Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.11 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
--------

NGƠ VĂN THỐNG

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
--------

NGƠ VĂN THỐNG

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THỊ HỒI PHƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN

Trước tiên tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh và các thầy, cô giáo đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi trong
quá trình học tập và tận tình truyền đạt những kiến thức quý báo, đặc biệt là
sự hướng dẫn nghiên cứu khoa học của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồi
Phương đã giúp tơi vượt qua khó khăn để hồn thành Luận văn. Cám ơn Tịa
án nhân dân thị xã Bình Minh, Tịa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã nhiệt tình
cung cấp các thơng tin, số liệu cần thiết để tôi thực hiện đề tài.
Tôi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa được ai công bố
trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.

Người viết

Ngơ Văn Thống


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
BLTTDS
HĐTPTANDTC
TANDTC

Bộ luật dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân tối cao


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân tối cao


MỤC LỤC
TRANG
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG THỦ
TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM DÂN SỰ .............................................. 7
1.1. Mục đích, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân
sự Việt Nam ......................................................................................................... 7
1.1.1. Mục đích của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.................................. 7
1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự .................................... 8
1.2. Đặc trưng quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm dân sự .................................................................................................... 9
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước ngày 01/01/2005 về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm...................14
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1981 ......................................................... 15
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989 ......................................................... 18
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến ngày 01/01/2005 ............................................... 19
1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tố tụng của đương
sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm .......................................................... 20
1.4.1. Quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật .......................... 20
1.4.2. Quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình ....................................................................................................... 25

1.4.3. Quyền nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ....................... 26
1.4.4. Quyền tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi Tòa án xét thấy cần
thiết triệu tập ......................................................................................................... 27
1.4.5. Quyền nhận quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm .......................................... 28
1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nghĩa vụ tố tụng của
đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm............................................... 29


1.5.1. Nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật ......................................................................................................... 29
1.5.2. Nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ ........................................................... 30
1.5.3. Nghĩa vụ tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi Tòa án xét thấy cần
thiết triệu tập ......................................................................................................... 30
1.5.4. Nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết
định của Tịa án ..................................................................................................... 31
1.5.5. Nghĩa vụ tơn trọng Tịa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa giám
đốc thẩm, tái thẩm ................................................................................................. 31
Kết luận Chương 1 .............................................................................................. 34
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TỐ TỤNG CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM DÂN SỰ
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ................................. 35
2.1. Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự tại Tòa án ..................... 35
2.2. Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự ............ 43
2.2.1. Về quyền gởi đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ...................................... 43
2.2.2. Về quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ ........................................ 48
2.2.3. Về quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm .............. 53
2.2.4. Về nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án....................................... 63
2.2.5. Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng ........................................................... 64

2.2.6. Về cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự ............................................................................................ 66
2.2.7. Về việc thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng lệ phí ............................................. 67
Kết luận Chương 2 .............................................................................................. 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với việc phát triển kinh tế xã hội, cơng
cuộc cải cách tư pháp nói chung và việc xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật
nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện do Đảng lãnh đạo và khởi xướng, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều đạo luật quan trọng, đánh dấu sự phát triển vượt bậc q trình pháp điển
hóa, hệ thống hố pháp luật dân sự, bước đầu tạo dựng cơ sở pháp lý cho việc đổi
mới đất nước toàn diện. Cùng với việc hoàn thiện các đạo luật về nội dung, Nhà
nước ta cũng ban hành nhiều văn bản quy định về thủ tục tố tụng để giải quyết
những tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội như Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996. Các văn bản
pháp luật này đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh, góp phần ổn định các quan hệ xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, những văn bản này ngày càng bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế, bất cập.
Trước tình hình đó, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự vào
năm 2004, tạo nền tảng pháp lý cho các hoạt động tư pháp dân sự, thể hiện được sự
thống nhất về mặt pháp lý của các hình thức tố tụng gồm tố tụng kinh tế, tố tụng lao
động và tố tụng dân sự, thay thế những pháp lệnh khơng cịn phù hợp. Bộ luật cũng

thể hiện rõ tinh thần về cải cách tư pháp được ghi nhận trong các văn kiện Đảng mà
gần đây nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, xây dựng
được một trình tự tố tụng công khai, công bằng, kế thừa các quan điểm hiện hành
các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự đồng thời quy định rõ ràng, nhất quán các
nguyên tắc, thủ tục, chức năng và thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng...
Cùng với sự phát triển của đất nước thì số lượng các vụ án dân sự ngày
càng tăng, đặc biệt là những vụ án phức tạp liên quan đến quyền sử dụng đất. Từ
đó, cơng tác giải quyết các vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án đơi khi
cũng có những vi phạm pháp luật hoặc sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì mới phát sinh tình tiết mới làm thay đổi nội dung của vụ án, cần thiết


