (2020), Báo cáo Thủ tướng chính phủ và khuyến nghị chính
sách ( />5. />6. />7. />8. />9. />10. />11. />12. />
23
24