Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN TRƯỜNG AN
MSSV: 1055040002

TỪ CHỐI, THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2010 - 2014

Người hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Hoàng Yến

TP.HCM – Năm 2014



LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cơ khoa Luật Hành
chính trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tác giả trong
quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến Ths. Nguyễn Hồng Yến, người đã tận tình hướng dẫn
cũng như động viên tác giả trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
ln bên cạnh giúp đỡ, động viên tác giả trong thời gian vừa qua.

Mặc dù tác giả đã rất cố gắng để hoàn thành tốt luận văn nhưng do năng


lực và thời gian có hạn nên luận văn khơng thể tránh khỏi những sai sót.
Tác giả mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cơ và bạn bè.
Chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHXNCNVN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

HĐQT

Hội đồng quản trị

HVHC

hành vi hành chính

Luật TTHC 2010

Luật Tố tụng hành chính năm 2010

Pháp lệnh TTGQCVAHC

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính


QĐHC

quyết định hành chính

TAND

Tịa án nhân dân

TGTT

tham gia tố tụng

THTT

tiến hành tố tụng

TTHC

tố tụng hành chính

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU


Trang

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI NGƯỜI
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát về người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính ................... 1
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng ................................................................... 1
1.1.2. Những người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính ................................ 4
1.2. Khái niệm, ý nghĩa của từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng hành chính ......................................................................................................... 7
1.2.1. Khái niệm từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng ........................................ 7
1.2.2. Ý nghĩa của từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng ...................................... 8
1.3. Quy định pháp luật một số quốc gia về từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng ........................................................................................................................... 12
1.3.1. Quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật Cộng
hòa Liên bang Đức .................................................................................................... 12
1.3.2. Quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật Thụy
Điển ........................................................................................................................... 15
1.3.2. Quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa ......................................................................................... 17
1.4. Quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về từ chối, thay đổi
người tiến hành tố tụng........................................................................................... 19
1.4.1. Những căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng ................................ 19
1.4.2. Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng ............................................ 32
1.4.3. Thủ tục từ chối, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng .............................. 34
1.4.4. Thẩm quyền thay đổi người tiến hành tố tụng ................................................ 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỪ CHỐI, THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
HỒN THIỆN



2.1. Thực trạng từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành
chính ......................................................................................................................... 38
2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng ............................................................................................................................ 39
2.1.2. Thực trạng hoạt động từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng .................... 56
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện ............................................................................ 67
2.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng ............................................................................................................................ 67
2.2.2. Những giải pháp khác ..................................................................................... 69
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính được ghi
nhận lần đầu tiên trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996 và được hoàn thiện qua các lần sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2006 đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo cho vụ án
hành chính được giải quyết khách quan, nhanh chóng, đúng pháp luật. Tuy nhiên,
các quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng được ghi nhận trong các
Pháp lệnh còn chứa đựng nhiều điểm chưa phù hợp như: chưa quy định một số chủ
thể là người tiến hành tố tụng nên chưa có cơ sở cho những chủ thể này từ chối tiến
hành tố tụng hoặc thay đổi; thủ tục từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng chưa
được quy định rõ ràng; các căn cứ từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng cịn ít
nên chưa thể đáp ứng yêu cầu từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trên thực tế.
Điều đó đã làm ảnh hưởng đến tính khách quan trong q trình giải quyết vụ án
hành chính. Chính vì thế, để đáp ứng u cầu trong tình hình mới thì năm 2010, trên
cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý trong các Pháp lệnh và có sự bổ sung cho phù

hợp, Luật Tố tụng hành chính ra đời.
Điều đó cho thấy, việc đảm bảo cho vụ án hành chính được giải quyết khách
quan, cơng bằng, đúng pháp luật là nội dung được các nhà lập pháp hết sức quan
tâm và ln nỗ lực hồn thiện cơ sở pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu đó. Có thể nói,
việc Quốc hội thơng qua Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã tạo ra một bước tiến
mới trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính bởi vì kể từ khi Luật Tố tụng
hành chính ra đời thì số lượng vụ án hành chính do Tịa án thụ lý và giải quyết qua
các năm không ngừng tăng. Như vậy, người dân đã tin tưởng hơn vào việc giải
quyết vụ án hành chính tại Tịa án. Do đó, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải giải
quyết vụ án hành chính một cách khách quan, đúng pháp luật, kịp thời khơi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Các quy định pháp luật hiện hành về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
trong tố tụng hành chính đã đóng góp rất lớn vào việc đảm bảo cho vụ án hành
chính được giải quyết một cách khách quan, công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Tuy nhiên, bên cạnh mặt đã đạt được thì các quy định pháp luật
về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng còn tồn tại một số bất cập về mặt quy
phạm cũng như phát sinh một số vấn đề trong việc áp dụng pháp luật trên thực tế.
Nhiều quy định của pháp luật chưa thật rõ ràng, thống nhất, còn nhiều vấn đề chưa
được hướng dẫn cụ thể. Bên cạnh đó, cịn một số vấn đề phát sinh trên thực tế


nhưng do luật chưa điều chỉnh nên dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện,
không thống nhất. Thực trạng này đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính khách quan,
cơng bằng trong q trình giải quyết vụ án hành chính, khơng đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, làm cho người dân suy giảm niềm tin vào pháp luật và
các cơ quan công quyền.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực
trạng từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính để từ đó có
những kiến nghị hồn thiện các quy định pháp luật về từ chối, thay đổi người tiến
hành tố tụng là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Chính vì thế,

tác giả đã quyết định chọn đề tài “Từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng hành chính” làm đề tài luận văn cử nhân Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính là một
những nội dung rất quan trọng nhằm đảm bảo cho vụ án hành chính được giải quyết
khách quan, đúng đắn, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà số lượng vụ án hành
chính do Tịa án thụ lý và giải quyết khơng ngừng tăng thì việc nghiên cứu đề tài có
ý nghĩa thực tiễn rất cao. Tuy nhiên, trong thời gian qua khơng có nhiều cơng trình
nghiên cứu, bài viết về vấn đề này. Liên quan đến từ chối, thay đổi người tiến hành
tố tụng trong tố tụng hành chính thì có một số bài viết như: Nguyễn Thị Thương
Huyền, Dương Hoán (2012), “ Bàn về việc thay đổi người tiến hành tố tụng là
Chánh án Tịa án, Viện trưởng Viện kiểm sát”, Tạp chí khoa học pháp lý, (06); Thái
Nguyên Toàn (2014), “Bàn về việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong vụ án
hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, (3). Tuy nhiên, các bài viết chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu hoạt động từ chối, thay đổi đối với một vài người tiến hành tố tụng hoặc
một vài khía cạnh liên quan đến từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng.
Do đó, có thể nói hiện nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu toàn diện
về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích của đề tài
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, tìm hiểu quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng hành chính ở một số quốc gia trên thế giới.