2
phải được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự. Trong các thủ
tục đặc biệt này, đương sự cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương
sự đóng vai trị quan trọng. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc;
quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là sau khi có
quy định mới về thẩm quyền kháng nghị và thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm theo Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014. Việc hồn thiện pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự có ý
nghĩa rất quan trọng, xét dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn bởi nó khơng chỉ góp
phần xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói chung, những nguyên
tắc tổ chức, hoạt động xét xử của Toà án và một hệ thống pháp luật tố tụng dân sự
hồn chỉnh nói riêng mà cịn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân.
Với lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự” làm Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự, về thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thực trạng đã được thảo luận nhiều trên các bài
báo, tạp chí và các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề này
như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Cao Kim Oanh bảo vệ tại Khoa
Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011 với đề tài “Quyền và nghĩa vụ của đương
sự theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004”. Tại cơng trình này, tác giả
Cao Kim Oanh chỉ nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của đương sự nói chung trong tất
cả các thủ tục tố tụng dân sự, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà không
đi sâu nghiên cứu cụ thể đặc biệt là không nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc
và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự mà chỉ kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự nói chung.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Hoàng Hiệp bảo vệ tại Khoa
Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007 với đề tài “Hoàn thiện thủ tục giám đốc


3
thẩm trong tố tụng dân sự”. Tại cơng trình này, tác giả Hà Hoàng Hiệp chỉ nghiên
cứu những quy định của pháp luật cũng như những hạn chế, vướng mắc và kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm tại Tịa án mà khơng nghiên cứu
về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
- Luận văn Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Triều Dương bảo vệ tại Đại
học Luật Hà Nội năm 2011 với đề tài “Đương sự trong tố tụng dân sự - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”. Tại cơng trình này, tác giả Nguyễn Triều Dương cũng chỉ
nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đương sự và thực tiễn thực
hiện các quy định này ở Tòa án để tìm ra phương hướng và giải pháp hồn thiện các
quy định pháp luật tố tụng dân sự về đương sự mà không đi sâu nghiên cứu về

quyền và nghĩa vụ của đương sự khi tham gia tố tụng nói chung và trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự nói riêng.
- Nguyễn Thị Hồi Phương chủ biên (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo
trình có kết cấu gồm 10 chương, trong đó nội dung tại chương IX thủ tục xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tác giả đã đề cập một số nội dung có liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
dân sự.
- Tháng 3 năm 2015, Tịa án nhân dân tối cao có tổ chức tọa đàm về hoàn
thiện pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam, tại buổi tọa đàm cũng có nhiều bài
thuyết trình, báo cáo của các học giả nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam. Tuy nhiên, cũng khơng có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu nhằm hoàn thiện
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung từ năm 2011, có nhiều quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm dân sự được sửa đổi, bổ sung mà những cơng trình nghiên cứu nêu trên
chưa có điều kiện cập nhập hoặc đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, các cơng trình
nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả có thể hồn
thành tốt phần nghiên cứu của mình.


4
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, những quy định pháp lý và tình hình giải quyết giám đốc
thẩm, tái thẩm của Tòa án cũng như thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự, chúng tôi phân tích thực trạng để thấy
được những mặt tích cực, hạn chế và bất cập của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự hiện nay. Từ đó đề ra

những giải pháp thích hợp nhằm hồn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
Đề tài cần giải quyết những vấn đề như sau:
- Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận và pháp lý về quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
- Tìm hiểu thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự hiện nay, đánh giá mặt tích cực, tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân.
- Đề ra phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chú trọng nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành,
không nhằm so sánh, nghiên cứu pháp luật các nước. Trong pháp luật Việt Nam
hiện hành, đề tài tập trung nghiên cứu những quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu chủ yếu dựa trên tình hình giải quyết giám đốc
thẩm, tái thẩm và thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, để đánh giá đúng thực trạng
của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm dân sự thì chúng tơi có dẫn chứng một số vụ án được giải quyết theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm tại các Tòa án của tỉnh, thành khác và của Tòa án nhân dân
tối cao.


