A. Lời mở đầu
Trong xu thế Tồn cầu hố đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế khách quan với hầu hết tất
cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng đang từng bước tham gia hội
nhập cùng với nền kinh tế quốc tế mà mở đầu rõ nhất bằng sự kiện chúng ta
đã gia nhập vào WTO tháng 11/2007. Đây cũng là thời cơ nhưng cũng là
thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong xu thế tồn cầu hố hiện nay.
Ở Việt Nam “Hội nhập kinh tế quốc tế” còn là một khái niệm mới mẻ,
được sử dụng nhiều từ giữ thập niên 1990 trở lại đây. Thuật ngữ hội nhập có
chung gốc tiếng Anh là Inteqration.
Hội nhập kinh tế thế giới là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị
trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thơng qua các nỗ lực tự
do hóavà mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
Như vậy, hội nhập thực chất cũng là sự chủ động tham gia vào q trình
tồn cầu hóa, khu vực hóa.
Hải Dương là một tỉnh nằm ở đồng bằng sơng Hồng, thuộc Vùng kinh tế
trộng điểm phía Bắc, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải
Dương nằm cách thủ đơ Hà Nội 57 km về phía Đơng, cách thành phố Hải
Phịng 45 km về phía Tây. phía Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Bắc giáp
tỉnh Bắc Giang, phía Đơng Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đơng giáp thành
phố Hải Phịng, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình và Phía giáp tỉnh Hưng n.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương hiện là đô thị loại 2.
Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đơ với vai
trị là một trung tâm cơng nghiệp của tồn vùng. Đây cũng là thời cơ nhưng
cũng là thách thức không nhỏ đối với Hải Dương trong xu thế tồn cầu hố
hiện nay. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, tơi xin mạnh dạn chọn đề tài:
“Tồn cầu hóa về kinh tế, vấn đề chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam và giải pháp chủ động
hội nhập kinh tế Quốc tế của tỉnh Hải Dương”
1
B. Nội dung
I. Tồn cầu hố
1. Khái luận chung về tồn cầu hố
Tồn cầu hố là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hố kinh tế v.v...
trên quy mơ tồn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, tồn cầu hố hầu như
được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hoá thương
mại hay “tự do thương mại” nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ
thấy các dịng chảy tư bản ở quy mơ tồn cầu kéo theo các dịng chảy thương
mại kĩ thuật, cơng nghệ, thơng tin, văn hố.
2. Các nhân tố dẫn đến tiến trình tồn cầu hố kinh tế và q trình
phát triển của nó
a. Các nhân tố dẫn đến tiến trình tồn cầu hố kinh tế
Nhiều thế kỉ trước, những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải, cơng nghệ
đóng tàu, khai phá giao thông, những phát triển của thị trường hàng hố đã
tạo điều kiện mở mang giao lưu bn bán giữa các quốc gia. Trải qua quá
trình phát triển lâu dài, quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng trở nên phổ biến,
bao quát nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức. Đặc biệt vài chục năm gần đây
xuất hiện những yếu tố kinh tế kỹ thuật rất mới dẫn đến bước phát triển nhảy
vọt cua tồn cầu hố các quan hệ kinh tế. Sau đây là 6 yếu tố cơ bản thúc đẩy
q trình tồn cầu hố:
Một là, Sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
Thực tiển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước quá độ từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, điều này được thể hiện rõ ở các quốc
gia phát triển. Cùng với nó các quốc gia đang phát triển cũng đã kết hợp bước
chuyển nông nghiệp lên công nghiệp kết hợp những bước nháy tắt để rút ngắn
quá trình xây dựng những cơ sở của nền kinh tế tri thức.
2
Sự phát triển của kinh tế tri thức dự trên các cơng nghệ có hàm lượng
khoa hoc kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi
cho sự đẩy nhanh xu thế toàn cầu hố, ví dụ như: các cơng nghệ mới làm tăng
tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian.
Công nghệ thông tin đồng thời cũng góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo
điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở của, giao lưu hội nhập.
Tóm lại, chính sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đã làm
phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên tất cả
các mặt giãu các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá nền kinh tế lên một
thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Cac quốc gia dù muốn
hay khơng dều chịu tác động của của q trình tồn cầu hố và đương nhiên
để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay không thế không tham gia q
trình tồn cầu hố, tức là hội nhập quốc tế.
Hai là, Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thi trường
Qua trình quốc tế hố, tồn cầu hố có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình
phát triển của kinh tế thi trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều
kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hố, thể hiện trên hai khía cạnh chính: Thứ
nhất, kính tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất, làm cho quy mơ sản xuất khơng bó hẹp trong phạm vi cua từng quốc
gia mà mang tầm quốc tế, như vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy q trình phân
cơng lao động quốc tế, gắn các quố gia vào sự ràng buộc của sản xuất và tiêu
thụ. Thứ hai, nền kinh tế thi trường phát triển của các quốc gia đưa lại cơ chế
thống nhất cho sử lý các mối quan hệ, đó là cơ chế thị trường.
Có thể nói, ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất với cơ chế vận
hành : cơ chế thi trường.