Thứ ba, phân tích và đánh giá thực trạng từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam.
Thứ tư, đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về từ chối, thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng hành chính ở nước ta hiện nay.

* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận về từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng hành chính, thực trạng từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
trong tố tụng hành chính. Trong đó, có sự so sánh, đối chiếu với các quy định pháp
luật về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính của một số
quốc gia trên thế giới.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về từ chối,
thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính Việt Nam. Phân tích một
số vụ án hành chính có quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng trên thực tế để
đánh giá việc áp dụng pháp luật. Đồng thời, tham khảo quy định của một số quốc
gia điều chỉnh vấn đề này nhằm đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật Việt Nam về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, dựa trên tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng
nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp.
Để làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản trong đề tài, tác giả đã sử dụng các
phương pháp cụ thể như:
Chương 1: sử dụng phương pháp phân tích, chứng minh, biện luận làm rõ cơ
sở lý luận và pháp lý về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành
chính.
Chương 2: sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, chứng minh nhằm đánh
giá thực trạng từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng hành chính và đưa ra một số
giải pháp hoàn thiện.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài


* Về mặt lý luận: Đây là luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện về lý luận

và thực tiễn từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính theo
quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam. Ngồi ra, có sự đối chiếu với
quy định của một số quốc gia trên thế giới.
* Về mặt thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo có ý nghĩa trong việc hồn
thiện các quy định pháp luật về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng hành chính cũng như các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định này trên thực tế. Những kiến thức khoa học của đề tài sẽ có giá trị tham khảo
cho các cơng trình nghiên cứu khoa học và những ai quan tâm đến nội dung này.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài bao gồm: Lời cảm ơn, danh mục từ viết tắt, mục lục, phần mở đầu, phần
nội dung chính, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội
dung chính được trình bày trong hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
trong tố tụng hành chính
Chương 2: Thực trạng từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng
hành chính và một số giải pháp hoàn thiện


1
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ CHỐI, THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát về người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng
Người THTT hành chính là những người được nhà nước trao quyền để đảm
nhiệm các hoạt động tố tụng, thực hiện hầu hết chức năng của các cơ quan THTT.
Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, họ nhân danh nhà nước và sử dụng quyền lực
nhà nước để giải quyết đúng đắn vụ án hành chính1. Người THTT hành chính là
những người có vai trị chính trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhằm
giải quyết vụ án được khách quan, đúng đắn, đảm bảo quyền và lợi ích của các

đương sự. Chính vì thế, việc tìm hiểu khái niệm người THTT hành chính là cần
thiết, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn về những chủ thể này. Hiện nay, có
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm người THTT hành chính.
Theo từ điển tiếng Việt năm 2006 của Viện ngơn ngữ học Việt Nam thì tiến
hành có nghĩa là làm, thực hiện việc đã định trước2. Cịn tố tụng nói chung là việc
thưa kiện tại Tịa (xét xử các việc tố tụng)3. Như vậy, có thể hiểu người THTT là
những người thực hiện công việc giải quyết vụ thưa kiện tại Tòa. Tuy nhiên, nếu
hiểu khái niệm người THTT bằng cách ghép từ trong từ điển tiếng Việt thì chúng ta
sẽ chưa có cái nhìn tồn diện về người THTT hành chính. Bởi lẽ, theo cách hiểu của
từ điển tiếng Việt thì người THTT chỉ bao gồm những thành viên của Hội đồng xét
xử, tức những người trực tiếp thực hiện công việc xét xử và đưa ra kết quả giải
quyết vụ án mà chưa đề cập đến những chủ thể khác cũng đóng vai trị quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án như Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát,
Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án.
Chánh án Tòa án mặc dù trong nhiều trường hợp không trực tiếp giải quyết vụ
án như các thành viên của Hội đồng xét xử nhưng hoạt động của Chánh án Tịa án
lại có ý nghĩa tố tụng quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án4. Có thể nói, hoạt
động của Chánh án Tịa án góp phần rất lớn cho việc giải quyết vụ án hành chính
được kịp thời, chính xác, đảm bảo cơng bằng cho các bên trong vụ án. Tiếp đến,
1

Nguyễn Thị Thương Huyền, Dương Hoán (2012), “Bàn về việc thay đổi người tiến hành tố tụng là Chánh
án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát”, Tạp chí khoa học pháp lý, (06), tr. 9.
2
Viện ngôn ngữ học Việt Nam (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 986.
3
Viện ngôn ngữ học Việt Nam, tlđd (2), tr. 986.
4
Đại học Luật thành phố Hồ Chí minh (2012), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr. 118.