5
4. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận
của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta trong chiến lược về cải cách tư pháp

trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Cụ thể trong từng chương, các phương pháp nghiên
cứu được vận dụng như sau:
Chương 1, áp dụng phương pháp phân tích được sử dụng trong việc phân
tích mục đích, ý nghĩa, đặc trưng quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự; lịch sử quy định về quyền và nghĩa vụ của đương
sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự.
Chương 2, ngồi phương pháp phân tích, tác giả còn vận dụng phương pháp
so sánh, thống kê và phương pháp tổng hợp. Bằng phương pháp phân tích, tác giả
phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của đương
sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự, thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm. Trên cơ sở thực tiễn, tác giả đi vào phân tích những bất cập, tồn tại, vướng
mắc trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự. Trên cơ sở kết quả phân tích những bất cập, vướng mắc, tác
giả đề ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị của việc nghiên cứu
Luận văn không những giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lý luận và những quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm dân sự mà còn là bức tranh tổng thể về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự. Kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ là những tài liệu tham khảo cho những người tiến hành tố tụng nói
chung và các Tịa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng. Luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những đọc giả có quan tâm, sinh viên
các trường Đại học Luật hay các học viên các trường bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát,


6

tịa án, tư pháp, cũng như người dân có tài liệu tham khảo nhằm đảm bảo bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
6. Bố cục luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài kết cấu thành 2 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


7

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM DÂN SỰ
1.1. Mục đích, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng
dân sự Việt Nam
Pháp luật luôn được coi là công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước để quản lý
xã hội. Việc thực hiện pháp luật làm sao cho đúng, không những là để nâng cao chất
lượng quản lý xã hội mà hơn thế nó cịn giúp nâng cao uy tín, quyền uy của Nhà
nước. Tịa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện một trong những quyền lực của Nhà nước là quyền Tư pháp1 và để thực hiện
quyền Tư pháp này, Tòa án xét xử các vụ án trong đó có các vụ án dân sự, hơn nhân
và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại (gọi chung là vụ án dân sự) bằng việc
ra các bản án, quyết định. Những bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự đã có
hiệu lực pháp luật của Tịa án vì những ngun nhân khác nhau vẫn có thể có những
sai lầm hoặc khơng có căn cứ pháp luật. Khi phát hiện những vi phạm pháp luật
hoặc sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự thì các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án sẽ được xem xét lại theo thủ tục giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm.
1.1.1. Mục đích của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) thì giám đốc thẩm là
xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị
vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án2.
Khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải được đưa ra thi
hành theo đúng quy định về thi hành án. Tuy nhiên, không phải tất cả các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều đúng. Do vậy, mục đích của thủ tục giám
đốc thẩm là đảm bảo cho việc xét xử được chính xác đồng thời sửa chữa những sai
lầm, khắc phục những vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới đã tuyên bản án,
quyết định đó. Thực tiễn áp dụng pháp luật đã chứng minh rằng nếu pháp luật tố
tụng dân sự khơng quy định thủ tục này thì hàng năm sẽ có rất nhiều bản án, quyết
1
2

Điều 102 Hiến pháp năm 2013
Điều 282 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)


8
định đã có hiệu lực pháp luật được cơ quan thi hành án đem ra thi hành mà khơng
có cơ sở pháp lý để sửa sai, điều này đồng nghĩa với việc quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự không được pháp luật bảo vệ và pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng
bị vi phạm, mặt khác nguyên tắc thống nhất trong xét xử của ngành Tòa án nhân
dân cũng khơng có cơ sở để đảm bảo thực hiện3.
Giống như giám đốc thẩm cùng là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng căn cứ để làm phát sinh thủ tục tái thẩm là khác nhau.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tái thẩm là xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát
hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tịa án, các

đương sự khơng biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó4.
Tái thẩm là thủ tục pháp lý xem xét lại tính có căn cứ của các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án mà bị kháng nghị. Để ngăn ngừa những sai
lầm có thể xảy ra và khắc phục, sửa chữa những sai lầm đó thì pháp luật tố tụng dân
sự đã quy định thủ tục tái thẩm khi những bản án, quyết định có hiệu luật pháp luật
nhưng phát hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung cơ bản của vụ án. Quy định này
giúp cho Tịa án có thể nhìn nhận sai sót của mình đồng thời mang lại cơ hội được
đối xử công bằng đối với những người bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp.
1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự
Quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm là cơ chế đảm bảo nâng cao trách
nhiệm của Nhà nước đối với công dân, đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm
minh, công bằng, bảo vệ triệt để các quyền cơ bản của cơng dân. Chế định giám đốc
thẩm, tái thẩm cịn góp phần bảo đảm hiệu quả hoạt động và tính độc lập của các cơ
quan tư pháp, qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân…Đây là những nhân tố cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
Dấu hiệu nổi bật của Nhà nước pháp quyền đó là tính hợp hiến của các thể
chế, tổ chức, chính sách và tồn bộ hệ thống pháp luật. Giám đốc thẩm, tái thẩm có
nhiệm vụ xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, vơ hiệu hóa các
bản án, quyết định khi vụ án có thêm những tình tiết mới để đảm bảo việc xét xử
3

