TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
------***------
LÊ THỊ THU NGA
MSSV: 1155020165
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VIỆC
CUNG CẤP CHỨNG CỨ, CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHĨA: 2011 – 2015
GVHD: Ths. Đỗ Thành Trung
Giảng viên khoa Luật Hành chính
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Đỗ Thành Trung, giảng
viên Khoa Luật hành chính, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này!
Tác giả
Lê Thị Thu Nga
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VIỆC CUNG CẤP CHỨNG CỨ, CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH .................................................................................. 4
1.1.Khái niệm, đặc điểm đƣơng sự trong vụ án hành chính ...................................... 4
1.1.1. Khái niệm đương sự trong vụ án hành chính ......................................................... 4
1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án hành chính ................................................... 6
1.2.Khái niệm, đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong việc cung
cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính ................................................... 9
1.2.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính ................................................................................ 9
1.2.2. Đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính .............................................................................. 11
1.3. Những quy định pháp luật tố tụng hành chính về quyền và nghĩa vụ của
đƣơng sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính ..... 17
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để
chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình .......................................... 17
1.3.2. Quyền được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do
đương sự khác cung cấp hoặc do Tòa án thu thập ........................................................ 20
1.3.3. Quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án ............................................. 23
1.3.4. Quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình
khơng thể thực hiện được; đề nghị triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ........................................................................... 26
1.4. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong việc
cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính ........................................ 31
1.4.1. Đối với đương sự trong vụ án hành chính ........................................................... 31
1.4.2. Đối với Tịa án...................................................................................................... 33
1.4.3. Đối với nhà nước .................................................................................................. 32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VIỆC CUNG CẤP CHỨNG CỨ,
CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................................... 35
2.1. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong việc cung cấp
chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính ........................................................ 35
2.1.1. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp tài
liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ............. 38
2.1.2. Thực trạng thực hiện quyền được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài
liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do Tòa án thu thập ........................... 40
2.1.3. Thực trạng thực hiện quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ,
quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án................. 41
2.1.4. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc đề nghị Tòa
án xác minh, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá, thẩm định giá tài sản....................................................................................... 46
2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, thúc đẩy thực hiện quyền và nghĩa vụ của
đƣơng sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính ..... 45
2.2.1. Hồn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình ................................................................................................................................ 45
2.2.2. Hồn thiện quy định về quyền được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các
tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do Tòa án thu thập ...................... 47
2.2.3. Hoàn thiện quy định về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tịa án ......... 51
2.2.4. Hồn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc đề nghị
Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám
định, định giá, thẩm định giá tài sản ............................................................................. 49
2.2.5. Một số giải pháp về mặt thực tiễn ........................................................................ 51
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 56
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ Luật TTDS
Luật TTHC
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa
đổi, bổ sung năm 2011
Luật Tố tụng hành chính năm 2010
Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính
hành chính năm 1996, sửa đổi, bổ sung
năm 1998 và năm 2006
NQ 02/2011
TANDTC
Nghị quyết 02/2011 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành Luật Tố tụng hành chính năm
2010.
Tịa án nhân dân tối cao
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Ủy ban thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 21/5/1996 và có hiệu lực thi hành ngày 01/7/1996 là một
sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong ngành luật tố tụng hành
chính Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vụ án hành chính,
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tuy nhiên, vì xuất phát
điểm là một trong những văn bản nền tảng đầu tiên trong lĩnh vực tố tụng hành
chính nên những quy định trong Pháp lệnh cịn rất hạn hẹp, chưa bao qt cũng như
khơng bắt kịp nhu cầu trong tình hình mới. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần có một văn
bản khác thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính này.
Luật TTHC Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa 12 thơng qua ngày 24/11/2010 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày
01/7/2011. Sau khoảng thời gian áp dụng cho đến nay, Luật TTHC đã góp phần
đáng kể vào việc giải quyết các vụ án hành chính, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
nhằm nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tịa án. Có thể khẳng định sự ra
đời của Luật TTHC là mốc son lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về tư duy pháp
lý cũng như kỹ thuật lập pháp của nước nhà, khẳng định vai trị, tầm quan trọng của
nó so với Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đó. Thế nhưng,
cũng khơng phải là một ngoại lệ của hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật khác,
bên cạnh những hiệu quả tích cực mang lại, vẫn cịn khơng ít những thiếu sót, bất
cập dẫn đến tình trạng chất lượng bản án khơng được đảm bảo, không thống nhất
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, thậm chí có một tỉ lệ đáng kể án bị hủy, sửa…
Xét về phương diện chung, có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên nhưng nổi bật
nhất có thể thấy đó là những hạn chế trong việc quy định về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh. Bởi lẽ, việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ này là cơ sở then chốt, có ý nghĩa tiên quyết để giải quyết các vụ án
hành chính nói chung, bản án, quyết định được tuyên là dựa trên những chứng cứ,
chứng minh có cơ sở chứ khơng phải chỉ là hoạt động cảm tính của con người.
Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh mà nền tảng được quy
định tại chương VI Luật TTHC vẫn còn quá chung chung, chưa đầy đủ, chi tiết, dẫn
đến việc áp dụng không đúng, không đầy đủ, không thống nhất hoặc thậm chí phải
chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Đây thực sự là một bất cập lớn cần được giải
quyết triệt để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các bên khi tham gia vào quan
hệ tố tụng, thực hiện đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước cũng
như đề cao vai trò trung tâm của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án hành chính.
Nhận thức được điều này, yêu cầu đặt ra là cần làm rõ những vấn đề lý luận có
liên quan, đồng thời tiến hành hoạt động phân tích, làm sáng tỏ những quy định của
pháp luật để từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm hồn thiện quy định của
pháp luật và nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tịa án. Đó cũng là lý do
tác giả chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Thực tiễn cho thấy đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu
nào về đề tài “Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính”. Tuy nhiên, xuất phát từ lý do đây là một vấn
đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng hành chính, là cơ sở để
giải quyết các vụ án hành chính nói chung, do vậy cũng đã có một số tác giả nghiên
cứu ở những góc độ nhất định và là những cơng trình thật sự có giá trị khoa học
như: luận văn thạc sỹ Luật học trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm
2012 với đề tài “Chứng cứ trong vụ án hành chính”, luận văn thạc sỹ Luật học
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 với đề tài “Chứng minh
trong vụ án hành chính” của tác giả Phan Thanh Hà, luận văn tốt nghiệp cử nhân
Luật trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2014 “Hoạt động chứng
minh trong tố tụng hành chính” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hân,luận văn tốt
nghiệp cử nhân Luật trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2014
“Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính” của tác giả Đặng Xuân
Sơn… và một số cơng trình nghiên cứu khác có liên quan.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chỉ tiếp cận và phân tích một số khía
cạnh nhất định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp
chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án hành chính chứ khơng đi
sâu, nghiên cứu tồn diện, triệt để vấn đề này.
Do đó, có thể khẳng định đây là một đề tài mới và là nguồn tư liệu quan trọng
trong việc thực hiện, sửa đổi, bổ sung quy định có liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận trên nền tảng phân tích cơ sở lý luận và pháp lý để làm rõ những vấn
đề về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh
trong tố tụng hành chính, đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của
pháp luật và đề xuất hướng giải quyết góp phần hồn thiện các quy định của pháp
luật có liên quan, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Tòa án trong xét
xử, tạo niềm tin con người vào hoạt động quản lý nhà nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh
trong vụ án hành chính, trên cơ sở đó tìm ra những bất cập trong quy định của pháp
luật và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định tại chương
VI, Điều 8, Điều 49 và một số điều luật khác có liên quan trong Luật TTHC. Ngồi
ra, cịn nghiên cứu dựa trên một số văn bản pháp luật có liên quan như NQ 02/2011,
Hiến pháp, Bộ Luật TTDS, Bộ luật hình sự và các văn bản xử lý vi phạm hành
chính… cũng như Báo cáo tổng kết công tác của TANDTC và thực tiễn các vụ án
hành chính trong những năm gần đây.
2
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được hình thành dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về nhà nước và pháp luật. Đây là phương pháp có ý nghĩa tiên quyết, tạo tiền đề để
tác giả nhận thức đúng đắn, toàn diện hơn về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
việc cung cấp chứng cứ, chứng minh.