2
Thư ký Tịa án mặc dù khơng trực tiếp giải quyết vụ án nhưng qua thực tiễn tố tụng
cho thấy Thư ký Tòa án là người cộng sự đắc lực của Thẩm phán trong q trình
giải quyết vụ án nói riêng và trong việc thực hiện chức năng xét xử của Tịa án nói
chung5. Do đó, những hành vi tố tụng của Thư ký Tịa án cũng ảnh hưởng ít nhiều
đến q trình giải quyết vụ án. Cịn đối với Kiểm sát viên thì họ cũng khơng có
thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính vì điều này xuất phát vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân chỉ có chức năng kiểm sát chứ
khơng có chức năng xét xử như Tịa án6. Chính vì thế, bản thân Kiểm sát viên là
thành viên của của Viện kiểm sát nên phải thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn
phù hợp với chức năng của cơ quan mình là Viện kiểm sát nhân dân chứ không thể
thực hiện những hoạt động khác nằm ngoài chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mà họ
đang hoạt động. Thế nhưng, mặc dù khơng có chức năng giải quyết vụ án hành
chính nhưng sự tham gia của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính
được kịp thời và đúng pháp luật. Do đó, nếu chúng ta chỉ căn cứ vào cách hiểu
người THTT theo từ điển tiếng Việt thì sẽ chưa có cái nhìn chính xác và đầy đủ về
người THTT hành chính.
Từ điển Luật học không đề cập đến khái niệm người THTT mà chỉ liệt kê
những ai được xem là người THTT bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa7. Mặc dù khơng nói rõ nhưng các chủ
thể được liệt kê trong từ điển Luật học sẽ thích hợp hơn khi dùng để chỉ người
THTT hình sự.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người THTT hành chính là người
đại diện quyền lực nhà nước tiến hành các hoạt động tố tụng hành chính bao gồm:
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án8. Mặc dù vậy, đây là
khái niệm quá rộng do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước luôn đại diện quyền lực nhà nước khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

mình chứ khơng chỉ những người THTT hành chính khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình mới đại diện quyền lực nhà nước.
Giáo trình Luật TTHC Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội cũng không
đưa ra khái niệm người THTT mà chỉ liệt kê những ai được xem là người THTT
5

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 125.
Điều 107 Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
7
Nguyễn Hữu Đắc, Ngô Văn Thâu, Lê Kim Quế, Nguyễn Hữu Viện, Lê Đức Tiết (1999), Từ điển Luật học,
Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 347.
8
Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 86.
6


3
theo Luật TTHC 2010. Mặc dù không đưa ra khái niệm cụ thể nhưng theo cách
phân tích của giáo trình thì có thể hiểu người THTT hành chính là những người có
quyền tiến hành những hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm thẩm tra,
xem xét và giải quyết khách quan, đúng pháp luật vụ án hành chính9.
Theo tập bài giảng Luật TTHC Việt Nam của tác giả Lê Thị Bích Chi có đưa
ra khái niệm người THTT hành chính là những chủ thể có thẩm quyền, nhân danh
nhà nước để thực hiện quyền và nghĩa vụ theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHC
quy định10. Tuy nhiên, khái niệm người THTT theo quan điểm của người viết còn
khá chung chung, trừu tượng nên cũng chưa làm rõ thế nào là người THTT hành
chính. Đồng thời, tác giả quan niệm rằng người THTT bao gồm hai nhóm chủ thể là
cơ quan THTT và cá nhân THTT11. Thế nhưng, có thể nói quan niệm này là chưa
hợp lý vì theo quy định tại Điều 34 Luật TTHC 2010 thì rõ ràng đã có sự phân biệt
giữa cơ quan THTT và người THTT. Hơn nữa, không phải đến khi Luật TTHC

2010 ra đời thì pháp luật mới thể hiện sự phân biệt này mà trong các văn bản pháp
luật trước đó như Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân và Pháp lệnh TTGQCVAHC đã có những quy định thể hiện sự
phân biệt giữa cơ quan THTT và người THTT. Sự phân biệt này hồn tồn có cơ sở
pháp lý khi nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHC vì qua nghiên cứu các quy
định trong các văn bản pháp luật nêu trên thì thấy được vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THTT khác với vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng người THTT12.
Theo giáo trình Luật TTHC Việt Nam của trường đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh thì người THTT hành chính là những người mà theo quy định của pháp
luật có những quyền hạn và nhiệm vụ nhất định trong q trình giải quyết một vụ án
hành chính và kiểm sát việc giải quyết một vụ án hành chính cụ thể13. Theo quan
điểm của tác giả thì khái niệm người THTT hành chính trong giáo trình Luật TTHC
Việt Nam của trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh hợp lý hơn cả. Bởi lẽ,
khái niệm này đã bao quát được những chủ thể mặc dù không trực tiếp giải quyết vụ
án hành chính nhưng cũng đóng vai trị quan trọng trong q trình giải quyết vụ án
hành chính, đó là những chủ thể kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính được
9

Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr. 121.
10
Lê Thị Bích Chi (2013), Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr. 128.
11
Lê Thị Bích Chi, tlđd (10), tr. 128.
12
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 104.
13
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 116.



4
đúng pháp luật và kịp thời như Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Đồng
thời, khái niệm đã thể hiện sự phân biệt rõ ràng giữa cơ quan THTT và người
THTT, phù hợp với tinh thần của Luật TTHC 2010 xuất phát từ chỗ vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai nhóm chủ thể này là khác nhau.
Như vậy, người THTT hành chính được hiểu là người có những nhiệm vụ,
quyền hạn nhất định trong trong việc giải quyết vụ án hành chính và kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính. Họ nhân danh nhà nước tiến hành các hoạt động tố
tụng theo quy định của pháp luật nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hành
chính.
1.1.2. Những người tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Luật TTHC 2010, những người THTT
hành chính bao gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký
Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.
* Chánh án Tòa án
Chánh án Tòa án là người đứng đầu Tòa án, tổ chức và chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nhiệm vụ của Tòa án. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TAND các
cấp được quy định cụ thể trong Luật Tổ chức TAND năm 2002. Với tư cách là
người THTT hành chính, nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án được quy định
cụ thể tại Điều 35 Luật TTHC 2010. Qua quy định của pháp luật TTHC thì có thể
thấy trong nhiều trường hợp Chánh án Tịa án khơng trực tiếp giải quyết vụ án
nhưng Chánh án Tịa án lại là chủ thể có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo cho
quá trình giải quyết vụ án hành chính được kịp thời, khách quan, đúng pháp luật
thông qua hoạt động tổ chức công tác xét xử cũng như việc thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn riêng có của Chánh án Tịa án được quy định tại Điều 35 Luật TTHC
2010.
* Thẩm phán
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm

vụ xét xử và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án14. Thẩm phán
TAND là người trực tiếp xét xử các vụ án hành chính, gồm có Thẩm phán TAND
tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp15. Khi tham gia giải quyết vụ án
hành chính thì Thẩm phán có những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều

14

Xem khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002.
Xem Điều 2 Pháp lệnh số: 14/2011/UBTVQH ngày 19 tháng 12 năm 2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc
Hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002.
15