Kinh tế thi trườngcàng phát triển thì sự giao thoa thâm nhập lẫn nhau
giữa các nền kinh tế càng tăng. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường
không chỉ ở sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn
nhau giữa các quốc gia mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu. Đó là
3
sự bùng nổ phát triển của thi trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của
một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Thi trường sản phẩm hàng
hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở qui mơ chưa từng có của khối luqongj
giao dich thương mại và ở sự phát triển của các dang giao dịch mới như
thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy có thể thấy sư phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường chínhlà
cơ sở, điều kiệncho q trình quốc tế hố. Nhìn chung các quốc gia trên thế
giới ngày nayđèu dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công
cụcủa kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian
rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyểncác
yếu tố của chính q trình sản xuất ấy,
Ba là, Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết
thúc chiến tranh lạnh bước vào thời kì hồ bình hợp tác và phát triển.
Trong vài thập niên trở lại đây nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ
nhưng kéo theo đó là những vấn đề mang tính chất tồn cầunhư sự phân hố
giàu nghèo, sự ô nhiễm môi trường, dịch bệnh...Những vấn đề này liên quan
đến mọi quốc gia, có tác động trên phạm vi tồn thế giới, nó quyết định sự
phát triển tồn vong của tồ thể cộng đồng nhân loại.
Do đó khi giải quyết các vấn đề mang tính chất tồn cầu phải có sự nỗ
lực của mọi quốc gia, sự liên kết sức lực của cả cộng đồng. Bản thân mỗi
quốc gia cho dù tiềm lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn đề
liên quan đến toàn thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan qui định , thúc đẩy
cho việc tiến tới thống nhất những qui phạm chung cho quá trình phát triển
kinh tế.
Bốn là, Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia
Với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong chủ nghĩa tư bản tất yếu
dẫn đến sự tâp trung sản xuất và dẫn đến độc quyên. Trong lịch sử của nền
sản xuất thế giớivào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và những năm đầu của thế
4
kỷ 21 này dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuậtđã đưa lại
sự phát triển chưa từng có của các cơng ti xun quốc gia.
Đến nay có gần khoảng 60000 cơng ti xun quốc gia đang kiểm soát
2/3 nền thưong mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và
9/10 kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ thế giới. Với sức mạnh
như vậy các công ti xuyên quốc gia không những có ưu thế trong phân phối
tài nguyên trên phạm vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao động
quốc tếđi vào chi tiết hố mà cịn thơng qua việc tồn cầu hố sản xuất và
kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình tồn cầu hố kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của các công ti xuyên quốc gia trên địa phận tồn
cầu đã tạo ra mạng lưói liên kết kinh tế quốc tế. Các quốc gia có thể tham gia
ngay vào dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau gia tăng.
Các cơng ty xun quốc gia đã đóng vai trị rất lớn trong việc tăng mức
xuất khẩu, gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nứoc ngoài vào các nước
đang phát triển đẩy mạnh tiến trinhf hội nhập của nền kinh tế này vào nền
kinh tế thế giới nói chung.
Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các công ty
xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xố bỏ sự ngăn cách
biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc
từng bước thamm gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế
đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng, bổ sung vào nền
kinh tế tồn cầu làmm gia tăng tính đa dạng của nó.
Năm là, Sự hình thành và phát triển của các định chế toàn cầu và khu
vực.
Các định chế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế
hố, tồn cầu hố kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động của các định chế toàn cầu
và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế tồn cầu
hố.
5
Trong các tổ chức kinh tế- thương mại-tài chính tồn cầu và khu vực có
ảnh hưỏng lớn tới q trình tồn cầu hố và khu vực hố phải kể đến WTO,
IMF, WB và các tổ chức khu vực khác như EU, NAFTA, APEC...Với các mục
tiêu chức năng của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy
các hoạt động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lí các hoạt động này. Cho
dèu tính hiệu quả của các tổ chức này còn đựoc đánh giá khác nhau xuất phát
từ quan điểm lợi ích quốc gia, song không ai không thừa nhận sự cần thiết và
vai trị của chúng, thậm chí đang đặt ra u cầu về hoàn thiệncơ cấu tổ chức,
đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng.
Tác động của các tổ chức toàn cầu và đặc biệt là các tổ chức khu vực đến
xu thế tồn cầu hố kinh tế thể hiện ở hai điểm chính:
Thứ nhất, việc tham gia vào các tổ chức này cho phép các quốc gia đựoc
hưỏng những ưu đãi của hoạt động kinh doanh khu vực; thúc đẩy các quốc gia
trong khu vực tiến đến những chuẩn mực chung trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở các thoã thuận hợp tác song phương và đa
phươngđã làm tăng lên sự gắn bó tuỳ thuộc lân nhau giữa các nền kinh tế,
thực chất nó đã thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc trong
nội bộ tổ chức.
Thứ hai hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình
thành một thị trường thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia
phải có lịch trình hội nhập tích cực để hồ đồng vào khu vực.
Nói tóm lại các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là
động lực của quá trình tồn cầu hố kinh tế.
Sáu là, Vai trị của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát
triển.
Tồn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của tồn cầu hố phụ
thuộc rất nhiều vào chính sách của các quốc gia. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất thì việc đóng cửa đất nước khơng giao lưu thơng thương với nưocs ngoài
của các quốc gia đã làm cho lưu thông quốc tế bị hạn chế nền kinh tế thế giới
6
suy thoái mạnh.Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ haithì các quốc gia phát
triển đã nhận thấy vấn đề cần phải tự do háo thương mại, giảm các hàng rào
thuế quan nhằm bành trướng thế lực ra bên ngoài. Và cho đến naythì hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện tư nhân
hố và tự do hố mở ra khơng gian mới cho sự gia tăng xu thế tồn cầu hố.