Đồng thời, tác giả còn kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
khác như: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp… trong cơng trình nghiên cứu này.
Mỗi phương pháp được sử dụng đều đóng một vai trị nhất định trong việc làm sáng
tỏ những vấn đề cần nghiên cứu, từ đó, giúp tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá
cũng như đề xuất phương án nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật có liên
quan.
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
Tác giả mong muốn đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp
chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính. Đồng thời, giúp người đọc có cái
nhìn rõ nét, tồn diện hơn, từ đó áp dụng có hiệu quả những quy định của pháp luật
vào cuộc sống.
Ngồi ra, khóa luận cũng là tài liệu tham khảo quan trọng cho những ai quan
tâm, đặc biệt là các bên đương sự khi tham gia tố tụng giải quyết vụ án hành chính
cũng như cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng… Hy vọng đây còn là
một nguồn kiến thức quan trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học ở những
lĩnh vực có liên quan.
7. Cơ cấu đề tài
Khi nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, ngồi lời cam đoan, phần
mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính gồm có các chương
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính.
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ của đương
sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính.
Đây là hai nội dung chính làm sáng tỏ những khía cạnh cơ bản khi nghiên cứu
đề tài “Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh
trong vụ án hành chính”.
3
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG
SỰ TRONG VIỆC CUNG CẤP CHỨNG CỨ, CHỨNG MINH TRONG VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm đƣơng sự trong vụ án hành chính
1.1.1. Khái niệm đương sự trong vụ án hành chính
Luật TTHC là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, điều chỉnh
hầu hết các quan hệ trong đời sống xã hội. Nó khơng chỉ kế thừa những quy định
tiến bộ trong Pháp lệnh cũ mà còn học hỏi, sáng tạo ra những thiết chế mới phù hợp
với thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng, Luật TTHC vẫn chưa
thực sự hoàn thiện, cụ thể là chưa đưa ra được một khái niệm hoàn chỉnh nào về
đương sự trong vụ án hành chính. Đây thực sự là một thiếu sót cần được xem xét,
bởi lẽ trọng tâm và mục đích của q trình giải quyết vụ án hành chính là đương sự
thơng qua việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, để làm rõ khái niệm
đương sự trong vụ án hành chính, tác giả cần tiếp cận từ nhiều nguồn khác nhau và
trên cơ sở đó đưa ra một khái niệm hồn chỉnh hơn.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển tiếng Việt, đương sự được hiểu là
“đối tượng trong một vụ việc nào đó được đưa ra giải quyết”1. Đây là một khái
niệm cịn khá mơ hồ, mang tính chất định khung, chỉ nêu ra sự liên quan giữa chủ
thể là đương sự với vụ việc được giải quyết. “Đối tượng” trong trường hợp này
được hiểu theo nghĩa như thế nào, là đối tượng trong pháp luật tố tụng hành chính,
pháp luật tố tụng dân sự hay pháp luật tố tụng hình sự thì khơng được xác định rõ.
Cách giải thích này khơng mang giá trị pháp lý cao khi tiến hành hoạt động xác định
tư cách đương sự trong vụ án hành chính. Cịn theo Từ điển Luật học, đương sự
được hiểu là “chủ thể có quyền và nghĩa vụ được giải quyết trong một vụ việc khiếu
nại hoặc một vụ án”2. So với cách giải thích trong Từ điển tiếng Việt thì Từ điển
Luật học đã làm rõ hơn bằng cách chỉ ra mối liên quan giữa quyền và nghĩa vụ của
họ với quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cả hai khái
niệm trên đều chỉ tiếp cận ở nghĩa thông thường, chưa nêu ra được bản chất của
đương sự trong vụ án hành chính. Chúng chỉ giải thích một cách khái quát nhất về
đương sự nói chung, cả trong pháp luật tố tụng hành chính và pháp luật tố tụng dân
sự. Do đó, về cơ bản, vẫn chưa đạt được mục tiêu mà pháp luật tố tụng hành chính
hướng đến khi tìm hiểu về khái niệm đương sự trong vụ án hành chính.
Xét dưới góc độ quan điểm các nhà nghiên cứu, Giáo trình Đại học Luật Hà
Nội nhận định rằng “đương sự trong vụ án hành chính được xác định là người khởi
kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”3. Còn theo quy định
tại Khoản 5 Điều 3 Luật TTHC, “đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Cả hai khái niệm được trích dẫn này đều
dựa vào phương pháp liệt kê để chỉ ra những chủ thể được xác định là đương sự
1
Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 357.
Viện Khoa học pháp lý (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 165.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, NXB Công An Nhân dân, Hà Nội,
tr. 161.
2
4
trong vụ án hành chính mà khơng nêu ra được bản chất, nội hàm của đương sự. Do
đó, nếu tiếp cận ở góc độ này, mặc dù người đọc có thể chỉ ra được thành phần của
đương sự nhưng lại khơng xác định được bản chất của họ, gây khó khăn khi xác
định tư cách đương sự. Khi tham gia vào một quan hệ pháp luật tố tụng hành chính
cụ thể, vấn đề xác định tư cách đương sự không phải lúc nào cũng dễ dàng, đơn
giản. Có rất nhiều trường hợp vụ án hành chính tuy đã được đưa ra giải quyết nhưng
vẫn bị hủy, sửa án do xác định sai tư cách đương sự. Vì vậy, việc xác định tư cách
đương sự dựa trên phương pháp này không mang tính khả thi cao.
Ngồi ra, theo Giáo trình Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, đương sự là
“những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính
mình”4. Cách nêu khái niệm này có phần tiến bộ hơn so với những quan điểm trên
vì đã phần nào thể hiện được bản chất của đương sự trong vụ án hành chính. Tuy
nhiên, khái niệm này cũng chưa thật sự hoàn thiện, chưa làm rõ mối liên hệ giữa
đương sự trong vụ án hành chính với đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính.
Đồng thời, khái niệm này có thể gây nhầm lẫn với khái niệm đương sự trong pháp
luật tố tụng dân sự. Bởi vì, đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự về cơ bản họ
cũng là người tham gia tố tụng và việc tham gia đó cũng là để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của chính họ. Vì thế, để phân biệt khái niệm đương sự trong pháp luật tố
tụng hành chính và pháp luật tố tụng dân sự cần nhấn mạnh điểm khác biệt đặc
trưng nhất là đương sự trong vụ án hành chính có quyền và nghĩa vụ liên quan trực
tiếp tới đối tượng khởi kiện. Đây là đặc điểm mà chỉ đương sự trong pháp luật tố
tụng hành chính mới có. Nếu thể hiện nội dung này vào trong khái niệm thì sẽ làm
rõ hơn nội hàm của đương sự trong vụ án hành chính.
Hơn nữa, “đương sự trong vụ án hành chính là những cá nhân, cơ quan và
tổ chức tham gia tố tụng trong vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của chính mình, có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp với các khiếu kiện bị
kiện”5. Khái niệm này tuy đã thể hiện được bản chất và nội hàm của đương sự trong
vụ án hành chính nhưng việc sử dụng thuật ngữ vẫn còn chưa chuẩn xác. “Khiếu
kiện bị kiện” là một thuật ngữ mơ hồ, chưa rõ ràng, vì vậy vấn đề hiểu và sử dụng
khơng mang tính khoa học.
Do đó, để hồn chỉnh hơn khái niệm đương sự trong vụ án hành chính, tác
giả xin đưa ra các hiểu như sau: “đương sự trong vụ án hành chính là những cá
nhân, cơ quan và tổ chức tham gia tố tụng trong vụ án hành chính để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của chính mình, có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến các
đối tượng khởi kiện”. Người khởi kiện tham gia vào vụ án hành chính thơng qua
việc khởi kiện các đối tượng khởi kiện được ghi nhận trong Luật TTHC. Thuật ngữ
“đối tượng khởi kiện” này cũng mang tính khoa học pháp lý và dễ hiểu, dễ sử dụng
hơn. Nếu xem xét một cách khách quan, sau khi kết hợp các tiêu chí trên, nhận thấy
đây thực sự là một khái niệm hoàn chỉnh hơn về đương sự trong vụ án hành chính,
4
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, NXB Hồng Đức,
TP. Hồ Chí Minh, tr. 135.