5
36 Luật TTHC 2010. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Thẩm phán được
xem là người THTT quan trọng nhất vì Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết vụ
án hành chính cũng như có trách nhiệm chính trong việc làm sáng tỏ các tình tiết
của vụ án và những quyết định thuộc thẩm quyền của Thẩm phán khi giải quyết vụ
án hành chính đều có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của các bên có liên
quan trong vụ án. Do đó, sự vơ tư, khách quan của Thẩm phán sẽ vơ cùng có ý
nghĩa khi giải quyết một vụ án hành chính cụ thể.
* Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân là người được bầu quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án16. Hội thẩm nhân dân có thể
tham gia giải quyết vụ án hành chính bao gồm Hội thẩm nhân dân cấp huyện và Hội
thẩm nhân dân cấp tỉnh. Hội thẩm nhân nhân khi tham gia giải quyết một vụ án
hành chính cụ thể có những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 37 Luật
TTHC 2010. Về thời điểm tham gia giải quyết vụ án, sau khi Thẩm phán được phân
cơng Chủ tọa phiên tịa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì kể từ thời điểm này
Hội thẩm nhân dân có quyền tham gia giải quyết vụ án như nghiên cứu hồ sơ vụ án,

đề nghị Chánh án Tịa án, Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án hành chính
ra các quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền, tham gia xét xử vụ án hành chính
cũng như tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Hội đồng xét xử17. Với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử sơ
thẩm, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán trong việc đưa ra các phán
quyết của mình. Do đó, những hoạt động tố tụng của Hội thẩm nhân dân cũng tác
động trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong vụ án, mà đặc
biệt là quyền biểu quyết để quyết định về yêu cầu của người khởi kiện18.
* Thư ký Tòa án
Thư ký Tịa án khơng phải là thành viên của Hội đồng xét xử nhưng Thư ký
Tòa án là người THTT theo quy định tại Điều 34 Luật TTHC 2010, bao gồm những
người được xếp vào ngạch công chức nhà nước được tuyển dụng và bổ nhiệm theo
quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 200219. Tuy nhiên,
hiện nay pháp luật vẫn chưa quy định rõ tiêu chuẩn đối với Thư ký Tòa án nhưng
Thư ký Tịa án là một cơng chức nhà nước nên trước hết cần phải đáp ứng tiêu
chuẩn của một cán bộ, cơng chức. Ngồi ra, Thư ký Tịa án cịn phải đáp ứng các
16

Xem khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002.
Xem Điều 37 Luật TTHC 2010.
18
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 124.
19
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 125.
17


6
tiêu chuẩn khác như phải có trình độ cử nhân luật, có sức khỏe tốt để thực hiện cơng
việc được giao và phải có trình độ ngoại ngữ, tin học. Trong TTHC, nhiệm vụ và

quyền hạn của Thư ký Tòa án được quy định tại Điều 38 Luật TTHC 2010. Tuy
nhiên, căn cứ vào chức năng của Thư ký Tòa án, các quy định pháp luật TTHC
cũng như thực tiễn tố tụng thì nhiệm vụ chính của Thư ký Tịa án là thực hiện các
hoạt động nghiệp vụ theo sự phân cơng của Chánh án Tịa án cũng như giúp việc
cho Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
* Viện trưởng Viện kiểm sát
Viện trưởng Viện kiểm sát là người lãnh đạo Viện kiểm sát thông qua việc tổ
chức hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm về việc thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Trong TTHC, nhiệm vụ và
quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát được quy định tại Điều 39 Luật TTHC
2010. Tương tự Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát cũng có thể hoạt động
với tư cách là người lãnh đạo, quản lý Viện kiểm sát hoặc hoạt động với tư cách là
người THTT, mà cụ thể là THTT với tư cách Kiểm sát viên. Ngoài ra, Viện trưởng
Viện kiểm sát có thể ủy nhiệm cho một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy định tại khoản
1 Điều 39 Luật TTHC 2010. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được ủy nhiệm chịu
trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát về việc thực hiện nhiệm vụ được
giao20.
* Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp21. Trong
TTHC, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định tại Điều 40 Luật
TTHC 2010. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn tố tụng khác nhau thì nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên sẽ được cụ thể hóa. Như tại phiên tịa sơ thẩm, sau khi những
người TGTT phát biểu tranh luận và đối đáp xong thì Kiểm sát viên sẽ phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử cũng như việc chấp hành pháp luật của những người TGTT
hành chính, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án22.


20

Xem khoản 2 Điều 39 Luật TTHC 2010.
Xem Điều 1 Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002.
22
Xem khoản 2 Điều 160 Luật TTHC 2010.
21


7
1.2. Khái niệm, ý nghĩa của từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng hành chính
1.2.1. Khái niệm từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
Ngày nay, xét xử công bằng, không thiên vị là giá trị phổ biến được các quốc
gia cam kết tôn trọng trong các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như: Điều 10
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua
ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Paris, Pháp có quy định: “Mọi người đều có quyền
được phân xử cơng khai và cơng bằng, trước một Tịa án độc lập và vơ tư để được
phán quyết về các quyền và nghĩa vụ của mình”. Bên cạnh đó, Điều 14 Cơng ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông
qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 tại trụ sở của Liên Hiệp Quốc, New York cũng quy
định: “Việc xét xử phải công khai và công bằng. Công bằng ở đây phải thể hiện rõ
ràng trên hai khía cạnh là cơng bằng trong việc xem xét, giải quyết vụ việc được
công khai và công bằng trong thủ tục tố tụng, tức khơng được có ảnh hưởng bởi một
phía nào, dù nhằm bất cứ mục đích nào đối với việc xét xử”. Ngồi ra, Điều 6 Cơng
ước châu Âu về nhân quyền được các nước thành viên của Ủy hội châu Âu thông
qua ngày 04 tháng 11 năm 1950 tại Roma có nêu rõ: “Mọi người đều có quyền được
xét xử cơng bằng bởi một Tịa án độc lập và khơng thiên vị, có quyền được coi là vơ
tội khi chưa có phán quyết của Tịa án”.
Ở Việt Nam, trong TTHC cũng như trong các loại hoạt động tố tụng khác như

tố tụng dân sự, tố tụng hình sự để đảm bảo sự vơ tư, khách quan của những người
THTT, pháp luật đã quy định những trường hợp cụ thể mà người THTT phải tự
mình từ chối THTT hoặc bị thay đổi23.
* Khái niệm từ chối tiến hành tố tụng
Theo từ điển tiếng Việt năm 2006 của Viện ngơn ngữ học Việt Nam thì từ chối
có nghĩa là không nhận, không chịu nhận cái được cho hoặc được yêu cầu24. Như
vậy, từ chối có nghĩa là tự bản thân một người sẽ không đảm nhận nhiệm vụ hoặc
làm một việc gì đó khi được u cầu vì những nguyên nhân khác nhau. Trong
TTHC, có thể hiểu từ chối THTT là việc những người THTT được quy định tại
Điều 34 Luật TTHC 2010 tự nguyện đề nghị người có thẩm quyền quyết định
khơng tham gia giải quyết vụ án hành chính khi họ nhận thấy bản thân có thể sẽ