Mai Ngọc Dương (2005), “Bàn thêm về Giám đốc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí
Nhà nước vào pháp luật (6), trang 48
4
Điều 304 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004


9
đúng quy định của pháp luật. Với mục đích đó, giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần

đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính ổn định,
thống nhất của pháp luật cũng như đảm bảo tính ổn định, thống nhất của Nhà nước.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần làm cho pháp luật được thực thi
một cách nghiêm minh, đảm bảo quyền công bằng cho người dân trước pháp luật.
Đảm bảo cho pháp luật ngày càng đóng vai trị tối thượng trong đời sống Nhà nước
cũng như đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, phương châm của Đảng và Nhà nước ta trong giải quyết các
vụ án dân sự là phải đảm bảo chính xác, đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
trong thực tiễn xét xử cho thấy vì những lý do khác nhau nên vẫn cịn có nhiều
trường hợp sai sót, không đúng quy định của pháp luật. Và nếu những sai sót đó
khơng được sửa chữa kịp thời, những bản án sai trái khơng được sửa thì pháp luật sẽ
khơng thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ của mình khi khơng bảo vệ được lợi ích của
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Từ đó khiến cho niềm tin của người
dân vào pháp luật, vào Nhà nước sẽ bị mất dần. Vì lẽ đó mà thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm đã góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội, củng cố lịng tin của người dân vào
hoạt động của Tịa án, góp phần nâng cao uy tín của cả hệ thống pháp luật và của
Nhà nước.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cịn có ý nghĩa pháp lý đặc biệt trong tố
tụng dân sự. Thông qua giám đốc thẩm, tái thẩm thì hiệu lực bắt buộc của các bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có thể được hủy bỏ, qua đó khơi phục
lại sự thật của vụ án.
Vì vậy mà giám đốc thẩm, tái thẩm là cơ sở pháp lý để khẳng định tính
đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hoặc là cơ sở để hủy bỏ
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án
hoặc khơi phục lại trình tự tố tụng đối với vụ án nhằm xác định chính xác sự thật
khách quan của vụ án, giúp vụ án được giải quyết một cách đúng đắn, công bằng
nhất.
1.2. Đặc trưng quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự
Quyền và nghĩa vụ là hai khái niệm ln song hành trong các quan hệ pháp

luật nói chung và quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. Quyền và nghĩa vụ


10
pháp lý luôn thống nhất và phù hợp với nhau, quyền của chủ thể bên này là nghĩa
vụ của chủ thể bên kia và ngược lại. Quyền của đương sự là cách xử sự mà luật tố
tụng dân sự cho phép đương sự được tiến hành. Nghĩa vụ là cách xử sự bắt buộc mà
đương sự phải tiến hành.
Quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự bao gồm một hệ thống các
quyền, nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Mỗi đương sự tham
gia tố tụng dân sự được pháp luật quy định có các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Quyền, nghĩa vụ của đương sự được xác lập
bởi vị trí tố tụng của đương sự. Khi vị trí tố tụng khác nhau, đương sự cũng có các
quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau.
Tại các Điều 58, 59, 60, 61 của Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung
năm 2011) quy định về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự đồng thời quy định
về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan. Tùy vào từng thủ tục tố tụng mà các đương sự tham gia với những vai trò
khác nhau và có các quyền và nghĩa vụ đặc trưng. Trong thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm thì các đương sự tham gia với vai trò là người đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm và người liên quan đến việc kháng nghị. So với các thủ tục tố tụng
khác, quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
dân sự có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, khác với quyền kháng cáo của đương sự trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm, quyền đề nghị của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa
phải là căn cứ để phát sinh thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khi đương sự không đồng ý với bản án, quyết định sơ thẩm thì có quyền
làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét. Đơn kháng cáo hợp lệ và
đương sự nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là xem như phát sinh giai đoạn xét xử
phúc thẩm. Trong khi đó, khi khơng đồng ý với bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật vì cho rằng bản án, quyết định này có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới
làm thay đổi nội dung vụ án thì đương sự làm đơn đề nghị gửi đến người có thẩm
quyền kháng nghị, chỉ khi người có thẩm quyền kháng nghị ra Quyết định kháng
nghị thì mới phát sinh thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, đương sự thực
hiện quyền đề nghị của mình chỉ là một kênh thơng tin để những người có thẩm


