Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyền và nghĩa vụ của tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒ QUYẾT TIẾN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TỊA ÁN TRONG GIAI ĐOẠN
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒ QUYẾT TIẾN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TỊA ÁN TRONG GIAI ĐOẠN
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒI PHƢƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tác giả xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả nghiên
cứu do cá nhân tác giả thực hiện, dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó giáo sư,
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồi Phương. Mọi tài liệu tham khảo được sử dụng trong luận
văn đều được trích dẫn đầy đủ. Tác giả chịu trách nhiệm danh dự về cơng trình
nghiên cứu của mình.
Người viết

Hồ Quyết Tiến


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADBPKCTT
BLTTDS

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bộ luật tố tụng dân sự

PLTTGQCVADS
TANDTC
THADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Tòa án nhân dân tối cao
Thi hành án dân sự

TTDS

Tố tụng dân sự

UBND


Ủy ban nhân dân

VADS

Vụ án dân sự


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .…………………………………………………………….....…....1
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TÒA ÁN TRONG GIAI
ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ………………...…...6
1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………………………...................6
1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ………………………………..6
1.1.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………8
1.1.3. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự ………………………………………………………………………….10
1.2. Đặc trƣng pháp lý quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ……………………………………………………..10
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự được bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và kéo dài trong thời gian do
luật định ……………………………………………………………………………………..10
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự thể hiện qua nhiều hoạt động tố tụng khác nhau do luật định …………….11
1.2.3. Hòa giải là nghĩa vụ bắt buộc của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự ………………………………………………………………………….12
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự được thực hiện theo nguyên tắc chung của tố tụng dân sự …………………12

1.3. Mục đích của việc quy định quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ………………………………………..…12
1.4. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành ………………….……………...13
1.4.1. Quyền yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự……………………………………………………………13
1.4.2. Quyền lấy lời khai của đương sự, người làm chứng trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự……………………………………………………………….15
1.4.3. Quyền cho đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với
người làm chứng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………17


1.4.4. Quyền trưng cầu giám định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự ………………………………………………………………………………………..18
1.4.5. Quyền định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự ……………………………………………………………………...20
1.4.6. Quyền xem xét thẩm định tại chỗ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự ……………………………………………………………………………………23
1.4.7. Quyền ủy thác thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự ……………………………………………………………………………………24
1.4.8. Quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………………………..26
1.4.9. Quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự ……………………………………………………………………...28
1.4.10. Quyền đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự ……………………………………………………………………….…30
1.4.11. Quyền quyết định đưa vụ án ra xét xử …………………………………………32
1.4.12. Nghĩa vụ phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………………………..33
1.4.13. Nghĩa vụ thông báo việc thụ lý vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án dân sự ……………………………………………………………………...34
1.4.14. Nghĩa vụ lập hồ sơ và nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………………………………...35
1.4.15. Nghĩa vụ tổ chức phiên hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự ……………………………………………………………………………………38
1.4.16. Quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ………………………………………………………………40
1.4.17. Quyền và nghĩa vụ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………………….42
1.4.18. Quyền và nghĩa vụ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự …………………………………………………..43
1.4.19. Quyền và nghĩa vụ chuyển vụ án dân sự cho Tòa án khác giải quyết trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ………………………………………45
1.4.20. Quyền và nghĩa vụ xem xét thay đổi người tiến hành tố tụng trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự ………………………………………………… 46
Kết luận chƣơng 1 ………………………………………………………………. 47


CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TÒA ÁN TRONG
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT……………………………………..48
2. 1. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thời gian gần đây ……………………………...48
2.2. Những bất cập, vƣớng mắc trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của Tòa án
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và đề xuất, kiến nghị
hoàn thiện pháp luật. …………………………………………………………… 53
2.2.1. Bất cập, vướng mắc trong thực hiện quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và kiến nghị….….53
2.2.2. Bất cập, vướng mắc trong thực hiện nghĩa vụ xem xét, thẩm định tại chỗ của

Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và kiến nghị……….56
2.2.3. Bất cập, vướng mắc trong thực hiện nghĩa vụ hòa giải của Tòa án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và kiến nghị ………………………..…...60
2.2.4. Bất cập, vướng mắc trong thực hiện quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ của
Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và kiến nghị ………64
2.2.5. Bất cập, vướng mắc trong thực hiện quyền và nghĩa vụ áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
và kiến nghị ……………………………………………………………………………..….68
Kết luận chƣơng 2 ………………………………………………………………. 72
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………….73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội của đất nước
và hội nhập quốc tế, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao thì những tranh
chấp dân sự cũng ngày càng nhiều và phức tạp. Theo thống kê của Tòa án nhân dân
tối cao, trong 5 năm gần đây trung bình mỗi năm Tịa án nhân dân các cấp đã giải
quyết trên 250.000 vụ việc dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao
động, chiếm tỷ lệ trên 90% tổng số vụ việc thụ lý. Khi tranh chấp dân sự xảy ra thì
việc giải quyết tranh chấp có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, khơng chỉ đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự mà cịn góp phần ổn định
các mối quan hệ khác trong xã hội.
Trong q trình giải quyết vụ án dân sự thì cơng tác chuẩn bị của Tòa án
trước khi đưa vụ án ra xét xử có vai trị hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là toàn bộ hoạt động do Tòa án cấp sơ thẩm