Đặc biệt trong quá trình cải cách nhiều quốc gia đã chuyển hướng phát triển
kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại mà cốt lõi là chuyển từ cơng nghiệp
hố thay thế nhập khẩu sang cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu.
Với chiến lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu buộc các quốc gia
phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế không chỉ phải
dựa vào nhu cầu bên trong mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới,
sản xuất sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của thị trường
quốc tế. Muốn vậy đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, cho nhập
các thành tựu công nghệ, thu hút vốn đầu tư để xây dựng và phát triển một cơ
cấu ngành kinh tế phù hợp. Như vậy với chiến lược hướng về xuất khẩu, trên
thực tế đã đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa
các nền kinh tế thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế dựa trên thế
mạnh của từng nền kinh tế đân tộc.
Ngoài những nhân tố đã nêu trên thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tồn cầu
hố trong những năm gần đây chúng ta cịn có thể kể đến một số nhân tố khác
xem như xung lực đẩy mạnh thêm cho xu thế toàn cầu hố. Đó là sự phát triển
về dân chủ, văn hoá...
7
b. Q trình diễn ra tồn cầu hố kinh tế
Tồn cầu hóa kinh tế nảy sinh rất sớm và dần dần phát triển, để rồi tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt như hôm nay. Ngay từ đầu thế kỷ XVI - XVII
– XVIII với sự giao thương giữa các quốc gia, đã hình thành dần các nhân tố
quốc tế hóa kinh tế. Tun ngơn của Đảng Cộng sản đã khẳng định: “Đại
công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới...Thay cho tình trạng cơ lập trước kia
của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những
quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”.
Tồn cầu hóa kinh tế khởi nguồn từ trao đổi thương mại, dần dần phát
triển sang nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, dịch vụ, đầu tư, mơi trường, xã
hội. Nó thu hút tất cả các nền kinh tế của các quốc gia, không phân biệt giàu,
nghèo, phát triển hay chưa phát triển, quốc gia lớn và cả quốc gia bé, các
nước có chế độ chính trị khác nhau.
Tồn cầu hóa kinh tế làm cho các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia
gắn bó với nhau, phụ thuộc vào nhau, tác động lẫn nhau. Thơng qua tồn cầu
hóa mà nền kinh tế các nước tạo ra những lợi thế mới để thúc đẩy lực lượng
sản xuất, kỹ thuật công nghệ phát triển từ đó làm cho nền kinh tế của từng
nước có thể vượt qua các thế yếu của mình mà tạo ra lợi thế mới và thế mạnh
mới. Nhưng ngược lại toàn cầu hóa cũng có thể làm cho nền kinh tế của từng
nước, từ chỗ có lợi thế so sánh, từ chỗ có thế mạnh lại trở thành nền kinh tế
yếu kém, khơng có lợi thế, nếu bỏ lỡ thời cơ.
Tồn cầu hóa kinh tế cũng dẫn đến xu thế khu vực hóa kinh tế. Khu vực
hóa kinh tế thực chất là sự tập hợp lực lượng của các nền kinh tế khu vực để
hỗ trợ nhau tạo ra sức mạnh của từng khu vực kinh tế thích ứng với tồn cầu
hóa kinh tế. Hiện tượng này chính là sự thể hiện sinh động, đa dạng mà thống
nhất của toàn cầu hóa. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều khu vực kinh tế
như : ASEAN, Đại Tây Dương, EU, Bắc Phi, APEC, FTAA, Ấn Độ Dương ...
8
Xu thế tồn cầu hóa kinh tế được thể chế hóa thành nhiều văn bản mang
tính quốc tế như các công ước, hiệp định quốc tế và được tổ chức thành các tổ
chức kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ. Đây là một quá trình đấu tranh
gay gắt kéo dài của các nền kinh tế của các quốc gia, giữa nước nghèo và
nước giàu nhằm vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia mình vừa hịa thuận
để cùng phát triển, cạnh tranh và sinh tồn.
3. Những mặt tích cực tiêu cực của q trình tồn cầu hố kinh tế
Tồn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên
thế giới. Tính tất yếu khách quan của Tồn cầu hóa kinh tế được thúc đẩy bởi
các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc
biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thơng tin. Tồn cầu hóa kinh tế
có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng
trong chiến lược hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung
những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Tồn cầu hóa kinh tế đang ngày càng
lơi cuốn nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị
- xã hội khác nhau tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay và trong
nhiều năm tới Tồn cầu hóa kinh tế chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả
các quốc gia, dân tộc. Tồn cầu hóa kinh tế chưa phải là mơi trường tốt đẹp
mà vào đó ai cũng thắng, ai cũng có lợi như nhau và khơng ai phải trả giá. Xu
thế Tồn cầu hóa kinh tế diễn ra không trôi chảy, dễ dàng mà phải thơng qua
q trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước: các nước phát triển
và các nước đang phát triển, trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa Tồn cầu
hóa và liên kết khu vực, giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch...
a. Tích cực
- Tồn cầu hoá kinh tế thúc đẩy tự do hoá mậu dịch phát triển. Nhìn lại
tình hình bn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như khơng cịn
tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế phát triển.
Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế
9
giới, là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước
cũng như ngành ngoại thương đóng vai trị rất lớn đối với tăng trưởng tổng
sản lượng quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của GDP Mỹ vào
ngành ngoại thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc của GDP Trung
Quốc với ngành ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%. Do tính phụ
thuộc vào ngành ngoại thương ngày càng cao, nên mức độ tự do hoá mậu dịch
của các nước trong khu vực Đông Nam Á cao hơn của các nước ở Mỹ Latinh.
Bởi vì, tới nay sự phát triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ yếu dựa vào
nội thu, trong khi nhân tố nhu cầu nước ngoài thấp hơn nhiều so với các nước
Đơng Á.
- Tồn cầu hố kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hố lưu chuyển
vốn, có lợi cho tự do hố đầu tư. Từ năm 2001 tới 2003, mặc dù đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) giảm sút rất lớn, nhưng bắt đầu từ năm 2004 đã có dấu
hiệu tăng trưởng trở lại. Theo “Báo cáo đầu tư năm 2005” do Hội nghị phát
triển mậu dịch Liên hợp quốc công bố, tổng số FDI trên toàn thế giới đã lên
tới 648 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2003. Điều này cho thấy xu thế đầu tư
quốc tế giảm sút từ năm 2001 tới 2003 đã được ngăn chặn và bắt đầu gia tăng
trở lại trên thế giới.
Năm 2004, các nước Phương Tây đã tiếp nhận FDI trị giá khoảng 380
tỷ USD, giảm 14% so với năm 2003. Trong khi đó, FDI ở các nước đang phát
triển tăng 40%, với tổng giá trị 233 tỷ USD. Rõ ràng nếu khơng có tồn cầu
hố kinh tế thì khơng thể quốc tế hố vốn và di chuyển dễ dàng từ nước này
qua nước khác.
Toàn cầu hoá kinh tế chẳng những thúc đẩy FDI tăng lên mà ở mức độ
lớn đã thúc đầy tự do hoá đầu tư. Mấy năm qua, do môi trường đầu tư được
cải thiện, xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt. “Báo cáo của Hội
nghị mậu dịch Liên Hợp quốc” năm 2004 cho biết hai nước có FDI đổ vào
nhiều nhất là Mỹ và Anh, trong đó Mỹ tiếp nhận tới 96 tỷ USD và nước Anh
tới 78 tỷ USD. Mặc dù các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị trường
10
vốn của mình và đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài,
nhưng do cơ chế và thị trường cịn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự do
hoá tiền vốn của các nước đang phát triển kém hơn nhiều so với các nước
phát triển. Đây chính là vấn đề mà các nước đang phát triển cần nghiên cứu
và hoàn thiện để tận dụng được cơ hội tốt của tồn cầu hố.
- Tồn cầu hố kinh tế đã “bật đèn xanh” cho tự do hoá lưu chuyển tiền
tệ. Trong điều kiện ngày nay, mọi tổ chức ngân hàng, tài chính, tiền tệ và thị
trường chứng khốn của các nước đều phải phát triển theo xu thế tồn cầu
hố. Nếu ra đời xu thế này, thì khơng thể nói tới tự do hố lưu chuyển tiền
vốn.
Ba thị trường chứng khoán nổi tiếng là New York, London và Tokyo
giờ đây đã len lỏi tới khắp nơi trên thế giới đề thu hút tiền vốn. Thông qua
việc không ngừng điều chỉnh tỷ giá hối đoái, những đồng tiền như USD, Euro
và đồng Franc của Thuỵ Sĩ đều trở thành đồng tiền dự trữ và có thể tự do lưu
hành ở các nước. Tóm lại, tiền tệ được tự do lưu hành như hiện nay rõ ràng do
tác động mạnh mẽ của tiến trình tồn cầu hố.
- Tồn cầu hố đã thúc đẩy phát triển sản xuất xuyên quốc gia. Mấy năm
qua, đặc điểm nổi bật nhất của sản xuất xuyên quốc gia là sản xuất của các
công ty xuyên quốc gia mở rộng mạnh mẽ ra các nước. Đầu năm 1994, Khu
vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ vừa mới khởi động, các công ty xuyên quốc gia
của Mỹ đã nhân cơ hội này thành lập một loạt công ty con ngay gần biên giới
Mehico. Những công ty này đã lợi dụng nguyên vật liệu, tài lực, vật lực của
địa phương sản xuất hàng hoá giá rẻ đưa về thị trường nội địa Mỹ. Mấy năm
qua, hầu hết các công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và các nước trên thế giới
đều tới Trung Quốc lập văn phòng hoặc trụ sở công ty để tiến hành sản xuất
kinh doanh ngay tại Trung Quốc.
Tóm lại, dưới tác động của tồn cầu hóa kinh tế, thế giới ngày nay trở
thành một thế giới thống nhất trong đa dạng. Các nền văn hóa giao thoa, con
người ngày càng có điều kiện hướng tới sự phát triển toàn diện. Cùng với toàn
11
cầu hóa là xu thế khu vực hóa. Xu thế khu vực hóa phản ánh sự khác biệt và
mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, khu vực trong một thế giới đa dạng,
trong đó sự hợp tác và liên kết quốc tế ngày càng tăng lên nhưng cuộc đấu
tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và quyết liệt.
b. Tiêu cực hay là mặt trái của q trình tồn cầu hố kinh tế
Những tác động tiêu cực của q trình tồn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ
nguyên nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn
chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới, thao túng q trình tồn cầu hóa kinh
tế, lợi dụng q trình tồn cầu hóa kinh tế để tăng cường bóc lột các nước
nghèo thu lợi nhuận độc quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực
sau đây của q trình tồn cầu hóa kinh tế.