23
24

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 129-130.
Viện ngôn ngữ học Việt Nam, tlđd (2), tr. 1072.


8
không vô tư, khách quan khi tham gia giải quyết vụ án hoặc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật.
Việc pháp luật TTHC đưa ra cơ chế từ chối THTT là điều hợp lý bởi vì hơn ai
hết, chính bản thân những người THTT là người biết rõ và sớm nhất là mình có thể
vơ tư, khách quan hay khơng khi làm nhiệm vụ. Trong khi đó, những chủ thể khác
khơng phải lúc nào cũng nhận biết được người THTT có thể không vô tư, khách
quan hoặc phải trải qua một thời gian thì mới phát hiện. Điều này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của các bên có liên quan trong vụ án hành chính. Nếu những
người THTT tuân thủ triệt để quy định của pháp luật về từ chối THTT sẽ đảm bảo
tính khách quan, đúng pháp luật trong q trình giải quyết vụ án, củng có niềm tin

của người dân vào hoạt động xét xử của Tòa án.
* Khái niệm thay đổi người tiến hành tố tụng
Theo từ điển tiếng Việt năm 2006 của Viện ngôn ngữ học Việt Nam thì thay
đổi có nghĩa là thay cái này bằng cái khác, đổi khác đi, trở nên khác trước25. Như
vậy, thay đổi người THTT có thể hiểu là thay đổi người khơng cịn phù hợp nữa.
Trong TTHC, thay đổi người THTT là việc người có thẩm quyền quyết định thay
thế người THTT đã được phân cơng khi có những căn cứ theo quy định của pháp
luật. Theo đó, khi người THTT đã được phân công giải quyết vụ án từ chối THTT,
khi có yêu cầu thay đổi người THTT hay thậm chí khi người có thẩm quyền phát
hiện người THTT có những biểu hiện mà có đủ căn cứ để cho rằng người THTT có
thể khơng vơ tư khi làm nhiệm vụ thì họ cũng sẽ ra quyết định thay đổi người
THTT đã được phân cơng. Điều đó có nghĩa, khi phát hiện một trong những căn cứ
luật định có khả năng làm cho người THTT khơng vơ tư, khách quan khi làm nhiệm
vụ thì người có thẩm quyền sẽ phải thay đổi họ trong bất kỳ giai đoạn nào của quá
trình tố tụng.
1.2.2. Ý nghĩa của từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng
Người THTT là những chủ thể có vai trị quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả giải quyết vụ án hành chính. Do đó, khi có căn cứ khẳng định người THTT
có thể không vô tư khi làm nhiệm vụ, việc từ chối, thay đổi họ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Thứ nhất, đảm bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật trong q trình giải
quyết vụ án hành chính.

25

Viện ngơn ngữ học Việt Nam, tlđd (2), tr. 918.


9
Người THTT trong một số trường hợp có thể có lợi ích vật chất, tinh thần từ

việc giải quyết vụ án hoặc có những định kiến nhất định trong việc đưa ra quyết
định hoặc thực hiện các hoạt động tố tụng (như đã tham gia vào việc ra QĐHC, đã
tham gia xét xử vụ án đó, thân thích với người THTT khác...). Những căn cứ này là
yếu tố có thể làm cho người THTT không vô tư, khách quan khi tham gia giải quyết
vụ án hành chính.
Bởi lẽ, các yếu tố vật chất, tinh thần ln có những tác động đáng kể đến hành
vi và xử sự của con người. Bên cạnh việc thực hiện những công việc, nhiệm vụ của
mình khi tham gia vào các quan hệ xã hội thì các yếu tố vật chất, tinh thần ln là
mục đích cuối cùng mà con người đặt ra. Những hoạt động của con người suy cho
cùng là để đáp ứng những nhu cầu đó. Chính vì thế, khi giải quyết vụ án mà người
THTT có thể có lợi ích vật chất, tinh thần từ việc giải quyết vụ án thì việc người
THTT có thể khơng vơ tư, khách quan là hồn tồn có thể xảy ra bởi vì khơng phải
bất kỳ người THTT nào cũng công tâm, đủ bản lĩnh để vượt qua được sự cám dỗ
của các yếu tố vật chất, tinh thần. Họ có thể vì những lợi ích vật chất, tinh thần ấy
mà làm sai lệnh kết quả vụ án, làm cho bản chất của vụ án không được phản ánh
đầy đủ.
Hơn nữa, nếu người THTT đã có những định kiến trong việc đưa ra quyết định
hoặc thực hiện các hoạt động tố tụng thì họ đã thể hiện quan điểm, lập trường, nhận
thức và cả thái độ của mình đối với việc giải quyết vụ án. Nếu bản án, hoặc quyết
định của họ bị kháng cáo hay kháng nghị thì có nghĩa là việc giải quyết vụ án chưa
thỏa đáng, chưa hợp tình hợp lý hay nói đúng hơn là có vấn đề cần phải xem xét lại.
Do đó, nếu vẫn để cho những người THTT này tiếp tục giải quyết lại vụ án thì họ
chủ quan trong việc xem xét các vấn đề cũng như có xu hướng tiếp tục bảo vệ quan
điểm của mình và như thế sẽ khơng đảm bảo được tính vơ tư, khách quan và khoa
học.
Sự không vô tư của những người THTT sẽ có thể dẫn đến việc đưa ra các phán
quyết không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên và lòng tin của
nhân dân vào pháp luật cũng như các cơ quan cơng quyền. Chính vì thế, pháp luật
đã quy định người THTT cần phải từ chối, thay đổi trong những trường hợp như
vậy nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công bằng. Tuy

nhiên, không phải bất cứ người THTT nào khi rơi vào một trong các trường hợp
pháp luật quy định phải từ chối, bị thay đổi đều sẽ khơng vơ tư trong q trình giải
quyết vụ án. Thực tế đã cho thấy, có một số người THTT khi rơi vào những hồn
cảnh đó thì họ vẫn vơ tư khi làm nhiệm vụ do họ phân định rõ ràng giữa việc công