tiến hành trước khi đưa vụ án ra xét xử, nhằm xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ
và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để giải quyết vụ án dân sự. Trong thực tế,
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có vai
trị rất quan trọng trong việc xây dựng hồ sơ vụ án. Vì vậy, việc thực hiện đúng và
đầy đủ quyền, nghĩa vụ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sẽ
giúp cho Tòa án giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, khách quan, tồn diện.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 đã quy định cụ
thể về các quyền và nghĩa vụ của Tòa án. Tuy nhiên, qua hơn mười năm thực hiện,
trước những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp
quyền, một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự cịn có những bất cập cần phải sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là những quy định về quyền
và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Trong
thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án cho thấy những vướng mắc, bất cập trong giải
quyết vụ án dân sự đều có liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Tòa
án như trong việc thu thập chứng cứ, trong cơng tác hịa giải, trong nghiên cứu hồ
sơ vụ án… phần nào đã làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Để góp phần nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
quyền và nghĩa vụ của Tòa án sơ thẩm, làm rõ những vướng mắc, bất cập của pháp
luật, từ đó góp phần kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của Tịa án sơ thẩm. Do đó, học viên chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của Tòa án
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự” làm Luận văn Thạc sĩ
Luật học của mình.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự trong thời gian qua cũng đã được nhiều tác giả thực hiện, có
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý, bài báo, bài viết có liên quan cũng đã
đề cập đến vấn đề này, như:

* Các cơng trình nghiên cứu:
- Luận văn của tác giả Bùi Thị Thu Hiền, “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Luận văn của tác giả Đoàn Đức
Lương, “Thụ lý và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Tố tụng dân
sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (1998). Ở hai cơng trình này tác giả
nghiên cứu làm rõ khái niệm, ý nghĩa và những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
- Luận văn của tác giả Trương Việt Hồng, “Hoạt động thu thập chứng cứ
của Tịa án sơ thẩm trong q trình giải quyết vụ án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học (2014). Cơng trình này tác giả nghiên cứu những quy định cụ thể về hoạt
động thu thập chứng cứ của đối tượng chủ thể là Tòa án và ở cấp giải quyết vụ án là
sơ thẩm.
- Luận văn của tác giả Hà Thái Thơ, “Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố
tụng dân sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013). Cơng trình này tác giả
nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của các chủ thể trong Tố tụng dân sự
Việt Nam.
Đây là những cơng trình khoa học, được các tác giả nghiên cứu một cách
công phu, nhưng có giới hạn là chưa nghiên cứu đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Tòa
án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
* Ngồi các cơng trình nghiên cứu nêu trên, cịn có các bài viết của tác giả
như:
Đoàn Đức Lương, “Hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự trong BLTTDS năm 2004”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 4 năm 2011, tr.69; Đinh Văn Quế, “Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 17 năm 2013;
Hoàng Ngọc Thỉnh, “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật
học năm 2004; Duy Kiên, “Một số vấn đề cần chú ý về thời hạn chuẩn bị xét xử và
hòa giải trong vụ án dân sự”, Tạp chí Kiểm sát số 14 năm 2013; Tưởng Duy
Lượng, “Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử”, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội năm 2013; Vũ Thanh Tuấn, “Cần hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm”, Tạp



3

chí Tịa án nhân dân số 06, tr.25-29 và số 07, tr. 31-36; Tòa án nhân dân Thành phố
Đà Nẵng, “Thu thập chứng cứ trong giải quyết vụ việc dân sự - những khó khăn
vướng mắc và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 01, tr.26-30.
Các bài viết này cũng có nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của Tịa án. Tuy
nhiên, đó chỉ là những bài viết ngắn, chỉ nghiên cứu một số nội dung về quyền và
nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hoặc lồng ghép với các
nội dung khác mà chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách tập trung,
đầy đủ, thống nhất.
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự đang được đưa ra tổng kết thực tiễn thi
hành, nhiều quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, những cơng trình
nghiên cứu trên chưa có điều kiện cập nhật. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu
trên cũng là nguồn tham khảo quan trọng để học viên có thể hồn thành tốt phần
nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của Tòa
án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Trên cơ sở nghiên cứu,
phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và những vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng tại Tòa án để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của Tòa án
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chú trọng nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, đề tài tập trung nghiên cứu những quy định cụ
thể về quyền, nghĩa vụ của Tòa án và giới hạn ở trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án dân sự mà không hướng đến nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Tòa án ở
các giai đoạn khác. Đề tài có tham khảo nhưng khơng chú trọng tới việc nghiên cứu,
so sánh với pháp luật quốc tế cũng như pháp luật các nước
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của Tòa án ở trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, không nghiên cứu quyền, nghĩa vụ của
Tòa án trong giải quyết việc dân sự và cũng không nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ
chung của Tòa án. Bên cạnh việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, tác giả nghiên cứu đề