5
Đặng Xn Sơn (2014), Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Tố tụng hành chính, tr. 6.
5
khắc phục được những hạn chế của các khái niệm trước đó. Khái niệm đương sự ở
đây đã lột tả được bản chất của nó trong vụ án hành chính và đặc biệt đã có sự phân
biệt rõ ràng với khái niệm đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự, giúp người đọc
cái nhìn tồn diện về đương sự trong vụ án hành chính. Do đó, thiết nghĩ đây là khái
niệm cần được ghi nhận khi xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính. Các
chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính sẽ chủ động hơn
trong việc xác định vị trí, vai trị của mình, việc giải quyết vụ án hành chính cũng
hiệu quả hơn, tránh những sai sót khơng mong muốn ảnh hưởng đến chất lượng bản
án, quyết định của Tòa án.
1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án hành chính
Cũng giống như những nhóm chủ thể khác, đương sự với tư cách là người
tham gia tố tụng có những đặc điểm đặc trưng giúp phân biệt với các nhóm chủ thể
khác trong pháp luật tố tụng hành chính và kể cả trong pháp luật tố tụng khác. Do
vậy, việc tìm hiểu những đặc điểm của đương sự trong vụ án hành chính có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng giúp nhận dạng được các chủ thể khi tham gia vào một quan hệ
pháp luật tố tụng cụ thể.
Thứ nhất, đương sự là những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình
Dù là trong pháp luật tố tụng hành chính hay pháp luật tố tụng dân sự, đương
sự trước hết được thừa nhận là người tham gia tố tụng và việc tham gia tố tụng đó là
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này thể hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bảo vệ của đương sự. Trong vụ án hành chính, đương sự tham gia q
trình tố tụng có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Quyền bảo vệ của đương sự được thừa nhận và bảo đảm thực hiện ở
mọi giai đoạn tố tụng và Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện bảo đảm đương sự
thực hiện quyền của mình. Mặc dù có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình giải
quyết vụ án hành chính nhưng nếu họ khơng phải là người tham gia tố tụng, hoặc là
người tham gia tố tụng nhưng việc tham gia đó khơng nhằm mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chính họ thì cũng khơng được thừa nhận là đương sự. Có
thể nói, đây cũng chính là điểm quan trọng phân biệt đương sự với những nhóm chủ
thể khác và những người tham gia tố tụng khác như người bảo vệ quyền và lợi ích
của đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch…
Ngồi ra, nó cịn được thể hiện qua việc giải quyết vụ án hành chính vì thực
tế vụ án hành chính chỉ phát sinh trên cơ sở khởi kiện và thụ lý của Tòa án nhằm
giải quyết yêu cầu của người khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể,
trọng tâm là đương sự trong vụ án đó. Đương sự là nhóm chủ thể có lợi ích thiết
thực nhất trong vụ án hành chính, hầu hết các quyết định, bản án của Tịa án đều có
ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi của họ. Vì thế, khi tham gia vào một vụ án hành
chính cụ thể, vấn đề bảo vệ lợi ích của họ ln được nhấn mạnh. Tịa án thực chất
hoạt động trước tiên cũng là vì lợi ích của đương sự thông qua hoạt động đánh giá,
phán xét dựa trên tài liệu, chứng cứ thu thập được.
6
Thứ hai, đương sự trong vụ án hành chính là những người có quyền làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt q trình tố tụng hành chính
Tuy khơng phải là một đặc điểm khác biệt so với pháp luật tố tụng dân sự,
nhưng cũng là một đặc điểm đặc trưng mà khơng có bất kì người tham gia tố tụng
nào có được. Lý do cơ bản nhất xuất phát từ địa vị pháp lý của đương sự, cụ thể vụ
án hành chính chỉ có thể phát sinh khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện và
được Tòa án thụ lý giải quyết. Nếu khơng có hành vi tố tụng ban đầu của họ trong
việc khởi kiện thì chắc chắn sẽ khơng xuất hiện những hoạt động tố tụng khác.
Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hành chính trao cho đương sự quyền làm thay đổi
quá trình tố tụng như quy định tại Điều 147 Luật TTHC về thay đổi địa vị tố tụng
trong trường hợp người khởi kiện rút toàn bộ đơn khởi kiện và người có quyền và
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu, yêu cầu tạm đình chỉ
giải quyết vụ án… Hay thậm chí đương sự vẫn có quyền làm chấm dứt quá trình tố
tụng tại điểm c và điểm d Khoản 1 Điều 120 Luật TTHC quy định người khởi kiện
rút yêu cầu và được Tòa án chấp nhận, người bị kiện hủy bỏ đối tượng khởi kiện và
người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập rút u cầu độc lập đó thì vụ án hành chính bị đình chỉ… Đương sự
có thể làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quá trình tố tụng trong những trường hợp
pháp luật cho phép dựa trên ý chí chủ quan của mình.
Đặc trưng này cũng tạo nên thế chủ động giúp đương sự thể hiện mong
muốn, nguyện vọng trong suốt q trình giải quyết vụ án mà khơng bị ràng buộc bởi
một số quy định cứng nhắc của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật trao cho đương sự
quyền đồng thời cũng giới hạn phạm vi quyền mà đương sự được thực hiện. Điều
đó thể hiện sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích chung mà pháp luật hướng
đến. Việc thực hiện quyền của chủ thể này không được ảnh hưởng đến lợi ích chính
đáng của chủ thể khác đã được công nhận và thụ hưởng. Sự khéo léo trong quy định
pháp luật cũng phần nào thể hiện được vai trò nhà nước và pháp luật trong hoạt
động quản lý xã hội.
Thứ ba, đương sự trong vụ án hành chính là những người có quyền và nghĩa
vụ liên quan đến các đối tượng khởi kiện
Pháp luật tố tụng hành chính có một đặc trưng quan trọng có thể phân biệt
với pháp luật tố tụng khác là đối tượng khởi kiện quy định tại Điều 28 Luật TTHC,
bao gồm: quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri và quyết định kỷ luật
buộc thơi việc. Trong bất kì một vụ án hành chính nào, đối tượng khởi kiện cũng
phải thỏa mãn nội dung này. Do đó, đương sự trong vụ án hành chính ln là những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới các đối tượng khởi kiện đó, cịn mức độ
liên quan phụ thuộc vào địa vị pháp lý của họ khi tham gia quá trình tố tụng. Chẳng
hạn như khi đương sự là người khởi kiện thì họ là người chịu tác động trực tiếp bởi
đối tượng khởi kiện, vì cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình khơng được
đáp ứng nên họ đi khởi kiện để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp này. Nếu
đương sự là người bị kiện thì ngược lại, họ chính là người đã ban hành ra quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, vì là chủ thể ban hành nên khi các chủ
thể khác cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp khơng được đảm bảo họ tiến hành khởi
7
kiện các chủ thể này. Cũng cần lưu ý rằng, người bị kiện trong trường hợp này được
xác định là chức danh, chức vụ trong cơ quan nhà nước hoặc cơ quan nhà nước đã
ban hành ra quyết định hành chính, hành vi hành chính đó chứ khơng phải kiện
người giữ chức danh, chức vụ đó. Và cuối cùng, trong q trình giải quyết vụ án
hành chính, nếu việc giải quyết có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của chủ thể
khác thì chủ thể đó tự mình, hoặc đương sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận hoặc
được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Vì thế, nếu đã được xác định là đương sự trong vụ án hành chính thì dù ít
hay nhiều họ đều có liên quan nhất định đến đối tượng khởi kiện.
1.2. Khái niệm, đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong việc cung
cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính
1.2.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính
Cho đến thời điểm hiện tại, pháp luật tố tụng hành chính cũng như các cơng
trình nghiên cứu có liên quan vẫn chưa đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh nào về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong
vụ án hành chính. Vì vậy, để làm rõ vấn đề này địi hỏi sự phân tích, đánh giá từ
nhiều nguồn khác nhau, dựa trên các khái niệm có liên quan như: quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong vụ án hành chính; chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành
chính. Trên cơ sở các khái niệm đã được phân tích, tác giả có thể xây dựng nên một
khái niệm hoàn thiện hơn về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp
chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính.