- Tồn cầu hóa kinh tế thơng qua tự do hóa thương mại thường đem lại
lợi ích lớn hơn cho các nước cơng nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có
chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ
chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các
nước cơng nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai
(như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, mơi
trường...). Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát
triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là
chuyển giao những cơng nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các
nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các
nước chậm phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước
này.
- Tồn cầu hóa kinh tế tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an
ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ
thuộc vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ
quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác
kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các
thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các nước
12
khác, thực hiện "diễn biến hịa bình" thay đổi chế độ xã hội theo hướng thân
phương Tây. Đối với các nước XHCN, chúng tìm cách xóa bỏ chế độ XHCN
và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng Sản...
Thơng qua con đường kinh tế, Mỹ và các thế lực đế quốc tìm cách gây
sức ép với nhiều nước khác trong đó có các nước đi theo con đường XHCN
về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo..., dùng mọi hình
thức để can thiệp vào cơng việc nội bộ của nước đó.
- Tồn cầu hóa kinh tế làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm
sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những
nước được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình tồn cầu hóa kinh tế là những
nước có nền kinh tế thị trườngphát triển (Mỹ, EU, Nhật...), những nước chịu
nhiều thiệt thịi nhất trong q trình tồn cầu hóa kinh tế là những nước có
nền kinh tế đang và chậm phát triển, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa
được hình thành đồng bộ.
Theo báo cáo của chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), tồn
thế giới vẫn cịn hơn 1,2 tỷ người nghèo. Hiện tại, dân chúng ở 85 quốc gia có
mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm. Các nước công nghiệp phát triển,
với khoảng 1,2 tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 86%
GDP tồn cầu, trong khi đó các nước nghèo chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng
chỉ tạo ra 1% GDP tồn cầu.
Năm 1985, thu nhập bình qn tính theo đầu người ở các nước giàu chỉ
gấp 76 lần so với các nước nghèo thì đến năm 1997, sự chênh lệch này đã
tăng: 288 lần.
Theo tổng kết của UNDP, từ khi diễn ra q trình tồn cầu hóa đến nay,
trên thế giới có 10 nước giàu lên, 130 nước nghèo đi, trong đó 60 nước GDP
bình qn đầu người thấp hơn trước khi tham giatồn cầu hóa. Tổng số nợ
nước ngoài của các nước kém phát triển lên tới gần 2000 tỷ USD. Trong đó,
250 tỷ thuộc 41 quốc gia kém phát triển nhất. Trong số những nước vay nợ để
phát triển, chưa đến 10% số nước có khả năng trả được nợ. Số còn lại biến
13
thành con nợ lưu cữu. Nợ nước ngoài quá lớn của nhiều nước hiện nay như
tảng đá đeo lên cổ họ đã kéo lùi sự tăng trưởng kinh tế ở những nước này.
- Tồn cầu hóa kinh tế có thể làm cho mọi hoạt động và đời sống con
người trở nên kém an toàn. Từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến
an tồn quốc gia và an tồn của hệ thống thương mại, hệ thống tài chính tồn
cầu.
- Do tác động của tồn cầu hóa kinh tế các dịng hàng hóa, dịch vụ, vốn,
cơng nghệ... dễ lưu thơng trên bình diện tồn thế giới. Song cũng chính vì vậy
mà sự đổ vỡ và "khủng hoảng" ở một khâu hoặc ở một nước nào đó theo hiệu
ứng lan truyền có thể làm rung chuyển đến tất cả các quốc gia và khu vực trên
thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu Á năm 1997 là một ví
dụ.
- Tồn cầu hóa kinh tế có thể giúp cho các nước công nghiệp phát triển
lợi dụng việc trả lương cao, các thiết bị nghiên cứu khoa học tốt, môi trường
làm việc thuận lợi để thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển. Do vậy,
nguy cơ chảy máu chất xám là một hiểm họa thực sự của các nước đang phát
triển trong cơ lốc của toàn cầu hóa kinh tế.
4. Kết luận chung về tồn cầu hố
Nhận rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của tồn cầu hóa kinh tế, tất cả các
quốc gia đều phải biết chủ động để bơi theo dòng chảy, nếu khơng sẽ bị vùi
lấp và nhấn chìm. Hiện nay các nước chậm phát triển đã và đang tập hợp để
đấu tranh chống o ép, chống lại sự đè nén của các nước lớn, cố gắng bằng mọi
cách giành lấy từng phần quyền lợi cho dân tộc, đất nước mình. Từ đó cho
thấy sự đồn kết đấu tranh quốc tế của những người nghèo, của các quốc gia
nghèo trên thế giới cũng như từng khu vực hơn lúc nào hết, giờ đây được đặt
ra một cách khẩn thiết.
Trình độ vận dụng, mức độ khai thác mặt tích cực của tồn cầu hóa kinh
tế, khả năng hạn chế mặt tiêu cực của tồn cầu hóa kinh tế ở từng nước rất
khác nhau. Tất cả đều phụ thuộc vào chính chủ quan của mỗi nước, đó là bản
14
lĩnh vững vàng của mỗi dân tộc. Vai trò và khả năng của Đảng cầm quyền và
sự quản lý của nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở đây nổi trội lên là sự chủ động,
sáng tạo trong đường lối, chính sách phát triển, chiến lược và chiến thuật dẫn
dắt nền kinh tế của từng quốc gia.