4
tài này cịn hướng đến việc phân tích, đánh giá vấn đề trên phương diện thực tiễn áp
dụng.
4. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với chủ chương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược cải cách tư pháp. Cụ thể trong
từng chương, các phương pháp nghiên cứu được vận dụng như sau:
Chương 1 chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích, so sánh. Phương pháp
phân tích được sử dụng trong việc phân tích khái niệm, đặc trưng pháp lý và nội
dung các quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Phương pháp so sánh học viên dùng trong việc so sánh quyền, nghĩa vụ của Tòa án
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm với giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm.
Chương 2 ngồi hai phương pháp phân tích, so sánh tác giả còn vận dụng
thêm phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp để thống kê những số liệu,
thực trạng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong thời gian vừa qua.
Trên cơ sở thực tiễn, tác giả đi vào phân tích những bất cập, vướng mắc của Bộ luật
TTDS hiện hành quy định về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn

bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Trên cơ sở kết quả phân tích những bất cập, vướng
mắc, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập trong quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Phương pháp tổng hợp được sử dụng song song với
phương pháp phân tích để tổng hợp kết quả nghiên cứu, khái quát những kết quả
nghiên cứu. Phương pháp phân tích và tổng hợp được thực hiện xuyên suốt quá
trình nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của Tòa
án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Đồng thời góp phần làm rõ thêm những khái
niệm, thuật ngữ, cơ sở pháp lý quy định về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Về thực tiễn
Luận văn nghiên cứu khả năng vận dụng vào thực tiễn của các quy định pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Luận
văn góp phần làm rõ những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những tài liệu tham khảo cho những người


5
tiến hành tố tụng nói chung và Thẩm phán nói riêng. Luận văn có thể dùng làm tài
liệu để đánh giá tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS và sửa đổi, bổ sung, quy định
mới trong BLTTDS sửa đổi. Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những độc giả có quan tâm, sinh viên các trường Đại học Luật hay các trường có
chuyên ngành Luật học, học viên các Học viện Tòa án, Học viện Tư pháp.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài kết cấu thành hai chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan về quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


6

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là cấp xét xử thứ nhất trong quá trình giải quyết
một vụ án dân sự. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn của quá
trình giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa năm 2007 thì
các thuật ngữ chuẩn bị, xét xử, sơ thẩm và dân sự được định nghĩa như sau:“Chuẩn
bị” là “làm cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì”1. “Xét xử” là “xét xem phải trái
để phân xử”2. “Sơ thẩm” là “xét xử một vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp xử thấp
nhất”3. Tuy nhiên, khái niệm sơ thẩm như vậy xem xét dưới góc độ luật học chưa
phải là một khái niệm đầy đủ vì người đọc sẽ hiểu khái niệm “sơ thẩm” đồng nghĩa
với khái niệm xét xử vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. “Dân sự” là “việc thuộc về
quan hệ tài sản hoặc hơn nhân, gia đình”4.
Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa năm 1999 thì
các thuật ngữ chuẩn bị xét xử, xét xử, sơ thẩm được định nghĩa như sau:“Chuẩn bị
xét xử” là “tiến hành những công việc cần thiết cho việc mở phiên tòa xét xử”5.
“Xét xử” là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án”6. “Sơ

thẩm” là “lần đầu tiên đưa một vụ án ra xét xử tại một Tịa án có thẩm quyền”7.
Đối với khái niệm vụ án dân sự, trước đây trong các Tòa án dưới thời Pháp
thuộc (trước năm 1945) những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
được chia làm hai loại là việc hình và việc hộ. Theo đó, Sắc lệnh số 13-SL, ngày
24/01/1946 về tổ chức Tịa án và ngạch Thẩm phán chỉ rõ việc hộ bao gồm “các
việc về dân sự và thương sự” (Điều 3, Điều 17). Tại Điều 9 Sắc lệnh số 85-SL ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã sử dụng thuật ngữ “việc
1

Từ điển Tiếng Việt (2007), NXB từ điển Bách Khoa, tr.246.
, Từ điển Tiếng Việt(2007), NXB từ điển Bách Khoa, tr.1128.
3
, Từ điển Tiếng Việt(2007), NXB từ điển Bách Khoa, tr.840.
4
, Từ điển Tiếng Việt(2007), NXB từ điển Bách Khoa, tr.273.
5
Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.95.
6
Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.434.
7
Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.576.
2


7
kiện dân sự”. Theo quy định này, thuật ngữ “việc kiện dân sự” cũng có thể được
gọi là “vụ kiện dân sự” để chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu được Tòa án giải
quyết. Từ “việc” và “vụ” trong trường hợp này là tương đồng, có thể dùng là “việc
kiện” hoặc “vụ kiện” mà không dùng “vụ việc kiện”8. Trên cơ sở Hiến pháp 1959,
Điều 1 Luật tổ chức TAND 1960 quy định: “TAND xét xử những vụ án hình sự và

dân sự…”. Từ những quy định này, thuật ngữ “vụ án” chính thức được sử dụng
trong các văn bản pháp luật. Tiếp theo đó, Thơng tư số 01-UB ngày 03/3/1969 của
TANDTC hướng dẫn việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm hình sự và dân sự,
Thơng tư 01/TTLT ngày 01/02/1982 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn về thủ
tục giám đốc thẩm và Thông tư 02/TTLT ngày 01/02/1982 của TANDTC,
VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục tái thẩm cũng sử dụng nhiều lần thuật ngữ “vụ
án”. Trong giai đoạn này các thuật ngữ: “việc kiện dân sự”, “tranh chấp dân sự”,
“vụ án dân sự” là những thuật ngữ cùng đồng thời được sử dụng để chỉ những loại
việc thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của TAND. Chỉ đến khi có Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các VADS được ban hành ngày 29/11/1989, các loại việc thuộc
thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa án mới sử dụng thống nhất thuật ngữ “vụ án
dân sự”.
Khi BLTTDS ra đời, khái niệm vụ việc dân sự đã thay thế khái niệm vụ án
dân sự. Điều 1 BLTTDS quy định: “BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản
trong TTDS; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi
chung là VADS) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu
cầu dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi
chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây
gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án…”. Với quy định này, đối tượng được giải
quyết theo thủ tục TTDS là vụ việc dân sự, gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Như vậy, khi BLTTDS ra đời, lần đầu tiên khái niệm vụ án dân sự được khái
quát bao gồm các “tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động”. Theo BLTTDS, vụ án dân sự là những việc có tranh chấp, bắt đầu
từ sự mâu thuẫn giữa các bên đương sự, trong đó có một bên yêu cầu Tòa án buộc
bên kia phải thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật
nêu trên.