11
quyền kháng nghị xem xét có căn cứ để ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm hay không.
Bên cạnh đó, khi thực hiện quyền kháng cáo thì đương sự phải có nghĩa vụ
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Trong khi đó, khi thực hiện quyền đề nghị đến
người có thẩm quyền kháng nghị thì đương sự không phải nộp bất kỳ một khoản
tiền tạm ứng nào.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm phần lớn được thực hiện một cách thụ động, tức là đương sự đôi khi khơng thể
tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ đó mà phải được sự cho phép của Tịa án có
thẩm quyền giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm.
Vì giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt để xét lại các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên khi giải quyết theo thủ tục này, Tịa án có
thẩm quyền giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ căn cứ vào quyết định kháng
nghị và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét mà không nhất thiết
phải yêu cầu đương sự cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ và khơng cần thiết phải có
sự có mặt của đương sự. Trong khi đó, quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng
cứ; quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm của đương sự được
xem là bắt buộc.
Về quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ: Khi đương sự nhận được
thông báo thụ lý vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, thông báo thụ lý phúc thẩm vụ án thì có
quyền gửi tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Cịn trong thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì người đề nghị mới gửi kèm theo đơn đề nghị những

tài liệu, chứng cứ cần thiết để cho rằng bản án, quyết định có vi phạm pháp luật
hoặc có tình tiết mới còn những người liên quan đến việc kháng nghị sau khi nhận
được Quyết định kháng nghị thì khơng nhất thiết phải gửi tài liệu, chứng cứ đến Tịa
án có thẩm quyền giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa: Một người đã được tham gia tố
tụng với tư cách đương sự thì pháp luật bắt buộc Tòa án phải triệu tập họ tham gia
phiên tòa sơ thẩm. Còn tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo và người có liên
quan đến việc kháng cáo pháp luật cũng buộc Tòa án phải triệu tập họ tham gia
phiên tịa phúc thẩm. Trong khi đó, pháp luật chỉ quy định đương sự tham gia phiên
tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi Tòa án thấy cần thiết triệu tập. Từ đó cho thấy,


12
quyền được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự có phần hạn
chế hơn so với giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm rất hạn chế so với quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm,
phiên tòa phúc thẩm.
Trong khi tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm đương sự được pháp
luật ghi nhận rất nhiều quyền chẳng hạn như được đưa ra tài liệu, chứng cứ; được
yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, được đề xuất những vấn đề Hội đồng xét
xử cần phải hỏi, được tranh luận…thì tại phiên tịa giám đốc thẩm, tái thẩm đương
sự chỉ được trình bày ý kiến của mình về Quyết định kháng nghị. Đặc trưng này
cũng xuất phát từ tính chất đặc biệt của giám đốc thẩm, tái thẩm là căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết xem xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, về thời hạn để thực hiện quyền gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm
được kéo dài một năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật5 (thời hạn để người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là ba
năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật6). Cịn thời hạn

để thực hiện quyền gởi đơn đề nghị tái thẩm của đương sự thì pháp luật khơng quy
định7 mà chỉ quy định thời hạn để người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để
kháng nghị tái thẩm8. So với quyền kháng cáo đương sự được thực hiện trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày nhận được bản án, bản án được
niêm yết (đối với quyết định thì trong thời hạn 07 ngày) thì quyền đề nghị giám đốc
thẩm được kéo dài hơn còn quyền đề nghị tái thẩm thì pháp luật khơng quy định
thời hạn để gửi đơn mà chỉ quy định về thời hạn để kháng nghị. Lý do là thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm là những thủ tục đặc biệt để xét lại những bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật, để phát hiện và khắc phục, sửa chữa những sai lầm nhằm
đảm bảo quyền lợi của các đương sự thì cần phải có một thời gian dài để phát hiện
ra những vi phạm, sai lầm đó.