II. Hội nhập kinh tế quốc tế
1. Khái luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các
doanh nghiệp tham gia vào một mơi trường kinh doanh mang tính chất tồn
cầu, khu vực với các quy luật chung và có yếu tố cạnh tranh
Hội nhập kinh tế của các nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có Việt Nam)
là quá trình thực hiện tự do hố thương mại và thực hiện cải cách toàn diện
theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế như hàng
hố xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu
tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh tranh quốc
tế gay gắt và tăng dần hiệu quả theo quy mơ.
2. Tính tất yếu của q trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Trong khoảng hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế
giới có bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm cơ bản là: Tốc độ tăng trưởng
nhanh và khá ổn định; lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nhưng
từ giữa những năm 70 đến đầu thập kỷ 80 (thế kỉ XX) “thế giới đang trải qua
một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của
mình”.
Từ thập kỷ 80, tồn cầu hố là hiện tưởng nổi bật và là xu thế khách
quan của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển khơng thể
tách rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội
nhập trở thành một xu thế tất yếu của thời đại.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước 86 là một nền kinh tế kém phát
triển. Đặc biệt trong những năm 1976-1980, kinh tế tăng trưởng chậm chạp,
thậm chí có năm giảm sút.Giai đoạn 1981-1985, nền kinh tế tăng trưởng
15
nhanh hơn, nhưng tình hình kinh tế bất ổn do lạm phát nghiêm trọng. Vì vậy
đặt ra cho Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế để tranh thủ vốn cơng nghệ
để có thể đi tắt đón đầu vươn lên trở thành 1 nền kinh tế mạnh của khu vực.
Ngay khi bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội VI của Đảng đã nhận
định: “Trên thế giới đang hình thành một thị trường” (khác với trước đó ta
thường nhấn mạnh trên thế giới có hai thị trường vận hành theo các quy luật
riêng). Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội VII có đánh giá rằng,
“nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong q trình quốc tế hóa sâu
sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc”.
Đại hội IX lần đầu tiên đề cập khái niệm “tồn cầu hóa kinh tế”, coi đó là một
xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia… và Đại hội X
khẳng định lại “Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển." Là một bộ phận cấu thành của thế giới,
nước ta khơng thể khơng tính đến và đứng ngồi xu thế đó.
16
Trên thực tế nền kinh tế nước ta gắn kết khá chặt chẽ với kinh tế thế giới
cả ở “đầu vào” lẫn “đầu ra”. Để duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao,
nước ta cần số vốn đầu tư khơng nhỏ song vốn trong nước lại có hạn nên
riêng trong 5 năm qua đã phải huy động khoảng 30% nhu cầu vốn từ bên
ngoài (cả FDI lẫn ODA) và nhập khẩu một lượng đáng kể máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu. Do thu nhập của các tầng lớp dân cư cịn thấp và cần
có ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất, nhiều hàng hóa làm ra
phải tiêu thụ tại thị trường bên ngoài, do đó kim ngạch xuất khẩu của nước ta
chiếm tới trên 60% giá trị GDP (nếu tính cả giá trị xuất nhập khẩu thì chúng
chiếm trên 130% GDP, so với Trung Quốc tỷ lệ đó chỉ khoảng 57%).
Với nhận thức và nhu cầu nói trên, suốt mấy chục năm qua Đảng ta luôn
luôn nhấn mạnh yêu cầu mở rộng sự hợp tác kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất
khẩu, tranh thủ vốn, cơng nghệ từ bên ngồi. Đại hội IX lần đầu tiên đã nêu
khái niệm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và tháng 11/2001 Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã thông qua nghị quyết riêng là Nghị quyết 07/NQ-TW về
hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng theo tinh thần đó Đại hội X bổ sung thêm ý
“tích cực” sau ý “chủ động” hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhấn mạnh thêm
quyết tâm hội nhập. Trên thực tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới khi
gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, tổ chức thương
mại thế giới WTO (2006) ký các hiệp định thương mại - đầu tư song phương
với EU, Hoa Kỳ rồi sau là Nhật Bản theo các thơng lệ quốc tế.
3. Q trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ đổi mới đến
nay.
Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế ln ln là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết các doanh nghiệp là nền
tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trực tiếp
tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc nắm vững các cam kết hội
nhập hiện nay của ta và nhìn thấy trước triển vọng của tiến trình này trong
tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì nó là cơ sở
17
để các doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động
phù hợp với tình hình đan xen giữa những cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự
cạnh canh ngày càng tăng từ nhiều phía và ngay cả trên thị trường trong nước.
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng
với sự nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá
trình từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường
và tham gia vào các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có
nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các
hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những
nguyên tắc của thị trường có định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào
thuế quan và phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hố,
dịch vụ, vốn, cơng nghệ, nhân cơng… giữa Việt Nam và các nước được dễ
dàng, phù hợp với những quy định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và
thế giới mà Việt Nam tham gia.