10
và việc tư, khơng vì tình riêng mà ảnh hưởng đến công việc và họ thật sự là những
người đại diện cho cơng lý. Thế nhưng, mục đích của các quy định pháp luật về từ
chối, thay đổi người THTT nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm
pháp luật có thể xảy ra của những người THTT khi có căn cứ rõ ràng có thể dẫn đến
sự khơng vô tư trong hoạt động giải quyết vụ án hành chính cũng như tránh được
các định kiến của người THTT có khả năng làm cho kết quả TTHC trở nên sai lệch,
khơng khách quan.
Thứ hai, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong TTHC.
Quyền và lợi ích của các bên có liên quan trong vụ án có được đảm bảo hay
khơng phụ thuộc vào quyết định giải quyết vụ án của những người THTT cũng như
việc thực hiện các hoạt động tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của họ. Bởi lẽ, các
quyết định cũng như những hành vi tố tụng thuộc thẩm quyền của những người
THTT đều có tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
trong vụ án.
Do đó, để quyền lợi của các đương sự được đảm bảo, kịp thời khôi phục
những giá trị bị xâm phạm thì địi hỏi người THTT phải thật sự vơ tư, khách quan
khi giải quyết vụ án. Người THTT có những lợi ích liên quan đến vụ án, có những
mối quan hệ với các chủ thể khác trong vụ án hoặc có định kiến về việc giải quyết
vụ án thì rõ ràng họ sẽ rất khó vơ tư, khách quan khi giải quyết vụ án, từ đó có thể
đưa ra các phán quyết sai lệnh, trái pháp luật. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong vụ án. Chính vì thế, từ
chối, thay đổi người THTT là cần thiết nhằm góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp cho các bên trong vụ án, tạo điều kiện cho các bên trong vụ án có thể lựa

chọn những người đáng tin tiến hành các hoạt động tố tụng để giải quyết quyền lợi
của họ một cách công bằng, đúng pháp luật.
Ngồi ra, từ chối, thay đổi người THTT cịn góp phần đảm bảo sự bình đẳng
giữa các đương sự trước pháp luật, quyền và lợi ích của các bên sẽ được giải quyết
cơng bằng trước Tịa án mà khơng có bất kỳ trường hợp ngoại lệ nào. Pháp luật
khơng cho phép người THTT có thể dành ưu đãi cho người này hơn người kia,
những người có cùng tư cách tố tụng thì đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Do đó,
từ chối, thay đổi người THTT cũng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thông qua việc đảm bảo cho các đương sự được bình đẳng trước pháp
luật.


11
Thứ ba, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính.
Pháp luật TTHC quy định chặt chẽ cách thức, trình tự, thủ tục nhằm giải quyết
vụ án hành chính được nhanh chóng, khách quan, chính xác. Bất cứ sự vi phạm nào
về các quy định của pháp luật cũng đều ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án và
có tác động xấu về mặt xã hội, làm cho người dân mất lòng tin vào pháp luật cũng
như các cơ quan cơng quyền. Chính vì thế, để đảm bảo những người THTT tuân thủ
các quy định của pháp luật trong q trình giải quyết vụ án hành chính thì Luật
TTHC 2010 đã quy định: “Mọi hoạt động tố tụng của người THTT, người TGTT,
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân thủ các quy định của Luật
này”26.
Người THTT hành chính là những người có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc
giải quyết vụ án hành chính cũng như kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tất cả
những văn bản, hành vi tố tụng của những chủ thể này đều có tác động trực tiếp tới
các đương sự trong vụ án. Do đó, nếu những người THTT khơng vơ tư, khách quan
thì có thể dẫn đến vì lợi ích cá nhân hoặc một số chủ thể khác mà đưa ra các phán
quyết cũng như thực hiện các hoạt động tố tụng trái pháp luật. Thế nhưng, pháp luật

yêu cầu người THTT khi giải quyết vụ án phải trung lập, chỉ hành xử trên cơ sở các
sự kiện có thật, theo quy định của pháp luật mà không được làm lợi hay gây bất lợi
cho một hoặc các bên trong vụ án. Họ phải thật sự là những đại diện của cơng lý,
khơng được vì những lợi ích hoặc những định kiến mà làm ảnh hưởng đến kết quả
giải quyết vụ án, làm cho bản chất của vụ án khơng được phản ánh một cách đầy đủ.
Ngồi ra, trong trường hợp có căn cứ theo quy định pháp luật mà người THTT
không từ chối hoặc không bị thay đổi thì bị coi là có vi phạm nghiêm trọng về thủ
tục tố tụng và bản án, quyết định của Tòa án sẽ bị hủy để xét xử lại27. Chính vì thế,
các quy định pháp luật về từ chối, thay đổi người THTT góp phần bảo đảm sự tuân
thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, triệt tiêu những yếu tố có
thể ảnh hưởng đến tính vơ tư, khách quan của người THTT khi thực hiện nhiệm vụ.
Những người THTT hành chính đặc biệt ở chỗ là họ trong vai trò giải quyết
tranh chấp giữa người dân và cơ quan nhà nước nên người THTT càng phải công
tâm hơn nữa nếu muốn công lý thuộc về bên thật sự có quyền và lợi ích bị xâm
phạm. Do vậy, người THTT phải vô tư, khách quan, hồn tồn khơng bị chi phối
bởi bất kỳ mối quan hệ tình cảm, vật chất hay quyền lực nào từ bên ngồi thì mới
26
27

Xem Điều 4 Luật TTHC 2010.
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr. 130.