5

Khoản 1 Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
Khoản 1 Điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
7
Điều 306 Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
8
Điều 306 Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
6


13
Thứ năm, trong khi thực hiện quyền yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm thì các đương sự vẫn phải có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật.
Khác với giai đoạn xét xử phúc thẩm, khi các đương sự thực hiện quyền của
mình thì bản án, quyết định sơ thẩm vẫn chưa có hiệu lực pháp luật mà phải chờ

Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét thì ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật. Trong khi thực hiện quyền
đề nghị đến người có thẩm quyền kháng nghị thì đương sự vẫn phải có nghĩa vụ
chấp hành theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tịa án cấp dưới. Đặc trưng này
xuất phát từ nguyên tắc bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được mọi
người chấp hành, đồng thời cũng xuất phát từ tính chất của giám đốc thẩm, tái thẩm
là khi tiến hành thủ tục này các bản án, quyết định bị kháng nghị là phát sinh hiệu
lực pháp luật.
Thứ sáu, kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm.
Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng dân sự thì khi đương sự là cá
nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế
thì người thừa kế tham gia tố tụng. Việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng cũng
được áp dụng đối với đương sự là cơ quan, tổ chức.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, khi đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan,
tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó thì Tịa án ra Quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự9. Trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn là
cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã
bị giải thể hoặc bị tun bố phá sản mà khơng có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó thì Tịa án ra Quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự10. Tương tự, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án
cũng ra các Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án với lý do chưa có hoặc khơng có người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của đương sự11.
9

Khoản 1 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
Điểm a, b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
11

Điều 259, điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
10


14
Khác với các thủ tục xét xử nêu trên, trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
không quy định trường hợp đương sự là cá nhân chết, đương sự là cơ quan, tổ chức
sáp nhập, chia, tách, giải thể phải có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng tham
gia và cũng khơng quy định trường hợp chưa có hoặc khơng có người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng thì phải xử lý như thế nào. Lý do là vai trò của đương sự
khi tham gia trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm không phải giữ vị trí chủ đạo, để
phát sinh thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là quyết định kháng nghị của người có
thẩm quyền kháng nghị. Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cũng chỉ căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào quyết định kháng nghị để xét
xử. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành không quy định trường hợp đương sự
là cá nhân chết, đương sự là cơ quan, tổ chức sáp nhập, chia, tách, giải thể phải có
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng tham gia phiên tịa giám đốc thẩm, tái
thẩm và khi chưa có và khơng có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đương sự thì phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ bảy, cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, quyền và nghĩa vụ của
các đương sự được đảm bảo bằng một cơ chế chặt chẽ. Ví dụ đối với việc cung cấp
tài liệu, chứng cứ thì pháp luật quy định khi thụ lý vụ án, Tịa án ra thơng báo thụ lý
vụ án phải nêu rõ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo các
đương sự phải có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu của nguyên đơn hoặc gửi tài
liệu, chứng cứ. Trong phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm nếu đương sự vắng mặt lần
thứ nhất thì bắt buộc Tịa án phải hỗn phiên tịa. Trong khi đó, trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm không quy định cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự
một cách cụ thể. Trường hợp Tòa án xét thấy cần thiết triệu tập đương sự tham gia

phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu đương sự vắng mặt thì pháp luật khơng quy
định phải hỗn phiên tịa hay vẫn tiếp tục xét xử.
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước ngày
01/01/2005 về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm
Pháp luật nói chung cũng như pháp luật tố tụng nói riêng do Nhà nước ban
hành nhưng nó khơng chỉ là kết quả đơn thuần của tư duy chủ quan, việc ban hành


15
pháp luật còn phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của xã hội và từ chính thực tiễn
cơng tác xét xử của ngành Tòa án. Hoạt động xét xử của Tòa án là một thiết chế
phức tạp đòi hỏi phải có những quy định của pháp luật có tính chất đồng bộ và phải
có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên để đảm bảo tính thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật. Sự hình thành của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cũng như những
quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
gắn liền với lịch sử tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ. Với đặc thù lịch sử
của nước ta, có thể nghiên cứu sự hình thành và phát triển của quy định về quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm qua các giai đoạn sau
đây.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1981
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã ban hành Hiến pháp 1946, tạo cơ sở pháp lý cho quyền công dân, cho việc tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, trong đó có ngành Tịa án. Tuy nhiên, bản
Hiến pháp này chỉ mới quy định về nguyên tắc tổ chức và xét xử của Tòa án bởi
trong giai đoạn này, khi hệ thống pháp luật của nước ta còn chịu nhiều ảnh hưởng
của pháp luật chế độ cũ nên không thể ngay lập tức thay đổi được ý thức pháp luật
của nhân dân. Vì vậy, ngày 10/10/1945 Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL
cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ đến khi ban hành những bộ luật
pháp duy nhất cho toàn quốc (trừ khi các luật lệ này chống lại Nhà nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa). Mặc dù tạm thời giữ lại những luật lệ cũ, tuy nhiên Sắc lệnh này
không đề cập đến việc cho phép áp dụng pháp luật tố tụng, điều này thể hiện rõ nét
tư tưởng xây dựng pháp luật tố tụng một cách độc lập của Nhà nước ta.
Các văn bản pháp quy về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp, Tịa án
được ban hành sau đó như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án
và ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/7/2946 quy định thẩm quyền của
các Tòa án và sự phân cơng giữa các nhân viên trong Tịa án, Sắc lệnh số 112/SL
ngày 28/6/1946 bổ sung Sắc lệnh số 51/SL, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về
cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc lệnh số 159/SL ngày 07/11/1950 quy
định vấn đề ly hôn…Đây là một số văn bản đầu tiên của Nhà nước ta, làm nền tảng
cho việc xây dựng pháp luật về tố tụng nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói
riêng sau này.