8


Lê Thu Hà (2006), “Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật TTDS và thực tiễn áp dụng”, NXB Tư
pháp, Hà Nội, tr 154.


8
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau với những nội hàm khác nhau, phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề của
từng đối tượng tham gia.
Nếu hiểu chuẩn bị xét xử sơ thẩm với tính chất là một quá trình thì chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn tố tụng độc lập trong thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự tại Tòa án9. Nếu hiểu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự với
tính chất là hoạt động tố tụng thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm những
công việc cụ thể do những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng thực hiện
trên cơ sở quy định của pháp luật, phù hợp với địa vị tố tụng của họ làm cho hoạt
động xét xử sơ thẩm VADS được đảm bảo10.
Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết
thúc bằng một trong các quyết định tố tụng tương ứng như: Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết VADS;
Quyết định đình chỉ việc giải quyết VADS. Trường hợp sau khi Tòa án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử thì các cơng việc chuẩn bị xét xử được tiến hành cho đến
khi Tòa án mở phiên tịa sơ thẩm. Ngồi ra, trong q trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm
VADS, Tịa án cấp sơ thẩm cịn có thể ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời nếu có căn cứ pháp luật, quyết định thay đổi người tiến
hành tố tụng. Đồng thời, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải tiến
hành các công việc để đảm bảo VADS được đưa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ
tục sơ thẩm VADS.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự như sau: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là hoạt động tố tụng
do Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành sau thời điểm thụ lý vụ án và kéo dài trong một

thời hạn do luật định nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc xét xử sơ
thẩm”.
1.1.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Trong tố tụng dân sự, thời hạn tố tụng là khoảng thời gian được xác định gắn
liền với tồn bộ thủ tục, trình tự giải quyết vụ án dân sự. Việc quy định thời hạn tố
tụng không chỉ xác định thời gian giải quyết xong một vụ án mà cịn xác định từng
cơng việc phải làm trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, thời hạn tố tụng khơng
chỉ có ý nghĩa đơn thuần về mặt thời gian mà còn là những mốc để người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có lien quan đến quá
9

Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, NXB công an nhân dân, Hà Nội, tr.327.
Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, NXB cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.328.

10


9
trình tố tụng xác định những cơng việc mà chủ thể này phải thực hiện, thực hiện
xong hay chưa.
Trong các loại thời hạn tố tụng dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
VADS là một trong những thời hạn quan trọng nhất. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm VADS là khoảng thời gian tối đa mà pháp luật quy định để Tòa án tiến hành
các hoạt động cần thiết nhằm giải quyết các vụ án đã thụ lý. Trước đây, thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS được quy định tại Điều 47 PLTTGQCVADS, theo
đó thời hạn chuẩn bị xét xử là 4 tháng. Nếu vụ án có tính chất phức tạp, khó khăn
thì thời hạn trên tối đa là 6 tháng. Kế thừa các quy định trên, Điều 179 BLTTDS
tiếp tục quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS theo hướng rõ ràng và
cụ thể hơn. Các trường hợp về gia hạn và lý do gia hạn hướng dẫn tại Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao đã tạo điều kiện cho Tòa án cấp sơ thẩm chuẩn bị xét xử vụ án dân sự đúng thời
hạn, tránh trường hợp vi phạm pháp luật về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nhất
là trong tình hình hiện nay khi số lượng vụ án dân sự ngày càng nhiều, tính chất
ngày càng phức tạp, đòi hỏi cần nhiều thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ,
nghiên cứu hồ sơ…
Theo quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP: Điều 179
BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử; do đó, các thời hạn quy định trong
điều này đều được tính trong thời hạn chuẩn bị xét xử.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS, nếu Thẩm phán tiến hành
giải quyết vụ án thấy các vụ án này chứng cứ rõ ràng, khơng có tính chất phức tạp
hay gặp trở ngại khách quan thì Tịa án sẽ tiến hành giải quyết vụ án trong thời hạn
luật định mà không cần phải gia hạn. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp
hoặc do trở ngại khách quan quy định tại điểm a và điểm b Khoản 1 Điều 179 của
BLTTDS mà thời hạn gần hết (thời hạn chuẩn bị xét xử cịn lại khơng q 5 ngày)
mà Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa
thể ra được một trong những quyết định quy định tại Khoản 2 Điều 179 BLTTDS,
thì cần phải báo ngay với Chánh án Tịa án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn
bị xét xử. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Tịa án có thể quyết định gia hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai
tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ
án thuộc trường hợp quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 179 BLTTDS.
Đối với những vụ án đơn giản, các tình tiết, sự kiện có liên quan đã được làm
rõ, đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng của mình thì Thẩm phán được
phân cơng giải quyết vụ án có thể sớm ra các quyết định tương ứng để rút ngắn quá


10
trình giải quyết vụ án. Đối với những vụ án Tịa án phải ra quyết định tạm đình chỉ
thì thời hạn chuẩn bị xét xử được bắt đầu lại kể từ ngày Tòa án tiếp tục giải quyết
vụ án khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn nữa.