Trước tiên, về khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành
chính
Hiện nay pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể, hầu hết các cơng trình
nghiên cứu chỉ liệt kê những quyền và nghĩa vụ cơ bản của đương sự.
Một là, theo Từ điển tiếng Việt, quyền “là điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”6. Còn theo Từ điển Luật học
“quyền là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công
nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được
hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai được ngăn cản, được hạn chế”7. Cả hai
cách giải thích đều đưa ra khái niệm về quyền theo nghĩa chung nhất và khẳng định
được bản chất của quyền đó là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận hoặc cho
phép chủ thể được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Tuy nhiên, Từ điển Luật học có
một ưu điểm hơn ở chỗ đưa ra thêm cơ chế bảo vệ quyền là khơng ai được ngăn
cản, hạn chế. Đây là tiêu chí quan trọng thể hiện nguyên tắc nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, pháp luật là công cụ thượng tơn thể hiện quyền lực nhà nước.
Những gì pháp luật đã cho phép được làm, được hưởng thì khơng ai được hạn chế.
Tuy nhiên, khi cơng dân có quyền thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định
theo tinh thần nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ cơng dân.
6
Hồng phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 815.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp – NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.
648.
7
8
Hai là, theo Từ điển tiếng Việt, nghĩa vụ là “việc mà đạo đức bắt buộc phải
làm đối với xã hội, đối với người khác”8. Hay dưới góc độ khoa học pháp lý, nghĩa
vụ được hiểu là “việc phải làm theo bổn phận của mình”9. Ngồi ra, theo nhà ngơn
ngữ học Nguyễn Lân nghĩa vụ là “việc phải làm theo bổn phận của mình hoặc theo
sự phân cơng”10. Cả ba khái niệm có ưu điểm ở chỗ đưa ra cách giải thích vơ cùng
ngắn gọn, dễ hiểu về nghĩa vụ. Thế nhưng, chúng lại chưa làm rõ hết bản chất của
nghĩa vụ. Từ những cách giải thích đã nêu, chúng ta có thể hiểu nghĩa vụ là việc
phải làm theo trách nhiệm, bổn phận mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc. Dù chủ thể
muốn thực hiện hay không, nhưng khi xác định là nghĩa vụ thì họ phải tuân theo,
phải thực hiện, nếu không sẽ phải gánh chịu hậu quả bất lợi, sự trừng phạt bởi đạo
đức xã hội hay quy định pháp luật.
Ba là, xét ở góc độ quan hệ pháp luật tố tụng hành chính, quyền và nghĩa vụ
của đương sự là do Luật TTHC quy định công nhận cho đương sự được phép thực
hiện hoặc bắt buộc thực hiện trên cơ sở sự bảo đảm của pháp luật, tức là “quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính là những quy định cho phép đương
sự được hưởng, được thực hiện và bắt buộc phải thực hiện khi tham gia vào quan
hệ pháp luật tố tụng hành chính”11. Dựa trên khái niệm này, chúng ta có thể hiểu rõ
bản chất quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính nói chung, tránh
sự nhầm lẫn khi xác định các quyền và nghĩa vụ trên thực tế. Vì trong xã hội hiện
nay, mặc dù chế định về quyền và nghĩa vụ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng vẫn
có trường hợp xác định sai dẫn đến những hậu quả khó lường, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi chính đáng của con người. Khi xác định quyền hay nghĩa vụ,
cần căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành, sự giải thích có cơ sở được thừa nhận,
vào từng tình huống cụ thể chứ khơng phải là ý chí chủ quan của cá nhân.
Tiếp theo đó, về chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính
Đương sự u cầu Tịa án giải quyết vụ án phải cung cấp chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Khơng có chứng cứ để chứng
minh thì khó có căn cứ để kết luận về các tình tiết, sự kiện và quan điểm của đương
sự, Tịa án khơng đủ cơ sở để giải quyết vụ án. Chứng cứ, chứng minh luôn là vấn
đề trọng tâm mà Tòa án và các chủ thể ra sức tìm kiếm. Bất kì một vụ án nào được
đưa ra giải quyết đều phải dựa trên những lý lẽ, dẫn chứng có căn cứ chứ khơng
phải là quan điểm, ý kiến khơng có cơ sở. Pháp luật bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền lợi
con người cũng phải dựa trên chứng cứ, hoạt động chứng minh của họ.
Một là, chứng cứ được ví như “chiếc chìa khóa” tháo gỡ vướng mắc, làm
sáng tỏ vụ án, là cơ sở trong việc đưa ra phán quyết của Tòa án. Nếu trong q trình
thu thập chứng cứ có sai sót sẽ dẫn đến hậu quả nhất định, không chỉ ảnh hưởng đến
q trình giải quyết vụ án hành chính mà cịn tác động tiêu cực đến quyền và lợi ích
8
Hồng Phê (chủ biên)(2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.679.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp – NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.
560.
10
Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh,
tr.1258.
11
Đặng Xn Sơn (2014), Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Tố tụng hành chính, tr. 9.
9
9
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Do đó,
hiện nay các nhà nghiên cứu đã cố gắng đưa ra rất nhiều định nghĩa về chứng cứ.
Nhìn từ góc độ ngơn ngữ học, theo Đại từ điển tiếng Việt, “chứng cứ là cái được
dẫn ra để làm cơ sở để xác định, chứng minh điều gì đó là có thật”12. Chứng cứ
trong trường hợp này tương đối rộng, hầu như mọi sự vật, hiện tượng đều có thể
được xác định là chứng cứ chỉ cần được dẫn ra làm cơ sở để xác định, chứng minh
điều gì đó là có thật. Nhìn từ góc độ pháp luật thực định, Pháp lệnh về thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính chưa đưa ra một khái niệm nào về chứng cứ trong vụ án
hành chính, vì thế vấn đề xác định chứng cứ gặp nhiều khó khăn và hiệu quả giải
quyết vụ án hành chính khơng cao. Theo Từ điển Luật học, chỉ đưa ra khái niệm
chứng cứ trong vụ án hình sự mà khơng giải thích khái niệm chứng cứ trong pháp
luật tố tụng hành chính. Nhận thức được điều đó, Luật TTHC hiện hành đã có bước
tiến vượt bậc trong việc đưa ra khái niệm về chứng cứ, theo đó “chứng cứ trong vụ
án hành chính là những gì có thật được đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do luật
này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay khơng cũng như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hành chính”13. Như vậy, một sự vật, hiện
tượng được xác định là chứng cứ phải thỏa mãn các điều kiện theo nội dung được
quy định trên. Cụ thể là đảm bảo các điều kiện về tính khách quan, tính liên quan và
tính hợp pháp.
Hai là, bàn về chứng minh, có thể hiểu đó là một hoạt động của con người
mà theo Từ điển tiếng Việt thì chứng minh là “làm cho thấy rõ là có thật, là đúng
bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ hoặc dùng suy luận logic vạch rõ một điều gì đó là
đúng”14. Với cách giải thích này, chứng minh là việc sử dụng lý lẽ, tư duy logic để
làm rõ vấn đề nào đó hoặc khẳng định tính đúng đắn của nó. Tương tự, theo Đại từ
điển tiếng Việt chứng minh được hiểu là “làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng
lý lẽ, cứ liệu”15. Chứng minh được sử dụng trong hầu hết các ngành khoa học, là cơ
sở để đưa ra những kết luận, đánh giá về tính đúng đắn, xác thực của vấn đề. Hoạt
động chứng minh giúp các chủ thể áp dụng tốt pháp luật, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình. Mục đích cuối cùng là thể hiện rõ bản chất của sự vật, hiện tượng,
vấn đề. Chứng minh giúp con người đưa ra chân lý đúng đắn, khách quan, tạo niềm
tin, cơ sở để giải quyết tốt vấn đề.
Trong pháp luật tố tụng hành chính, chứng minh là hoạt động với mục đích
sử dụng chứng cứ để xác định rõ vấn đề, tình tiết, sự kiện, có hay khơng có vi phạm
pháp luật, đúng hay sai… Hoạt động này diễn ra theo một trình tự, thủ tục nhất định
thông qua việc cung cấp, kiểm tra, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Về
cơ bản, hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng hành chính tuân theo những
nội dung như trong pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hình sự bao gồm việc
cung cấp, thu thập, kiểm tra, nghiên cứu, phân tích và đánh giá chứng cứ. Các quy
12
Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, 1999, tr.415.