16
Trong các văn bản trên, có nhiều quy phạm xác định cách thức tổ chức Tòa
án, thẩm quyền của Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa Thượng thẩm, thủ tục xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, thi hành án…Tuy nhiên, các văn bản thời đó đều khơng có
quy định nào về thủ tục và thẩm quyền xét lại bản án và quyết định dân sự có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật trong việc xét xử vụ án.
Sau năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng, Nhà nước đã ban hành một
số văn bản chấm dứt việc áp dụng luật lệ cũ ban hành trước năm 1945 như Thông tư
19/VHH ngày 30/6/1955, Thông tư số 2140/TT-VHH/HS ngày 06/12/1955 của Bộ
Tư pháp. Tiếp đó, hệ thống cơ quan tư pháp từ Trung ương đến địa phương dần dần
được củng cố, từng bước hồn thiện, trình độ quản lý Nhà nước, ý thức pháp luật
được nâng cao. Tòa án các cấp bắt đầu từng bước thực hiện hoạt động xét xử. Từ
thực tiễn xét xử bắt đầu phát sinh những bản án, quyết định sai lầm của Tòa án,
nhân dân khiếu nại nhiều mà Nhà nước chưa có quy định nào để xử lý. Trước tình
hình đó, Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp nghiên cứu và ra Thông tư số 312 ngày
12/02/1958 yêu cầu các cấp Tòa án phải xem xét giải quyết các khiếu nại, đồng thời

có kế hoạch khắc phục sai lầm đối với những bản án đã xét xử, Thông tư quy định:
“Đối với việc đã xử rồi…nếu thấy sai hoặc đúng khơng rõ ràng thì tùy từng trường
hợp có kế hoạch giải quyết thích đáng (báo cáo cấp trên đề nghị kháng cáo hay xin
xử lại hoặc đặt vấn đề điều tra, xác minh lại)”.
Đến năm 1959, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản nhằm
tăng cường hoạt động của Tòa án nhân dân như: Nghị định số 381-TTg ngày
20/10/1959 của Thủ tướng Chính phủ quy định nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án
nhân dân tối cao, theo đó: “Tịa án nhân dân tối cao có quyền xử lại những vụ án
đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm”.
Đến cuối năm 1959, Hiến pháp 1959 đã có quy định về thẩm quyền của Tòa
án nhân dân tối cao, Điều 103 quy định như sau: “Tòa án nhân dân tối cao là cơ
quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân tối
cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương, Tịa án qn sự và
Tịa án đặc biệt”.
Nhìn chung, giai đoạn trước năm 1960 các văn bản quy định về thủ tục tố
tụng cịn rất ít. Từ năm 1959, sau khi ban hành Hiến pháp và Luật hôn nhân và gia


17
đình, Nhà nước đã ban hành các Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960 và Pháp lệnh quy định về tổ chức của hai cơ quan này.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 đã quy định cụ thể hơn về việc xét
lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, theo đó Tịa án nhân dân tối
cao - Cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam sẽ có thẩm quyền xét lại hoặc
giao cho Tòa án nhân dân cấp dưới xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu
lực pháp luật những phát hiện có sai lầm (Điều 21).
Đến năm 1961, Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân
tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương đã quy định:
Ủy ban thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ: “Xét và báo cáo
lên Tòa án nhân dân tối cao những vụ án do Tịa án mình hoặc Tịa án cấp dưới đã

xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện có sai
lầm”.
Tương tự, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung
ương hoặc đơn vị hành chính tương đương và Chánh án Tòa án nhân dân thành phố
thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ: “Xét và
báo cáo lên Tịa án nhân dân cấp trên hoặc đơn vị hành chính tương đương những
vụ án do Tịa án mình đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
nhưng phát hiện thấy có sai lầm”.
Căn cứ vào việc xét và báo cáo của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao, các Chánh án Tòa án nhân dân theo quy định này, các Tịa án sẽ có thẩm quyền
xử lại vụ án như sau:
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền: “Xử lại những vụ án do
Tịa mình hoặc Tịa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đã xử mà bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao giao cho xử lại”.
Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành
chính tương đương có thẩm quyền: “Xử lại những vụ án do Tịa án mình hoặc Tịa
án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Tòa
án nhân dân tối cao giao cho xử lại”.