1.1.3. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt “quyền” hay nói rõ là quyền lợi là “Lợi ích được
hưởng, mà người khác khơng được xâm phạm” 11. Quyền của của Tòa án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được hiểu là những việc Tịa án “được
làm” trong q trình tố tụng, cụ thể ở đây là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự. Những quyền này phải không trái với quy định của pháp luật nói
chung và Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 201412, Bộ luật TTDS 2004 sửa đổi bổ
sung 2011 nói riêng.
“Nghĩa vụ” là “Việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã
hội, đối với người khác”13 . Nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự là những việc Tịa án “phải làm” trong q trình tố tụng, cụ thể ở
đây là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Những nghĩa vụ phải
làm này cũng không trái với quy định của pháp luật nói chung cũng như Luật Tổ
chức Tịa án nhân dân 2014 và Bộ luật TTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011 nói riêng.
Như vậy, có thể hiểu “quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là những việc mà Tòa án cấp sơ thẩm được làm và
phải làm trong một khoảng thời gian xác định của quá trình tố tụng nhằm chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự”.
1.2. Đặc trƣng pháp lý quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm VADS được bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý VADS và kéo dài trong thời hạn do
luật định
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS được bắt đầu ngay khi Tòa án thụ
lý VADS, khi đó Tịa án đã chính thức xác nhận thẩm quyền và trách nhiệm của
mình trong việc giải quyết VADS. Sau khi thụ lý VADS, Thẩm phán phải triệu tập
các đương sự đến Tòa án để xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải. Đối với những
việc pháp luật quy định khơng được hịa giải hoặc khơng tiến hành hịa giải được


11

Hồng Phê - Viện Ngơn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006, trang 756.
Luật số 62/2014/QH13 được Quốc hội ban hành ngày 24/11/2014 và chính thức có hiệu lực từ ngày
01/06/2015.
13
Hồng Phê - Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006, trang 64.
12


11
hoặc hịa giải khơng thành thì Tịa án phải hồn thiện hồ sơ để đưa vụ án ra xét xử
tại phiên tòa sơ thẩm. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm VADS bao gồm: phân công Thẩm phán giải quyết VADS; thông báo
việc thụ lý VADS; tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để lập hồ sơ vụ án; ra các
quyết định tố tụng quan trọng; nghiên cứu hồ sơ vụ án; triệu tập người tham gia tố
tụng và chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho phiên tòa sơ thẩm… Bên cạnh đó,
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS Tịa án cịn có các quyền khác như:
đình chỉ giải quyết VADS, tạm đình chỉ giải quyết VADS, cơng nhận sự thỏa thuận
của các đương sự.
Như vậy, có thể thấy quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm VADS được phát sinh từ khi Tòa án thụ lý VADS và kéo dài trong
một thời hạn do luật quy định, đây là đặc trưng pháp lý đầu tiên và quan trọng để
phân biệt quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử VADS với
quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong các hoạt động tố tụng khác như: hoạt động tiến
hành phiên tòa sơ thẩm hay hoạt động chuẩn bị xét xử phúc thẩm VADS.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm VADS thể hiện qua nhiều hoạt động tố tụng khác nhau do luật định
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS là hoạt động phục vụ cho xét xử sơ thẩm nên
trong q trình chuẩn bị Tịa án phải tiến hành rất nhiều hoạt động nhằm mục đích

giải quyết yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu của người
có quyền và nghĩa vụ liên quan…để từ đó giải quyết VADS một cách đúng đắn.
Thẩm phán được phân công giải quyết VADS phải tiến hành các công việc cần thiết
để lập hồ sơ vụ án như: yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ hoặc trong trường hợp
do luật định Tịa án có thể tự mình tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ; lấy lời
khai người làm chứng; cho đối chất; tiến hành hòa giải; ra các quyết định tố tụng
phù hợp; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời…
Khi so sánh với quyền và nghĩa vụ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm VADS thì quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS
mang tính tồn diện hơn. Do tính chất của cấp phúc thẩm là “xét xử lại vụ án” nên
trong chuẩn bị xét xử phúc thẩm VADS quyền và nghĩa vụ của Tịa án khơng thể
hiện một cách đầy đủ như ở sơ thẩm mà căn cứ vào hồ sơ của Tòa án cấp sơ thẩm
đã xây dựng sẵn và Tòa án phúc thẩm tiến hành thu thập chứng cứ khi thấy cần thiết
và chỉ tập trung vào những phần mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị và những phần có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Vì
vậy, quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS


12
được thể hiện qua nhiều hoạt động tố tụng đa dạng, toàn diện nhằm chuẩn bị những
điều kiện cần thiết cho việc xét xử sơ thẩm.
1.2.3. Hòa giải là quyền và nghĩa vụ bắt buộc của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS
Hòa giải VADS là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp cho các
bên đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết VADS. Theo quy định tại điều 180
BLTTDS có quy định trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS, Tòa án tiến
hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ
những vụ án khơng được hịa giải hoặc khơng tiến hành hòa giải được quy định tại
Điều 181 và Điều 182 BLTTDS.
Đặc trưng này của Tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS khác với