Điều 74, Luật tố tụng hành chính năm 2010.
14
Hồng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 212.
15
Nguyễn Như Ý (chủ biên)(2010), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh, tr.
316.
13
10
định về chứng minh được xây dựng theo nguyên tắc bình đẳng, tạo điều kiện thuận
lợi cho các bên chủ động hơn trong quá trình giải quyết vụ án. Thế nhưng, Luật
TTHC hiện tại vẫn chưa đưa ra khái niệm cụ thể về chứng minh mà theo quy định
tại Điều 8 nhấn mạnh “đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa
án và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Theo đó, việc
cung cấp chứng cứ, chứng minh vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự. Dựa
trên những cách hiểu đó, chúng ta có thể nhận định rằng “chứng minh trong vụ án
hành chính được hiểu là tồn bộ hoạt động của Tịa án và các chủ thể tham gia tố
tụng hành chính trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu, phân tích, đánh giá
chứng cứ để sử dụng chúng với mục đích xác định một cách đúng đắn, khách quan
bản chất, nội dung, các tình tiết, sự kiện của vụ án hành chính, đúng như chúng đã
phát sinh và tồn tại trên thực tế, tạo cơ sở cho việc áp dụng pháp luật để giải quyết
chính xác, có chất lượng và hiệu quả vụ án hành chính”16. Với quy định này đã lột
tả được nội dung, các vấn đề cần thực hiện trong hoạt động chứng minh, sự tham
gia, vai trò của từng chủ thể cũng như mục tiêu giải quyết vụ án chính xác, có chất
lượng và hiệu quả.
Qua việc tìm hiểu các khái niệm về quyền và nghĩa vụ của đương sự, chứng
cứ, chứng minh trong vụ án hành chính, chúng ta đã có thể hiểu rõ hơn khái niệm về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh. Tựu
trung lại, dựa trên những khái niệm đã phân tích, làm rõ, chúng ta có thể đưa ra khái
niệm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng
minh như sau: “quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính là những quy định pháp luật cho phép đương
sự được hưởng, được thực hiện và bắt buộc phải thực hiện khi tham gia vào việc
cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính”. Dựa trên khái niệm này,
có thể xác định được bản chất của quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung
cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính. Đó là những quy định của pháp
luật tố tụng hành chính cho phép đương sự được thực hiện hoặc bắt buộc phải thực
hiện khi tham gia vào quan hệ này trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh. Căn
cứ vào quy định pháp luật, các chủ thể sẽ biết được những gì được thực hiện, được
làm và những gì pháp luật bắt buộc phải tuân theo.
1.2.2. Đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong vụ án hành chính
Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh
trong vụ án hành chính có những đặc điểm đặc trưng giúp phân biệt với pháp luật tố
tụng khác, tạo điều kiện cho hoạt động tố tụng hành chính diễn ra thơng suốt, đúng
trình tự, thủ tục. Trên cơ sở khái niệm đã làm rõ, có thể nhận thấy quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính
có những đặc điểm sau:
16
Phan Thanh Hà (2012), Luận văn thạc sỹ Luật học trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Chứng
minh trong vụ án hành chính, tr.17.
11
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ,
chứng minh là những điều mà đương sự được thực hiện và bắt buộc thực hiện theo
quy định của pháp luật tố tụng hành chính
Trong pháp luật tố tụng hành chính hay pháp luật tố tụng dân sự, đương sự
khi tham gia vào vụ án đều có các quyền và nghĩa vụ nhất định trong việc cung cấp
chứng cứ, chứng minh. Đó là những điều pháp luật cho phép đương sự được làm,
được thực hiện hoặc bắt buộc phải thực hiện. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc
nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật là công cụ hữu hiệu trong việc
điều chỉnh quan hệ xã hội. Trong khuôn khổ pháp luật, các chủ thể được tự do lựa
chọn quyền và có nghĩa vụ chấp hành quy định đã được thừa nhận. Pháp luật là
công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, hoặc phải chịu hậu quả bất lợi nếu đi ngược với
những chuẩn mực đã được đặt ra. Trong quan hệ pháp luật tố tụng hành chính cũng
vậy, các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng
minh đã được ghi nhận, liệt kê cụ thể, chi tiết và đương sự thực hiện trong phạm vi,
giới hạn đó. Bất kì một chủ thể nào cố ý vượt quá giới hạn quyền và nghĩa vụ cho
phép hoặc tự tạo ra những quy định mới đều có thể nhận những chế tài của pháp
luật. Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên ý chí nhân dân mới có quyền
tạo ra những quy định và bắt buộc các chủ thể phải tuân thủ. Đây cũng là đặc điểm
thể hiện nguyên tắc đã được thừa nhận trong Hiến Pháp năm 2013. Khơng ai chỉ có
quyền mà khơng phải thực hiện nghĩa vụ và ngược lại, không ai chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ mà khơng có quyền. Các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung
cấp chứng cứ, chứng minh tạo ra sự linh hoạt, uyển chuyển giúp đương sự bảo vệ
tốt nhất quyền lợi của mình.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ này phát sinh khi tham gia vào quan hệ pháp luật
tố tụng hành chính
Với một nền pháp luật thành văn như Việt Nam, hầu hết các quy định của
pháp luật được thể hiện dưới dạng văn bản pháp luật, là khuôn mẫu chung để các
chủ thể nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện. Các quyền và nghĩa vụ của đương sự
được thừa nhận tương đối ổn định, lâu dài và phát sinh khi điều chỉnh một quan hệ
xã hội nhất định. Trong bất kì một văn bản quy phạm pháp luật nào cũng vậy, chúng
đều hướng tới một nhóm chủ thể nhất định mà pháp luật định ra dựa trên sự vận
động của xã hội. Căn cứ vào đó, pháp luật trao cho họ các quyền và nghĩa vụ. Thế
nhưng, các quyền và nghĩa vụ này có phát sinh trên thực tế hay khơng cịn phù
thuộc vào quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Do đó, những quy định của pháp luật,
trong đó có quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng
minh trong vụ án hành chính chỉ phát sinh khi đương sự tham gia vào một quan hệ
pháp luật tố tụng hành chính cụ thể. Khi đó, đương sự sẽ chịu sự điều chỉnh trực
tiếp của pháp luật trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt
quá trình giải quyết vụ án. Trên cơ sở quy định pháp luật, đương sự biết được các
quyền và nghĩa vụ, giúp quá trình giải quyết vụ án diễn ra đúng trình tự, thủ tục,
đảm bảo quyền lợi đương sự.
Thứ ba, quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh tồn tại song song với nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự trong vụ án hành chính
12
Như đã phân tích ở trên, mặc dù quyền và nghĩa vụ là hai chế định hoàn toàn
trái ngược nhau, nhưng chúng tồn tại song song nhau trong hầu hết các quan hệ
pháp luật. Bởi lẽ, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nếu đứng ở góc độ
này họ có thể có các quyền, nhưng ở góc độ khác họ phải thực hiện các nghĩa vụ
nhất định. Đó là ngun tắc khơng chỉ Việt Nam mà pháp luật hầu hết các nước trên
thế giới đều đã thừa nhận từ lâu đời. Do đó, khi pháp luật trao cho họ các quyền thì
cũng bắt họ phải có nghĩa vụ. Trong quan hệ pháp luật tố tụng hành chính cũng
khơng phải là một ngoại lệ, khi pháp luật trao cho đương sự các quyền thì cũng bắt
họ phải tuân thủ các nghĩa vụ trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh. Điều này
tạo lợi thế, cơ hội giúp việc thu thập chứng cứ, chứng minh toàn diện hơn nhằm làm
cho q trình giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan, hiệu quả. Đồng thời, đây
cũng là một đặc điểm quan trọng giúp phân biệt với quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự, bởi lẽ ở đó trách nhiệm chứng minh chỉ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm xác định sự thật vụ án, chứng minh người phạm tội. Nguyên nhân tạo ra sự
khác biệt này xuất phát từ tính chất, mức độ tác động của hành vi đến đời sống xã
hội. Tùy thuộc vào bản chất của ngành luật mà nó điều chỉnh sẽ có những quy định
phù hợp nhằm thực thi tốt nhất quyền con người trong xã hội.