18
Từ năm 1961 đến năm 1976, Nhà nước ta còn ban hành một số văn bản về
thẩm quyền của Tòa án và về tố tụng dân sự, như Thông tư số 2421/TC ngày
02/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thực hiện chế định Hội thẩm nhân
dân, Thông tư số 02/TC ngày 20/02/1966 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về
thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện trong tình hình mới, Thơng tư
số 39/NCLP ngày 21/01/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thụ lý, di
lý, xếp và tạm xếp những việc hơn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự, Thông
tư số 06/TATC ngày 25/02/1974 của Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn về cơng

tác điều tra trong tố tụng dân sự, Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 của Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân sự, Bản hướng dẫn về
trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thơng tư số 96/NCLP ngày 08/02/1977
của Tịa án nhân dân tối cao, Thông tư số 40-TATC ngày 01/6/1976 của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn chế độ án phí, lệ phí và cấp phí tại Tịa án nhân dân.
Có thể thấy giai đoạn này khái niệm về “thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”
chưa chính thức xuất hiện mặc dù quy định tại các văn bản nêu trên về việc xét xử
lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật gần giống với tính chất của một hoạt động
giám đốc thẩm, tái thẩm. Và trong giai đoạn này hầu như các văn bản quy định về
thủ tục tố tụng tại Tịa án lại càng ít, hầu hết những quy định xét lại bản án có hiệu
lực là trong các văn bản về tổ chức Tòa án, từ đó những quy định về quyền và nghĩa
vụ của đương sự khi xét lại bản án có hiệu lực pháp luật cũng hầu như chưa có. Tuy
nhiên, các văn bản này chính là nền tảng quan trọng cho việc phát triển chế định thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm cũng như những quy định về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm tái thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1981 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 được Quốc hội
thông qua đánh dấu sự phát triển mới về tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân. Khái niệm về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm
được chính thức xuất hiện trong hai đạo luật này. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1981 có quy định về đối tượng giám đốc thẩm, tái thẩm; thẩm quyền kháng
nghị, thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1981 cũng quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.


19
Đến năm 1988, Nhà nước ta tiếp tục ban hành Luật sửa đổi, bổ sung các
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân với việc sửa

đổi, bổ sung khá nhiều quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm như các quy
định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; các quy định về phân định
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm giữa các Tòa chuyên trách của Tòa án nhân
dân tối cao, giữa Tòa án nhân dân tối cao với Tòa án nhân dân cấp tỉnh và thẩm
quyền của Hội đồng giám đốc thẩm.
Nói chung trong giai đoạn này, các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm vẫn được quy định rất chung chung, không đầy đủ, các quy phạm nằm rải rác,
xen kẻ. Mặt khác, hệ thống pháp luật nước ta giai đoạn này chưa có một văn bản
chuyên ngành về tố tụng dân sự mà toàn bộ thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ
được quy định trong các văn bản về tổ chức. Từ đó, quyền và nghĩa vụ của đương
sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong giai đoạn này vẫn chưa được ghi
nhận một cách chính thức trong một văn bản pháp luật.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến ngày 01/01/2005
Kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự cũng như
pháp luật về tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân của các giai đoạn
trước, từ năm 1989 Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố tụng dân sự
như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 06/3/1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động năm 1996…Đây là những văn bản pháp luật quan trọng quy
định về tố tụng dân sự trong đó có các quy định về đương sự trong vụ án. Đến năm
1992, ngoài việc ban hành Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân mới, nhiều
Thông tư hướng dẫn cho các văn bản có hiệu lực cao kể trên cũng được ban hành.
Về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được ghi nhận khá đầy đủ trong các
Pháp lệnh nêu trên, cụ thể: Thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Chương XII,
từ Điều 71 đến Điều 77; thủ tục tái thẩm được quy định tại Chương XIII, từ điều 78
đến Điều 82 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Trong đó có ghi
nhận một số quyền của đương sự như quyền yêu cầu người có thẩm quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền tham gia phiên tòa giám đốc thẩm,
tái thẩm; quyền được nhận văn bản kháng nghị. Tương tự, tại Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động



×