chuẩn bị xét xử phúc thẩm VADS. Bởi vì, BLTTDS khơng quy định quyền và nghĩa
vụ của Tòa án phải tiến hành hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
VADS nên trong thực tế Tòa án cấp phúc thẩm chỉ công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự khi đương sự tự thỏa thuận được với nhau và yêu cầu Tịa án phúc thẩm
cơng nhận.
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm VADS được thực hiện theo nguyên tắc chung của tố tụng dân sự
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS là giai đoạn mà Tịa án tiến hành các cơng
việc cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử sơ thẩm VADS, vì vậy quyền và nghĩa vụ
của Tịa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có liên quan mật thiết đến phiên tòa sơ
thẩm cũng như các hoạt động tố tụng của Tòa án sau này. Nếu Tòa án thực hiện tốt
quyền và nghĩa vụ của mình trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS thì việc tiến hành
hịa giải và phiên tòa sơ thẩm diễn ra sẽ thuận lợi, hạn chế tình trạng hỗn phiên tịa
do các ngun nhân chủ quan cũng như sẽ hạn chế được việc xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
tố tụng dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử để giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
VADS cũng sẽ giúp cho Tòa án cấp phúc thẩm khi giải quyết để xét các kháng cáo,
kháng nghị được nhanh chóng, thuận lợi hơn.
1.3. Mục đích của việc quy định quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS, việc quy định quyền và
nghĩa vụ của Tịa án có vai trị quan trọng giúp cho Tòa án chuẩn bị các điều kiện
cần thiết và tuân thủ đúng quy định của pháp luật TTDS để xét xử sơ thẩm VADS,


13
vì vậy việc quy định quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn CBXX sơ thẩm
VADS nhằm các mục đích sau đây:
- Thứ nhất, giúp cho Tịa án cấp sơ thẩm có đầy đủ chứng cứ, tài liệu và các

kết luận khách quan về tình tiết, sự kiện của vụ án, từ đó xác định được các căn cứ
pháp lý làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Q trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS, Tịa án xem xét chứng cứ, tài liệu
do đương sự cung cấp cùng với việc nộp đơn khởi kiện. Trong trường hợp cần thiết
có thể yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ, tài liệu hoặc Tòa án tự mình
thu thập để làm rõ hơn tình tiết, sự kiện của vụ án. Sau khi có quyết định đưa vụ án
ra xét xử, một lần nữa Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải tiến hành
nghiên cứu hồ sơ một cách kỹ lưỡng, đưa ra kết luận khách quan về tình tiết, sự
kiện của vụ án, trên cơ sở đó xác định được căn cứ pháp lý làm cơ sở cho việc giải
quyết vụ án.
- Thứ hai, giúp cho Tòa án tiến hành các thủ tục cần thiết để chuẩn bị cho
việc mở phiên tòa sơ thẩm
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS Tòa án sẽ phân công hội
đồng xét xử; triệu tập đương sự đến tham gia phiên tòa; gửi quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp, chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật
chất… Đây là những công việc quan trọng giúp cho phiên tòa sơ thẩm diễn ra theo
đúng kế hoạch, hạn chế tình trạng hỗn phiên tịa do lý do cơ sở vật chất chuẩn bị
không đầy đủ.
- Thứ ba, tạo điều kiện cho các bên đương sự cung cấp chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đồng
thời tạo điều kiện cho các bên đương sự có cơ hội và thời gian để thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết các vấn đề của VADS.
Sau khi được Thẩm phán tiến hành hịa giải thơng qua việc giải thích pháp
luật để các đương sự sẽ hiểu rõ các quy định pháp luật về quan hệ đang tranh chấp,
từ đó có thể đi đến thỏa thuận được với nhau thì sẽ giảm thiểu chi phí cho các bên
tham gia tố tụng, đồng thời giảm được số vụ án mà Tòa án phải đưa ra xét xử.
1.4. Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành
1.4.1. Quyền yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Chứng cứ có vai trị quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt
động tố tụng dân sự nói riêng. Để tiếp cận sự thật khách quan và làm sáng tỏ nội
dung vụ việc dân sự thì phải có chứng cứ. Đương sự với tư cách là người bảo vệ


14

quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi làm phát sinh vụ việc dân sự và trong quá
trình chứng minh có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ, “các đương sự có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp”14.
Việc giao nộp chứng cứ được thực hiện ngay khi đương sự nộp đơn khởi
kiện, “người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”15. Tuy nhiên, trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán có quyền u
cầu đương sự tiếp tục giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Điều này đã được quy
định cụ thể tại Khoản 1 Điều 85 BLTTDS và hướng dẫn tại Khoản 4 Điều 2 Nghị
quyết số 04/2012/NQ-HĐTP.
Để yêu cầu đương sự giao nộp được các chứng cứ theo đúng yêu cầu, mục
đích, Thẩm phán phải giải thích cho đương sự biết quy định tại Điều 7 BLTTDS về
trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý
chứng cứ. Khi yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ, về hình thức yêu cầu
là văn bản thơng báo, trong trường hợp này có thể sử dụng mẫu thơng báo Tịa án
đã dùng khi thụ lý vụ án. Về nội dung, Tòa án cần phải nêu cụ thể chứng cứ cần
giao nộp bổ sung, xác định rõ đương sự nào phải nộp bổ sung các chứng, hậu quả
pháp lý nếu đương sự không giao nộp được chứng cứ đó. Tùy vào loại tranh chấp
dân sự và các vấn đề cần chứng minh mà Thẩm phán có thể yêu cầu các bên đương
sự cung cấp, bổ sung chứng cứ cho phù hợp.
Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa mà theo đơn

khởi kiện thì ngồi hợp đồng cịn có phụ lục hợp đồng, nhưng nguyên đơn mới nộp
cho Tòa án bản hợp đồng thì Thẩm phán yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung bản phụ
lục hợp đồng đó để có cơ sở giải quyết tranh chấp. Hoặc trong vụ án ly hôn, Tịa án
phải giải quyết u cầu ni con chưa thành niên. Nếu đương sự chưa nộp cho Tòa
án giấy khai sinh (bản sao) của con chưa thành niên, thì Thẩm phán yêu cầu đương
sự giao nộp bổ sung giấy khai sinh để làm căn cứ giải quyết yêu cầu giao con chưa
thành niên cho người cha hoặc người mẹ trông nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo
dục và quyết định mức cấp dưỡng.
Cũng có thể kết hợp khi ghi biên bản lấy lời khai của đương sự, Thẩm phán
yêu cầu đương sự phải bổ sung chứng cứ còn thiếu. Dù với cách thức nào thì yêu