Thứ tư, quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự
trong vụ án hành chính được đặt trong mối quan hệ với các cơ quan, người tiến
hành tố tụng trong quá trình tố tụng
Nếu như trong các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động… việc thực hiện nghĩa
vụ của chủ thể này được xem là quyền của chủ thể khác, thì ngược lại, trong quan
hệ pháp luật tố tụng hành chính, đương sự có các quyền và nghĩa vụ tương đối
giống nhau. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự này phần lớn không
dựa vào việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự khác. Chẳng hạn như trong
hoạt động thu thập chứng cứ, đương sự căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ để yêu cầu họ giao nộp mà không phải căn cứ
vào việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự khác. Đồng thời, việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự dựa trên trách
nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho phép, bắt buộc đương
sự phải thực hiện những công việc nhất định. Trong một số trường hợp, khi đương
sự có yêu cầu, cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tịa án có trách nhiệm giúp đỡ
để đương sự hồn thành cơng việc của mình. Ví dụ như trong trường hợp cần thiết,
đương sự có u cầu thì Tịa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, trưng cầu
giám định, triệu tập người làm chứng, định giá, thẩm định giá tài sản... Đây là
những quy định vừa thể hiện sự hỗ trợ, giúp đỡ vừa thể trách nhiệm của Tịa án góp
phần làm sáng tỏ vụ án.
Thứ năm, phạm vi quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của các
bên đương sự phần lớn phụ thuộc vào phạm vi yêu cầu hoặc phạm vi ý kiến phản
đối của họ
Đặc điểm này xuất phát từ quy định “đương sự có quyền và nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp”. Tùy thuộc vào yêu cầu hay ý kiến phản đối của đương sự mà cơ quan tiến
13
hành tố tụng xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh
của họ. Quy định này giúp cho việc xác định chứng cứ, chứng minh giới hạn ở một
phạm vi nhất định và chứng cứ được cung cấp để chứng minh là thật sự cần thiết
đảm bảo hoạt động giải quyết vụ án đạt hiệu quả. Chứng cứ được xác định phải liên
quan đến vụ án được giải quyết dựa trên yêu cầu khởi kiện ban đầu mà không phải
là sự tùy tiện trong việc thu thập chứng cứ và chứng minh.
Thứ sáu, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh thuộc về bên đương sự
nào muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu hoặc phản
đối yêu cầu; người khởi kiện phải có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu khởi kiện của
mình là có căn cứ và hợp pháp
Đây là đặc điểm đặc trưng xuất phát từ nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tòa án chỉ tiến hành xác minh trong những trường hợp cần thiết. Pháp luật giao cho
đương sự nghĩa vụ này xuất phát từ việc cho rằng lợi ích của họ khơng được đảm
bảo bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Trên cơ sở cho rằng quyền lợi bị xâm
phạm, họ có trách nhiệm đưa ra những cơ sở, lý lẽ chứng minh cho nhận định của
mình. Pháp luật trao cho họ quyền thì cũng bắt buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ để
đảm bảo quyền đó. Đặc điểm này cũng đã được thừa nhận trong pháp luật tố tụng
dân sự. Cơ chế thực thi quyền và đảm bảo tuân thủ nghĩa vụ tạo ra sự chủ động
trong việc thu thập, tìm kiếm chứng cứ để chứng minh và nâng cao ý thức trách
nhiệm của đương sự khi tiến hành khởi kiện vụ án hành chính cụ thể.
Đối với người khởi kiện, khi tiến hành khởi kiện, để đảm bảo cho u cầu
khởi kiện của mình là có căn cứ, hợp pháp thì họ cũng phải kèm theo đơn khởi kiện
các tài liệu, chứng cứ có liên quan để chứng minh cho u cầu đó. Người khởi kiện
có vai trị trung tâm, chủ đạo trong việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Ngay từ giai
đoạn khởi kiện, họ đã phải kèm theo đơn khởi kiện một số tài liệu, chứng cứ nhất
định nhằm bảo vệ quan điểm khởi kiện của mình. Tịa án căn cứ vào đó sẽ xác định
chấp nhận hoặc từ chối đơn khởi kiện. Quy định này đã phần nào hạn chế những
trường hợp người khởi kiện vì thiếu hiểu biết, tư duy chủ quan, ý thức trách nhiệm
kém mà tiến hành khởi kiện một cách vô tội vạ ảnh hưởng đến hoạt động của Tòa
án.
Thứ bảy, trong quá trình diễn ra hoạt động cung cấp chứng cứ, chứng minh,
trong những điều kiện nhất định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh có thể di
chuyển từ một bên đương sự này sang một bên đương sự khác và ngược lại
Đặc điểm này là sự thừa nhận của pháp luật về việc thay đổi phạm vi yêu cầu
ban đầu, trong trường hợp yêu cầu cung cấp chứng cứ, chứng minh. Tùy trường hợp
cụ thể, người khởi kiện có thể rút đơn yêu cầu khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên
yêu cầu độc lập của họ và được Tịa án chấp nhận thì trong trường hợp này người bị
kiện trở thành người khởi kiện và ngược lại người khởi kiện trở thành người bị kiện;
hoặc trong trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người bị kiện rút yêu cầu
của họ nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc
lập của họ thì trong trường hợp này người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu
14
cầu độc lập đó trở thành người khởi kiện… Khi đó, nghĩa vụ chứng minh sẽ chuyển
từ bên đương sự này sang bên đương sự khác dựa trên yêu cầu của họ. Hoặc trong
trường hợp đương sự giới hạn lại phạm vi yêu cầu ban đầu của họ, rút một phần
hoặc tồn bộ u cầu mà Tịa án xác định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh
của họ. Đương sự này hủy bỏ yêu cầu, nhưng đương sự khác lại bổ sung u cầu đó
thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh có thể di chuyển từ bên đương sự này
sang bên khác...
Đương sự với mục tiêu cuối cùng là bảo đảm quyền lợi của mình có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ chứng minh phù hợp với địa vị tố tụng hoặc theo yêu cầu
Tòa án. Quy định này cũng thừa nhận sự biến đổi linh hoạt trong hoạt động tố tụng
nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan
vụ án. Đương sự tuy khơng có khả năng tiếp nhận đồng thời nhiều địa vị tố tụng
khác nhau nhưng họ hồn tồn có thể bảo vệ quyền lợi tốt nhất thông qua quy định
về quyền và nghĩa vụ trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh.
Cuối cùng, đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tịa án và
chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ, hợp pháp, Tịa án chỉ tiến hành xác
minh, thu thập chứng cứ khi cần thiết
Quyền và nghĩa vụ là hai chế định trái ngược nhau nhưng luôn tồn tại song
song nhau tạo thành một chỉnh thế thống nhất. Đương sự khi đưa ra yêu cầu của
mình thì phải có cơ sở, lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu đó. Đặc điểm “đối tụng”
này là yếu tố nhằm bảo vệ quyền lợi cho đương sự, góp phần làm sáng tỏ vụ án.
Đặc biệt, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đương sự trong hoạt động thu thập
chứng cứ, hạn chế tâm lý “ỷ lại” vào cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Cụ thể, đương sự có u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh; đương sự phản đối yêu cầu đó thì
cũng phải đưa ra chứng cứ để chứng minh, nếu khơng đưa ra được thì phải chịu hậu
quả bất lợi. Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường
hợp cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự.
Đặc điểm này còn mang một ý nghĩa quan trọng đẩy nhanh quá trình giải
quyết vụ án, đảm bảo tính khách quan, minh bạch, đúng trình tự, thủ tục. Việc xác
minh, thu thập chứng cứ, chứng minh không chỉ là quyền và nghĩa vụ của đương sự
mà còn là trách nhiệm của Tòa án. Các chủ thể phối hợp nhịp nhàng với nhau giúp
cho việc thu thập chứng cứ để chứng minh đầy đủ, toàn diện hơn, làm cho q trình
giải quyết vụ án có căn cứ, hợp pháp, nâng cao chất lượng bản án, quyết định của
Tịa án. Tịa án khơng phải chỉ thực hiện hoạt động phán xét mà cịn có trách nhiệm
hỗ trợ, tạo điều kiện cho đương sự trong hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh.