Đồng thời việc đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan
hệ kinh tế-thương mại với các nước (đến nay, nước ta đã ký kết trên 70 hiệp
định thương mại song phương, trong đó đáng chú ý nhất và tồn diện nhất là
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ ký năm 2001), Việt Nam đã lần lượt tham gia
vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế.
- Bước phát triển có tính đột phá của quá trình này là việc chúng ta chính
thức gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995 và tham gia Khu vực Thương mại Tự
do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng lần lượt cùng
các nước ASEAN tham gia vào các cơ chế liên kết ASEAN trong các lĩnh vực
dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin…
- Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn
Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) – khối kinh tế khu vực lớn
nhất thế giới, chiếm hơn 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn
50% viện trợ nước ngoài (ODA) của Việt Nam.
18
- Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập tổ chức Hiệp định
chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), tiền thân của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và năm 1995 đã chính thức xin gia nhập WTO- một tổ
chức thương mại toàn cầu với 145 thành viên, hiện kiểm soát trên 90% tổng
giá trị giao dịch thương mại của thế giới. Cho đến nay, ta đã tiến hành nhiều
bước chuẩn bị theo yêu cầu của WTO, họp 5 phiên với Nhóm Cơng tác về
việc Việt Nam gia nhập WTO, hoàn thành giai đoạn diễn giải, minh bạch hoá
chế độ thương mại của ta. Chúng ta đã chuyển Ban thư ký WTO bản chào ban
đầu về thuế quan và dịch vụ và bắt đầu tiến hành giai đoạn đàm phán thực
chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên WTO.
- Từ đầu năm 2002, chúng ta cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán
với Trung Quốc về thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.
Đầu tháng 11/2002 vừa qua, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Hiệp
định khung về Hợp tác kinh tế hai bên, trong đó quy định những nguyên tác
cơ bản của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ hoàn thành vào
năm 2010 đối với Trung quốc và ASEAN-6, năm 2015 đối với ASEAN-4. Bắt
đầu từ năm 2003, hai bên sẽ đàm phán cụ thể hoá các nguyên tắc trên thành
các quy định để thực hiện Khu vực mậu dịch tự do này.
- Tháng 9/2002, tại Brunei, các nước ASEAN và CER (úc và Niudilân)
đã ký Tuyên bố chung thiết lập Đối tác kinh tế gần gũi (CEP) giữa hai bên.
Các nhà đàm phán của các nước ASEAN và CER sẽ tiếp tục đàm phán cụ thể
hoá các cam kết của đối tác kinh tế gần gũi này trong thời gian tới.
- Với Nhật, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật ở Cămpuchia đầu tháng
11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN và Nhật đã nhất trí thiết lập Đối tác kinh tế
tồn diện, trong đó bao gồm cả một Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật,
dự kiến sẽ được thành lập sớm, có thể là trước cả Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc.
- Với Mỹ, vừa qua tại Hội nghị cấp cao APEC ở Mêhicô (tháng
10/2002), Tổng thống Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến vì sự năng động ASEAN”
19
nhằm thắt chặt quan hệ hợp tác giữa Mỹ và ASEAN thông qua việc từng bước
ký các hiệp định thương mại tự do song phương với từng nước ASEAN.
- Bên cạnh việc tham gia liên kết kinh tế song phương và đa phương như
đã nêu trên, trong những năm qua, Việt Nam cũng đồng thời tham gia vào các
liên kết kinh tế tiểu vùng như Lưu vực Mêkông mở rộng (GMS), Hành lang
Đông Tây (WEC), Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Cămpuchia…
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là một tiến trình từng
bước từ thấp đến cao diễn ra trên cả phương diện đơn phương, song phương
và đa phương, lồng gép các phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn
cầu, diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu
trí tuệ…
Cho đến nay, các cam kết hội nhập chủ yếu của Việt Nam gồm những
nội dung cơ bản như sau:
1. Về cắt giảm thuế quan
- Trong AFTA: Bắt đầu thực hiện giảm thuế quan vào 1996; về cơ bản
đưa mức thuế suất xuống còn 0-5% vào năm 2005 đối với hàng hoá nhập
khẩu từ các nước ASEAN và đạt 100% số dòng thuế ở mức 0% vào năm
2015.
- Trong APEC: Về cơ bản thực hiện mức thuế suất 0% vào 2020.
- Hiệp định Việt-Mỹ: Cắt giảm thuế quan đối với khoảng 400 dịng thuế
theo những lộ trình khác nhau.
- Khu vực MDTD ASEAN-Trung Quốc: Theo Chương trình “Thu hoạch
sớm” thì bắt đầu từ 2004, ta sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan nhanh đối với
mặt hàng cam, quýt của Trung Quốc nhập vào Việt Nam, trong khi đó tất cả
các mặt hàng nơng sản ta xuất sáng Trung Quốc nằm trong các chương từ 1-9
của biểu thuế xuất nhập khẩu của ta hiện nay sẽ được hưởng nhân nhượng về
thuế quan nhanh của Trung Quốc.
2.Vềphithuế
- Trong AFTA:
20
+ Đến 2006, về cơ bản ta hoàn thành việc xoá bỏ các hạn chế về định
lượng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN và tiến tới xoá bỏ các
hàng rào phi thuế quan khác.
+ Bắt đầu từ 2002 thực hiện Hiệp định đánh giá giá trị hải quan của
WTO;
+ Từng bước thực hiện việc đơn giản hoá, thuận lợi hoá và thống nhất
các thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu.