12
đủ sức để giải quyết vụ án hành chính được khách quan, đúng đắn. Có như thế mới
đảm bảo cho các quy định của pháp luật được tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
1.3. Quy định pháp luật một số quốc gia về từ chối, thay đổi người tiến hành tố
tụng
Ngày nay, với xu thế tồn cầu hóa thì các quốc gia đã không ngừng giao lưu,
hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ các lĩnh vực khoa học – kỹ thuật, văn hóa

– xã hội, thương mại cho đến các lĩnh vực khác của cuộc sống, trong đó có lĩnh vực
pháp luật. Trong TTHC cũng như trong các loại hoạt động tố tụng khác, để đảm bảo
sự vô tư, khách quan của những người THTT, pháp luật các quốc gia đều quy định
những căn cứ từ chối, thay đổi người THTT vì cơng bằng, khơng thiên vị là giá trị
được nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận và được ghi nhận trong nhiều văn kiện
quốc tế quan trọng. Tuy nhiên, quy định pháp luật của các quốc gia về vấn đề này
khơng hồn tồn giống nhau. Chính vì thế, việc tìm hiểu pháp luật của các quốc gia
để hoàn thiện các quy định pháp luật TTHC Việt Nam về từ chối, thay đổi người
THTT là cần thiết, nhất là trong điều kiện Luật TTHC Việt Nam mới ra đời trong
vài năm gần đây.
1.3.1. Quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật Cộng
hòa Liên bang Đức
Cộng hòa Liên bang Đức là một quốc gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu
lục địa như một số quốc gia khác như Pháp, Thụy Điển, Hà Lan…Trong hệ thống
pháp luật này có sự phân biệt rõ ràng giữa luật công và luật tư, các tranh chấp pháp
lý cũng được phân định rõ ràng về tính chất cũng như thẩm quyền giải quyết trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội như tranh chấp dân sự, hành chính, kinh tế28. Tranh
chấp hành chính ở Cộng hịa Liên bang Đức được xem là tranh chấp trong lĩnh vực
luật công phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với các cơ quan cơng quyền. Để đảm
bảo tính khách quan trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính thì bên cạnh
việc cho phép các cơ quan cơng quyền được “tự xem xét” các QĐHC, HVHC của
mình khi bị khiếu nại thì quốc gia này cũng thành lập một hệ thống cơ quan tài phán
hành chính độc lập (Tịa án hành chính) bên cạnh hệ thống Tịa án tư pháp để
chuyên thực hiện chức năng xét xử các khiếu kiện hành chính29. Về đối tượng khởi
kiện, Cộng hịa Liên bang Đức không liệt kê những đối tượng khởi kiện như trong
pháp luật Việt Nam mà quy định theo hướng khái quát, bao trùm tất cả các lĩnh vực
28

Phạm Hồng Quang (2005), “Tài phán hành chính theo quan niệm của một số nước trên thế giới”, Tạp chí
Luật học, (1), tr. 73.

29
Phạm Hồng Quang, tlđd (28), tr. 73.


13
của cuộc sống được điều chỉnh bởi pháp luật công mà không thuộc lĩnh vực Luật
Hiến pháp, trừ trường hợp pháp luật quy định thẩm quyền thuộc hệ thống tài phán
khác như tài phán tài chính, tài phán xã hội…
Điều 40 Luật Tịa án hành chính Cộng hịa Liên bang Đức quy định: “Khiếu
kiện tới Tịa án hành chính được áp dụng đối với tất cả các tranh chấp về luật cơng
khơng có bản chất Hiến định nếu tranh chấp đó khơng thuộc thẩm quyền của một
Tịa án khác theo quy định của pháp luật liên bang”. Điều đó có nghĩa, về nguyên
tắc, các tranh chấp về lĩnh vực luật cơng sẽ do Tịa án hành chính giải quyết nếu
như khơng thuộc thẩm quyền của các Tịa án khác30.
Để đảm bảo cho những người THTT được vô tư, khách quan trong quá trình
giải quyết vụ án thì pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức cũng quy định căn cứ và
thẩm quyền thay đổi người THTT. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là trong pháp luật tố
tụng để điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính là Luật Tịa án hành
chính Cộng hịa Liên bang Đức khơng quy định cụ thể những căn cứ, cũng như
thẩm quyền thay đổi người THTT mà lại viện dẫn áp dụng những căn cứ thay đổi
người THTT trong Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức. Điều 54 Luật
Tòa án hành chính Cộng hịa Liên bang Đức quy định: “1. Các quy định từ Điều 4149 của Bộ luật Tố tụng dân sự (Zivilprozeßordnung) sẽ được áp dụng bổ sung để từ
chối và loại trừ các cán bộ Tòa án; 2. Bất cứ ai cũng sẽ bị loại trừ khỏi chức danh
Thẩm phán hoặc Thẩm phán danh dự nếu đã tham gia TTHC trước đó; 3. Lo ngại
về sự thiên vị phù hợp với Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự sẽ ln ln có cơ sở nếu
Thẩm phán hay Thẩm phán danh dự là đại diện của bên có lợi ích bị ảnh hưởng bởi
các thủ tục tố tụng”31.
Theo quy định pháp luật Cộng hịa Liên bang Đức thì có thể chia ra làm hai
nhóm căn cứ để thay đổi Thẩm phán là căn cứ tuyệt đối và căn cứ tương đối. Căn cứ
tuyệt đối được quy định tại Điều 41 Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang

Đức bao gồm: “1. Trong những tranh chấp mà bản thân Thẩm phán là một bên của
tranh chấp hoặc người thân của họ là một bên trong tố tụng có quyền và nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc người thân của họ là bên chịu trách nhiệm truy địi; 2.
Những tranh chấp có liên quan đến vợ hoặc chồng của họ hoặc các vấn đề có liên
quan đến đối tác hoặc đối tác cũ của họ trong quan hệ dân sự; 3. Tranh chấp có liên
quan đến những người đang hoặc có liên quan trực tiếp với Thẩm phán bởi các mối

30

Roland Fritz (2011), “Handbuch des Fachanwalts –Verwaltungsrecht”, Tạp chí Luật học (9), tr. 9.
Xem thêm (truy cập ngày 13 tháng
6 năm 2014).
31