14
15

Khoản 1 Điều 6 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
Điều 165 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)


15
cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ cũng phải được thể hiện bằng văn bản để
lưu trong hồ sơ vụ án.
Khi đã nhận thấy đủ những điều kiện để tiến hành thu thập chứng cứ theo
yêu cầu của đương sự, Thẩm phán cần giải thích cho đương sự biết nghĩa vụ nộp
tạm ứng chi phí tương ứng với biện pháp thu thập mà đương sự yêu cầu nếu pháp
luật quy định đương sự phải chịu chi phí tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ đó
(ví dụ khi yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng chi phí giám định…). Thẩm phán
chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí tương
ứng, nếu thuộc trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng.
Thủ tục giao nhận chứng cứ phải tuân theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3
Điều 84 BLTTDS. Khi nhận các chứng cứ do đương sự giao nộp, Tòa án phải tiến

hành lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Nội dung biên bản phải có đầy đủ
tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ,
thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và
dấu của Tòa án. Nếu chứng cứ là tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngồi thì đương
sự phải nộp kèm theo bản dịch sang tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực.
Tuy nhiên, dưới góc độ là quyền tố tụng của Tịa án trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm VADS thì khi yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ, theo tác giả Tòa
án cần hướng cụ thể cho đương sự loại tài liệu, chứng cứ cần giao nộp, loại tài liệu
chứng cứ đó có thể lấy được từ đâu, cơ quan nào có thể cung cấp cho đương sự để
đương sự có thể tự mình thu thập chứng cứ. Việc Tịa án hướng dẫn cho đương sự
như vậy sẽ góp phần giảm tải công việc, tiết kiệm thời gian cho Tịa án khi đương
sự khơng tự mình thu thập chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
1.4.2. Quyền lấy lời khai của đương sự, người làm chứng trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ trong vụ án, liên quan trực tiếp
trong vụ án. Do đó, lời khai của đương sự góp phần quan trọng trong việc làm rõ
bản chất của vụ việc tranh chấp. Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan,
tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan16.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định trước hết đương sự phải có bản
tự khai về những việc có liên quan đến vụ án mà họ biết được để cung cấp cho Tòa
án làm cơ sở giải quyết vụ án. Tuy nhiên, khơng phải đương sự nào cũng có khả
năng tự khai một cách đầy đủ, chính xác, đáp ứng được yêu cầu của việc chứng
minh. Do đó, BLTTDS quy định Tịa án cũng có quyền lấy lời khai của đương sự và
đây là một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án. Trước đây, Pháp
16

Khoản 1 Điều 56 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).


16

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định Tịa án có quyền chủ động lấy lời
khai của đương sự. Trong thực tế việc lấy lời khai của đương sự hầu như là một
nghĩa vụ bắt buộc của Tòa án để thu thập chứng cứ, giải quyết vụ án. Điều này
khơng phát huy tính chủ động trong hoạt động chứng minh của đương sự, đương sự
chỉ thụ động giao khoán nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh cho Tòa án.
Khắc phục nhược điểm này, BLTTDS 2004 quy định: “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy
lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa
đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường
hợp đương sự khơng thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc
lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa
đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tịa án ghi lại lời khai của đương
sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Tòa án, trong
trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngồi trụ sở Tịa án17. Khi lấy
lời khai ngồi trụ sở của Tịa án phải bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật,
phải bảo đảm căn cứ thể hiện tính khách quan như phải có người làm chứng, có xác
nhận của cơ quan chức năng. Đối với các trường hợp cần thiết lấy lời khai của
đương sự là người dưới 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì phải có
mặt người đại diện hợp pháp của họ và những người này phải ký tên hoặc điểm chỉ
xác nhận vào biên bản ghi lời khai.
Người làm chứng theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam “là người biết các
tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án” và họ “có thể được Tòa án triệu tập tham
gia tố tụng với tư cách là người làm chứng”18. Việc lấy lời khai của người làm
chứng là một biện pháp thu thập những thơng tin từ trí nhớ con người. Đây cũng là
một biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án được quy định tại Điều 87 BLTTDS.
Người làm chứng khác với đương sự trong vụ án dân sự là họ không có những
quyền, lợi ích hay nghĩa vụ trong vụ án, cho nên lời khai của họ có tính khách quan
hơn đương sự. Lời khai của người làm chứng là một nguồn chứng cứ bổ sung và
cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Do đó, Thẩm phán cũng có quyền lấy lời khai
của người làm chứng, “theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm
phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Tịa án hoặc ngồi trụ sở

Tịa án”19. Đối với người làm chứng chưa đủ 18 tuổi hoặc người bị hạn chế năng lực

17

Khoản 1 Điều 86 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Điều 65 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
19
Khoản 1 Điều 87 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
18