Đối với những trường hợp đương sự đã thực hiện các biện pháp cần thiết những vẫn
khơng thu thập được chứng cứ và u cầu Tịa án thu thập hoặc khi Tòa án xét thấy
cần thiết thì Tịa án sẽ tiến hành hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ. Từ đó, hoạt
động thu thập chứng cứ để chứng minh đạt chất lượng cao hơn khi có sự tham gia
của cơ quan mang quyền lực nhà nước.
15
1.3. Những quy định pháp luật tố tụng hành chính về quyền và nghĩa vụ của
đƣơng sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để
chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Hoạt động cung cấp chứng cứ, chứng minh đóng vai trị nền tảng trong q
trình giải quyết vụ án hành chính. Quy định của Luật TTHC về hoạt động này thể
hiện được mục tiêu chung trong cơng cuộc hồn thiện hệ thống tư pháp, đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng và cơ hội trong việc thu thập chứng cứ, xác định sự thật vụ
án. So với Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, phạm vi điều chỉnh
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong
Luật TTHC đã được quy định khá đầy đủ, toàn diện và phù hợp với điều kiện hiện
tại, phản ánh tính đặc thù của tranh chấp hành chính.
Thứ nhất, quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp
tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã
chính thức được thừa nhận ngay từ những nguyên tắc chung nhất cho đến các quy
định cụ thể trong Luật TTHC, là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất
của công dân
Về nguyên tắc chung, theo quy định tại Điều 8 Luật TTHC “đương sự có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho u cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp”. Đây là nội dung thể hiện nguyên tắc mới “nguyên
tắc về cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính” được chính thức
thừa nhận vào trong Luật TTHC, mang tính định hướng, xác định vai trò của đương
sự trong hoạt động cung cấp chứng cứ, chứng minh. Nội dung nguyên tắc thể hiện,
khi đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải
đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, đương sự
phản đối yêu cầu của người khác thì cũng phải đưa ra chứng cứ, chứng minh. Và
đương nhiên, nếu đương sự không đưa ra được chứng cứ, hoặc việc đưa ra chứng cứ
không đầy đủ thì phải chịu hậu quả bất lợi. Nguyên tắc này cũng thừa nhận rằng,
cung cấp chứng cứ, chứng minh không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của đương
sự. Đây cũng là cơ sở để quy định chế tài trong trường hợp đương sự không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Cụ thể hóa ngun tắc này, tại Khoản 1 Điều 49 và Khoản 18 Điều 49 Luật
TTHC về quyền và nghĩa vụ của đương sự có quy định như sau:
Một là, theo quy định tại Khoản 1 Điều 49 Luật TTHC đương sự có quyền
“cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình”. Đây được đánh giá là một trong các quyền cơ bản nhất của công dân.
Bởi lẽ, khi tham gia vào vụ án hành chính cụ thể, cơng dân có quyền đưa ra những
lý lẽ, dẫn chứng có cơ sở để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình. Khơng bất kì ai có
quyền tước bỏ hoặc ngăn cản. Quy định này đã được ghi nhận cả trong pháp luật tố
tụng hành chính, pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật tố tụng hình sự. Thừa nhận là
quyền của đương sự sẽ đảm bảo cho đương sự chủ động hơn trong việc cung cấp
chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong trường hợp đương sự
có khả năng cung cấp nhiều chứng cứ có liên quan thì việc bảo vệ quyền lợi sẽ đảm
16
bảo hơn, hoạt động tố tụng tiến hành thuận lợi, chất lượng bản án được nâng cao.
Các đương sự khi tham gia vào vụ án đều có quyền đưa ra lập luận, chứng cứ và
được Tòa án xem xét, đánh giá, thúc đẩy tiến trình giải quyết vụ án hành chính.
Hai là, theo quy định tại Khoản 18 Điều 49 Luật TTHC đương sự cũng có
nghĩa vụ “cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ có liên quan theo yêu
cầu của Tòa án”. Quy định này xác định rõ trách nhiệm của đương sự, tránh tình
trạng cố tình khơng cung cấp hoặc tâm lý “ỷ lại” vào Tịa án, đảm bảo tính minh
bạch trong hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng. Ngoài ra, quy định này
cịn thể hiện sự bình đẳng giữa các đương sự với nhau. Bất kì đương sự nào khi
tham gia tố tụng đều được hưởng các quyền và phải thực hiện nghĩa vụ phù hợp với
tư cách tố tụng đó. Tịa án khơng có quyền tước bỏ quyền hoặc buộc họ phải thực
hiện thêm nghĩa vụ vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay bất kì một lý do nào khác trái
với quy định pháp luật.
Thứ hai, về phạm vi và thời hạn đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp tài
liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Xét về phạm vi, Luật TTHC cịn quy định cả một điều luật riêng về nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự trong vụ án hành chính. Cụ thể, theo
quy định tại Điều 72 Luật TTHC, đối với từng nhóm đương sự khác nhau thì có
nghĩa vụ khác nhau trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh. Nếu chủ thể là
người khởi kiện thì họ có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc
quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp các
chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối với người bị kiện
có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các
văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật
buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc canh
tranh hoặc có hành vi hành chính. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tùy
từng loại chủ thể khác nhau sẽ có phạm vi và loại chứng cứ cung cấp khác nhau.
Điều này phản ánh tính đặc thù trong quan hệ pháp luật tố tụng hành chính. Người
bị kiện là chủ thể mang quyền lực nhà nước, khả năng tiếp cận và nắm giữ tài liệu,
chứng cứ của họ khá cao. Trong khi đó, người khởi kiện, tuy là chủ thể trực tiếp
tiến hành hoạt động khởi kiện nhưng khả năng nắm giữ, thu thập tài liệu, chứng cứ
của họ hạn chế hơn. Chủ yếu là các loại tài liệu, chứng cứ liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của họ như bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại. Đặc biệt, đối với người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, pháp luật không ấn định cụ thể loại tài liệu họ có nghĩa vụ phải
cung cấp. Bởi lẽ, tùy vào từng quan hệ pháp luật tố tụng hành chính nhất định Tịa
án mới có thể căn cứ vào đó mà u cầu họ xuất trình các tài liệu, chứng cứ cần
thiết phục vụ quá trình giải quyết vụ án.
Ngồi ra, quy định này cũng góp phần tránh sự tùy tiện khi áp dụng pháp luật
và giảm áp lực cho Tịa án trong việc tìm kiếm, thu thập chứng cứ, chứng minh. Về
loại chứng cứ mà đương sự được phép giao nộp, theo Điều 72 Luật TTHC cũng đã
liệt kê một số tài liệu, chứng cứ mà đương sự phải cung cấp cho Tòa án. Các tài
17
liệu, chứng cứ này tồn tại trong nhiều nguồn khác nhau như các tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được, vật chứng, cung cấp lời khai và các nguồn khác mà pháp luật
có quy định. Có thể thấy phạm vi chứng cứ mà đương sự cung cấp ngày càng được
mở rộng và đa dạng. Đặc biệt, khi so sánh với Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính cho thấy Luật TTHC đã có sự tiến bộ vượt bậc ở chỗ bỏ đi quy
định bắt buộc trong mọi trường hợp người khởi kiện có nghĩa vụ phải giao nộp bản
sao các quyết định hành chính bị khởi kiện. Bởi lẽ, không phải lúc nào người khởi
kiện cũng có các bản sao đó như trường hợp khơng có tên trong quyết định hành
chính hay vì lí do khác mà khơng thể có được quyết định hành chính đó. Vì vậy,
việc quy định bắt buộc phải có bản sao trong trường hợp này là cứng nhắc, đánh
mất quyền được bảo vệ của người khởi kiện.