14
quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống, hoặc những người đang hoặc có liên quan đến
Thẩm phán bởi mối quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời hoặc có liên quan
đến Thẩm phán bởi mối quan hệ hôn nhân trong phạm vi hai đời; 4. Những tranh
chấp mà bản thân Thẩm phán là luật sư hoặc trợ giúp pháp lý của một bên hoặc
Thẩm phán đã TGTT với tư cách là người đại diện hợp pháp của một bên; 5. Đã
TGTT trong vụ án với tư cách là một nhân chứng hoặc một chuyên gia trong vụ án;
6. Đã tham gia giải quyết vụ án và ra quyết định giải quyết vụ án, trừ khi điều này
có liên quan đến tiến độ cơng việc của Tịa án đã được giao phó hoặc yêu cầu; 7.
Những tranh chấp mà Thẩm phán đã từng tham gia hòa giải hoặc trong bất kỳ thủ
tục giải quyết xung đột thay thế nào khác”. Căn cứ tương đối để thay đổi Thẩm
phán được quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức:
“Thẩm phán sẽ phải từ chối THTT nếu anh ấy lo ngại về sự vô tư của mình hoặc có
căn cứ để chứng tỏ anh ấy khó có thể vơ tư khi làm nhiệm vụ. Thẩm phán sẽ bị thay
đổi nếu khơng có lý do chính đáng để biện minh cho mình. Trong những trường hợp

này thì tất cả các bên đều có quyền u cầu thay đổi Thẩm phán”32.
Về thủ tục và thẩm quyền thay đổi người THTT thì cũng tương tự như pháp
luật Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có điểm đặc thù đó là, đối với trường hợp có căn cứ
tuyệt đối để thay đổi Thẩm phán thì chính Tịa án sẽ có nghĩa vụ thay đổi Thẩm
phán còn đối với những căn cứ tương đối thì pháp luật Cộng hịa Liên bang Đức địi
hỏi bên u cầu thay đổi Thẩm phán phải có đơn kiến nghị đến Tịa án có người bị
đề nghị thay đổi, trong đó phải nêu rõ những căn cứ để thay đổi Thẩm phán, bên
yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và Thẩm
phán bị thay đổi có thể được cho gọi để làm rõ vấn đề. Nếu những căn cứ mà đương
sự đưa ra là có cơ sở thì Thẩm phán mới bị thay đổi33. Sở dĩ pháp luật Cộng hòa
Liên bang Đức chia làm hai loại căn cứ này vì hệ quả của những căn cứ tuyệt đối là
rất nghiêm khắc. Nếu rơi vào một trong những căn cứ tuyệt đối thì Thẩm phán sẽ bị
tước quyền tham gia giải quyết vụ án, bên cạnh đó tất cả các quyết định tố tụng từng
được ban hành bởi Thẩm phán có liên quan đến vụ án đều bị coi là trái pháp luật.
Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức thì việc
thay đổi Thẩm phán sẽ do lãnh đạo Tịa án ra quyết định nếu người này khơng có
liên quan đến việc ra quyết định của Thẩm phán bị thay đổi. Nếu Tịa án có thẩm
quyền khơng kịp thời thay đổi Thẩm phán mà kết quả dẫn tới trong số các thành
32

Xem thêm (truy cập ngày 13 tháng 6
năm 2014).
33
Xem thêm (truy cập ngày 13 tháng 6
năm 2014).


15
viên giải quyết vụ án có người bị thay đổi thì việc thay đổi họ sẽ do lãnh đạo của
Tịa án cấp trên trực tiếp quyết định34. Đồng thời pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức

cũng quy định, trong thời gian có khiếu nại liên quan đến quyết định thay đổi Thẩm
phán thì sẽ khơng có một biện pháp khắc phục nào có thể chống lại quyết định của
người có thẩm quyền nếu quyết định đã dựa trên những cơ sở chính đáng35.
Như vậy, có thể nói, các quy định pháp luật TTHC Cộng hòa Liên bang Đức
liên quan đến việc thay đổi Thẩm phán cũng có nhiều điểm tương đồng so với pháp
luật Việt Nam và việc quy định những căn cứ thay đổi Thẩm phán cũng khá toàn
diện. Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần hiểu khái niệm “Thẩm phán” theo nghĩa rộng,
tức bao gồm những người có tiến hành những hoạt động tố tụng góp phần vào việc
giải quyết vụ án chứ không chỉ bao gồm chức danh Thẩm phán, mà nó tương đồng
với khái niệm người THTT trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định về
từ chối, thay đổi Thẩm phán trong pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức quy định theo
hướng khái quát hơn pháp luật Việt Nam và nó có thể bao trùm gần như toàn bộ các
hoạt động của cơ quan công quyền được điều chỉnh bởi luật công. Đồng thời, pháp
luật Cộng hịa Liên bang Đức cũng khơng quy định quá nhiều căn cứ để nhằm đáp
ứng cho các trường hợp mới phát sinh bởi vì quyền giải thích và áp dụng pháp luật
tương tự của Thẩm phán là lý do khiến cho các nhà lập pháp không cần thiết bổ
sung thêm những trường hợp mới vào. Kinh nghiệm của các quốc gia châu Âu cho
thấy vì khơng thể dự liệu hết các tình huống trong cuộc sống nên khơng ai khác
ngồi Tịa án, thơng qua án lệ của mình có thể phân tích và xử lý các tình huống xảy
ra trong thực tiễn nhằm đảm bảo cho nguyên tắc vô tư được tuân thủ một cách tuyệt
đối36.
1.3.2. Quy định về từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng trong pháp luật Thụy
Điển
Tương tự Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển cũng thành lập một hệ thống
cơ quan tài phán hành chính độc lập (Tịa án hành chính) bên cạnh hệ thống Tòa án
tư pháp để chuyên thực hiện chức năng xét xử các khiếu kiện hành chính. Ở Thụy
Điển, pháp luật quy định các cơ quan hành chính và Tồ án hành chính có thẩm
quyền như nhau trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính vì Thụy Điển cũng
quan niệm rằng khiếu nại hành chính tạo cho cơng dân có khả năng rộng hơn so với
34


Xem thêm (truy cập ngày 13 tháng 6
năm 2014).
35
Xem thêm (truy cập ngày 13 tháng 6
năm 2014).
36
Nguyễn Hoàng Anh, Trần Thu Hạnh (2014), “Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của Thẩm phán trong pháp
luật liên minh châu Âu và một số quốc gia châu Âu”, Tạp chí Luật học, (4), tr. 72.


×