17
hành vi dân sự thì khi lấy lời khai phải có mặt người đại diện theo pháp luật hoặc
người đang thực hiện việc quản lý, trơng nom người đó20.
Thẩm phán phải làm rõ mối quan hệ giữa người làm chứng với đương sự để
có cơ sở nhận xét, đánh giá đúng tính khách quan trong lời khai của người làm
chứng. Khi lấy lời khai người làm chứng, Thẩm phán phải giải thích cho người làm
chứng biết trách nhiệm của họ trong trường hợp họ khai báo không đúng sự thật.
Người làm chứng phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của mình21. Khi lấy lời khai của người làm chứng, Thẩm phán phải tiến hành lấy lời
khai riêng của từng người làm chứng, không để cho họ có thể tiếp xúc với nhau
hoặc với đương sự trong thời gian họ khai báo22. Khi đặt những câu hỏi cho người
làm chứng trả lời, Thẩm phán không được đặt các câu hỏi có tính chất gợi ý hay áp
đặt.
Tại Khoản 2 Điều 86 của BLTTDS có quy định: Trường hợp biên bản ghi lời
khai của đương sự được lập ngồi trụ sở Tịa án thì phải có người làm chứng hoặc
xác nhận của Ủy ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi lập biên bản. Quy định này gây khó khăn trong cơng tác thu thập chứng cứ của
Thẩm phán, vì lấy lời khai của đương sự ở tại trụ sở hay ngồi trụ sở Tịa án thì
Thẩm phán vẫn phải chịu trách nhiệm trước việc tiến hành tố tụng của mình đối với

lời khai đó, nếu lấy lời khai ngồi trụ sở thì phải mất nhiều thời gian do phải nhờ
người làm chứng hoặc đi xác nhận… trong khi những trường hợp lấy lời khai
đương sự ngồi trụ sở Tịa án thơng thường là những đương sự khó tiếp xúc hoặc
Tịa án triệu tập nhưng khơng đến trụ sở Tịa án.
Theo quy định tại các Điều 6, Điều 85 BLTTDS, trong trường hợp xét thấy
trong hồ sơ vụ việc chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự
giao nộp bổ sung chứng cứ, nếu đương sự khơng thể tự mình thu thập được và có
u cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ. Trong khi
đó, tại Điều 87, Điều 92 BLTTDS lại quy định Tòa án lấy lời khai của người làm
chứng khi xét thấy cần thiết, Tòa ra quyết định định giá tài sản khi các bên thỏa
thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí.
1.4.3. Quyền cho đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự
với người làm chứng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

20

Khoản 3 Điều 87 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Điều 66 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
22
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
tr.160.
21


18
Trong quá trình thu thập chứng cứ bằng lời khai của các đương sự, người
làm chứng hoặc các biện pháp thu thập chứng cứ khác có thể có những trường hợp
mâu thuẫn với nhau về vấn đề nào đó của vụ án hoặc chưa thống nhất với nhau giữa
lời khai của các đương sự, giữa lời khai của đương sự với lời khai của người làm
chứng. Trong những trường hợp này, để làm rõ những tình tiết mâu thuẫn, Tịa án

có quyền thực hiện biện pháp đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương
sự với người làm chứng. Đối chất là việc hỏi cùng một lúc nhiều đương sự, người
làm chứng để so sánh, đánh giá lời khai của họ khi xét thấy có sự mâu thuẫn23. Đối
chất là một biện pháp thu thập chứng cứ do người tiến hành tố tụng thực hiện.
Theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, hoạt động đối chất được tiến hành
theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các
đương sự, người làm chứng24. Trước khi tiến hành đối chất, Thẩm phán cần phải
chuẩn bị những vấn đề cần đối chất. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Thẩm phán tiến
hành đối chất về từng vấn đề một hoặc để từng người trình bày về các vấn đề cần
đối chất theo thứ tự. Trong khi tiến hành đối chất, Thẩm phán phải đối chiếu từng
lời khai của những người tham gia đối chất với nhau và với các chứng cứ, tài liệu
khác có trong hồ sơ vụ án để đánh giá đúng những vấn đề được đưa ra đối chất. Khi
đã nghe những lời trình bày của người tham gia đối chất, Thẩm phán có thể đặt câu
hỏi tiếp theo cho từng người hoặc cũng có thể cho những người tham gia đối chất
hỏi lẫn nhau nhằm thu thập thêm những lời khai xác đáng về vấn đề cần làm sáng tỏ
vụ án.
Việc đối chất phải được ghi thành biên bản25. Thẩm phán có thể tự mình
hoặc u cầu Thư ký Tòa án ghi biên bản đối chất. Sau khi kết thúc đối chất, những
người tham gia đối chất phải được xem hoặc nghe đọc lại biên bản đối chất. Biên
bản đối chất phải có chữ ký của những người tham gia đối chất, Thẩm phán tiến
hành đối chất, Thư ký Tịa án ghi biên bản đối chất và đóng dấu của Tòa án26.
1.4.4. Quyền trưng cầu giám định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự
Trong q trình giải quyết vụ án, có những chứng cứ sau khi thu thập vẫn
chưa rõ ràng, chưa thể sử dụng để chứng minh được ngay mà cần phải có ý kiến kết
luận của các nhà chun mơn mới có cơ sở tin cậy, có giá trị chứng minh, do đó
23

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
tr.160.

24
Khoản 1 Điều 88 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
25
Khoản 2 Điều 88 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
26
Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.


×