Xét về thời hạn, Luật TTHC cũng không giới hạn thời điểm và giai đoạn
đương sự được giao nộp chứng cứ cho Tòa án, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao
nộp chứng cứ cho Tòa án trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào. Đây là quy định góp
phần đảm bảo tính linh hoạt, sự bình đẳng giữa các đương sự, tạo điều kiện cho Tòa
án thu thập chứng cứ đầy đủ hơn. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, đương sự có quyền
cung cấp chứng cứ cho Tòa án và trong trường hợp cần thiết Tòa án yêu cầu đương
sự giao nộp chứng cứ. Hoặc theo quy định tại Điều 189 Luật TTHC, ở giai đoạn xét
xử phúc thẩm, đương sự cũng có quyền yêu cầu bổ sung chứng cứ mới cho Tòa án.
Tịa án có thể hỗn phiên tịa xét xử phúc thẩm để xác minh, thu thập chứng cứ mới
bổ sung. Quy định này đồng thời tạo ra sự khác biệt giữa pháp luật tố tụng hành
chính và pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định Bộ luật TTDS, “trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm, tài liệu bổ sung chỉ được xuất trình tại thời điểm nộp kèm theo
đơn kháng cáo”. Đây là cơ hội để đương sự xuất trình chứng cứ mà mình có, bảo
đảm nguồn chứng cứ được chính xác, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết vụ án và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của họ. Ngoài ra, quy định mở rộng thời
gian cung cấp, giao nộp chứng cứ này cũng đảm bảo cho các bên có quyền đưa ra
lập luận của mình tại phiên xét xử. Mỗi vụ án hành chính có thể sẽ có mức độ phức
tạp khác nhau về xuất trình tài liệu, chứng cứ. Do đó, việc mở rộng thời gian xuất
trình chứng cứ tạo cơ hội tối đa cho đương sự để bảo vệ quyền lợi của mình, bảo
đảm tính chính xác của nguồn chứng cứ.
Ngồi ra, theo quy định tại Điều 105 Luật TTHC, khi nộp đơn khởi kiện,
đương sự phải nộp kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đây là quy định mang tính chất kế
thừa quy định của Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Tài liệu
phải xuất trình bắt buộc trong trường hợp này là các quyết định hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có) và các tài liệu khác có liên
quan. Luật TTHC cịn ấn định rõ thời gian cụ thể đối với việc xuất trình tài liệu,
chứng cứ lần đầu và đưa ra chế tài cụ thể nếu khơng xuất trình hoặc xuất trình
khơng đầy đủ. Quy định này đặt ra yêu cầu đối với đương sự phải thật sự quan tâm,
cân nhắc đến các chứng cứ cũng như chứng minh cho yêu cầu của mình trong vụ
án.
18
Thứ ba, về thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa
án
Thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ được quy định tại
Điều 77 Luật TTHC, “trong q trình Tồ án giải quyết vụ án hành chính, đương
sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự khơng nộp
hoặc nộp khơng đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không
đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc đương sự giao nộp
chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong
biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản,
số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp,
chữ ký của người nhận và dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một
bản lưu vào hồ sơ vụ án hành chính và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ
giữ. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng
nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt được công chứng, chứng thực
hợp pháp”. Theo đó, việc giao nộp chứng cứ phải được Tịa án lập thành văn bản,
trong đó có những nội dung mang đặc điểm nhận dạng chứng cứ như tên gọi, hình
thức, nội dung và đặc điểm… Với cách quy định này góp phần giúp việc quản lý hồ
sơ vụ án được hiệu quả hơn, tránh thất thoát chứng cứ, và đặc biệt hạn chế sự lạm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm sai lệch hồ sơ vụ án, hủy hoại
chứng cứ… Tuy nhiên, Điều 88 Luật TTHC cũng ghi nhận trường hợp ngoại lệ, cho
phép đương sự hoặc người thứ ba bảo quản chứng cứ và chịu trách nhiệm về chứng
cứ trong trường hợp chứng cứ không thể giao nộp được. Đây là một quy định tiến
bộ, đảm bảo cho hoạt động cung cấp chứng cứ thật sự hiệu quả, linh hoạt khơng
mang tính rập khuôn, cứng nhắc.
Thứ tư, sự khác biệt trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh
của người đại diện theo ủy quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự so với đương sự trong vụ án hành chính
Đối với người đại diện theo ủy quyền, theo quy định tại Khoản 5 Điều 54
Luật TTHC “người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính thực hiện tồn
bộ các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền”. Với các quy định
này, pháp luật cho phép trong những trường hợp nhất định, người đại diện theo ủy
quyền có quyền thay mặt đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
Tịa án trong phạm vi ủy quyền của mình. Đương sự khơng phải chỉ đơn thuần là
chủ thể có quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ một cách trực tiếp mà cịn
có thể thơng qua chủ thể khác để thực hiện công việc này. Đây thực sự là một quy
định tiến bộ, đảm bảo cho hoạt động thu thập chứng cứ trở nên toàn diện, triệt để,
hạn chế sự cứng nhắc khi thi hành pháp luật trên thực tế. Tùy vào từng vụ án hành
chính, điều kiện, hồn cảnh cụ thể mà đương sự có thể tự mình hoặc ủy quyền cho
chủ thể khác thực hiện công việc này.
Đối với chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
phạm vi quyền này đã có sự mở rộng hơn. Cụ thể, theo quy định tại Điểm b Khoản
4 Điều 55 Luật TTHC “xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa
án”. Như vậy, khi tham gia vào vụ án hành chính, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự luôn được pháp luật trao cho quyền và nghĩa vụ cung cấp
19
chứng cứ. Mục tiêu mà pháp luật hướng đến trong trường hợp này là nhằm bảo vệ
tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, đồng thời thể hiện vai trò then
chốt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong cơng cuộc làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án. Vì đối với mơ hình tố tụng tranh tụng, vai trò của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự rất lớn, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết
quả tuyên án tại Tòa. Hơn nữa, so với đương sự, khả năng am hiểu và thực thi pháp
luật của chủ thể này khá cao, vì vậy cần mở rộng quyền năng của họ nhằm đảm bảo
tính khách quan của vụ án.
Cuối cùng, trách nhiệm pháp lý đối với đương sự và Tòa án trong trường
hợp cản trở hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khi cung cấp tài liệu, chứng cứ
Pháp luật trao cho đương sự và Tòa án các quyền và nghĩa vụ nhưng cũng
đồng thời đặt ra các chế tài để đảm bảo cho việc tuân thủ và thực hiện. Theo quy
định tại Điều 14 Luật TTHC “nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ”. Tùy theo mức độ vi phạm của các
chủ thể, đặc biệt là đương sự trong vụ án đó mà có thể bị xử lý vi phạm hành chính
hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự. Đặc biệt, đối với cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, pháp luật dành ra cả một quy định riêng tại Điều 15
Luật TTHC về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong trường hợp có hành vi vi phạm. Các chế tài đặt ra cũng được đa dạng hóa, cả
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây thiệt hại cho cá nhân, cơ
quan, tổ chức lẫn vấn đề xử lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định pháp luật. Với những chế tài này đã thật sự đảm bảo tính nghiêm minh, chặt
chẽ của pháp luật, thể hiện tính trung thực, khách quan trong q trình giải quyết vụ
án hành chính. Đặc biệt, nâng cao ý thức trách nhiệm của Tòa án, hạn chế những
tiêu cực không mong muốn.
1.3.2. Quyền được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do
đương sự khác cung cấp hoặc do Tịa án thu thập
Đương sự trong vụ án hành chính bao gồm người khởi kiện, người bị kiện và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mỗi chủ thể khi tham gia vào q trình giải
quyết vụ án có thể cung cấp các chứng cứ khác nhau và những chứng cứ đó ảnh
hưởng nhất định trong việc đưa phán quyết của Tịa án. Hơn nữa, chứng cứ cịn có
thể do Tịa án thu thập được. Do đó, để đảm bảo sự đánh giá chứng cứ một cách
trung thực, khách quan địi hỏi cần có sự tham gia của các đương sự trong việc biết,
đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp.
Trên cơ sở đó, đương sự sẽ xem xét, nghiên cứu và góp phần vào việc phân tích,
đánh giá chứng cứ.
Luật TTHC ghi nhận tại Khoản 2 Điều 49 đương sự có quyền “được biết,
đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp
hoặc do Tòa án thu thập”. Với quy định này, phạm vi quyền của đương sự đã thực
sự được mở rộng, không chỉ giới hạn ở quyền được biết, đọc mà cịn có thể ghi
chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do
Tòa án thu thập được.
20