- Trong APEC: Từng bước và tiến tới xoá về cơ bản các hàng rào phi
thuế quan vào năm 2002.
- Hiệp định Việt-Mỹ: Việc xoá bỏ các rào cản phi thuế được thực hiện
theo những lộ trình cụ thể đối với trên 200 sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ vào
VN.
3.Vềdịchvụ.
Chúng ta đã cam kết thực hiện tự do hoá đối với nhiều lĩnh vực dịch vụ theo
các lộ trình cụ thể khác nhau cả trong ASEAN, APEC, Hiệp định Việt-Mỹ.
Nhìn chung, ta sẽ từng bước mở cửa thị trường Việt Nam và dành đối xử bình
đẳng đối với các dịch vụ cũng như các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh
vực dịch vụ.
4. Về đầu tư.
Chúng ta cũng đã có những cam kết cả trong khuôn khổ ASEAN, APEC,
Hiệp định Việt-Mỹ về mở cửa thị trường Việt Nam cho các nhà đầu tư nước
ngoài vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, thực hiện các biện pháp tự do hoá
và thuận lợi hoá đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và tiến tới dành cho các
nhà đầu tư nước ngoài quy chế đãi ngộ quốc gia.
5. Về sở hữ trí tuệ.
Những cam kết của ta dựa căn bản trên các nguyên tắc của Hiệp định
TRIPS và các công ước của WIPO. Theo đó, ta sẽ phải tơn trọng và thực hiện
bảo hộ các quyền về bản quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế, thương
hiệu, thiết kế, kểu dáng công nghiệp, giống vật nuôi cây trồng…
21
6.Vềcơngkhaihóa.
Chúng ta phải cơng khai hố các chính sách, luật lệ, quy định về chế độ
thương mại, thủ tục hành chính có liên quan và bảo đảm cho mọi người có thể
tiếp cận một cách thuận lợi và dễ dàng các thơng tin đó.
Những gì chúng ta đã cam kết và thực hiện trong những năm qua được
kiểm nghiệm là đúng, cơ bản phù hợp với xu thế và điều kiện thực tế của đất
nước ta, do vậy đã đóng góp quan trọng vào những thành tựu kinh tế xã hội to
lớn của đất nước.
Trước sự gia tăng của xu thế tồn cầu hố trong những năm tới, tiến trình
HNKTQT của chúng ta sẽ tiếp tục có những phát triển mới cả về bề rộng lẫn
bề sâu.
Trong ASEAN, quá trình tự do hoá sẽ được thúc đẩy lên mức cao hơn và
rộng hơn về phạm vi lĩnh vực nhằm biến ASEAN không chỉ thành một khu
vực mậu dịch tự do mà còn là một thị trường chung, một cộng đồng kinh tế
trong tương lai. ASEAN cũng sẽ phát triển mạnh hơn các mối liên kết kinh tế
với các đối tác ngồi khu vực để hình thành những khối liên kết kinh tế lớn
hơn như các khu vực MDTD ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Nhật như đã
được các nhà lãnh đạo các nước này nhất trí. Có thể trong tương lai, sẽ hình
thành và phát triển các liên kết kinh tế sâu giữa ASEAN-Mỹ, ASEAN-CER,
ASEAN-Ấn
Độ, ASEAN-EU, ASEAN-Hàn
Quốc, ASEAN-NAFTA,
ASEAN-MERCOSUR… Không loại trừ khả năng sẽ hình thành một khu vực
MDTD thống nhất cho tồn bộ khu vực Đơng á.
Song hành với tiến trình hội nhập khu vực đó, chúng ta sẽ tích cực chuẩn
bị và đàm phán để sớm gia nhập WTO (mục tiêu là cố gắng trước khi kết thúc
Vịng Đơ-ha vào 2005).
Ngồi ra, chúng ta cũng thúc đẩy các liên kết kinh tế song phương trên
cơ sở các hiệp định MDTD song phương với các nước, đồng thời tiếp tục tăng
cường liên kết kinh tế vùng.
22
Tiến trình hội nhập kinh tế đa diện đa lộ trình như vậy sẽ tạo ra cho các
doanh nghiệp những cơ hội-thuận lợi đan xen với những thách thức-rủi ro cần
được nhận dạng rõ để chủ động tận dụng và đối phó.
4. Thành tựu và hạn chế
a. Thành tựu
Tồn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và
đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó,
từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hố, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực.
- Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất
khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết
trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định
hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5
nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước trong nhóm
G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến
lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây
Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăn lên (91
23
cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực
bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phịng kinh tế văn hóa.
- Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích
cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á
Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc
tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp
định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương
mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về
hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó,
năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và
đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một
bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm
phán gia nhập Tổ chức này.
Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay có một số điểm nổi bật sau:
1. Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong
các tổ chức kinh tế quốc tế.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO,
ASEAN, APEC, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam
kết và tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ
thể như sau:
* Trong khuôn khổ WTO:
24
- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính
sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này
thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam
kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
- Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở
cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ
nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
- Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm
phán trong khn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam có liên
quan đến Việt Nam như nơng nghiệp, cơng nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp thủy
sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO…..
- Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho phiên rà sốt chính sách thương
mại lần đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian đầu
năm 2013.
* Trong khuôn khổ ASEAN
- Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN,
1995-2011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày
càng phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và
chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn
đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác
thương mại và đầu tư lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ
2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).
- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi
trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam
tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
25