Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.95 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ANH TRIẾT

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ANH TRIẾT

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN


Trước tiên tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh và các thầy, cô giáo đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập
và tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu, đặc biệt là sự hướng dẫn nghiên cứu
khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Phương đã giúp tơi vượt qua khó khăn để
hồn thành Luận văn.
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ
cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả

Nguyễn Anh Triết


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG PHIÊN TỊA PHÚC THẨM DÂN SỰ ......... 5
1.1. Mục đích, ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân sự ........................ 5
1.1.1. Mục đích của phiên tịa phúc thẩm dân sự .......................................... 5
1.1.2. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân sự ............................................ 7
1.2. Các đương sự tham gia trong phiên tòa phúc thẩm dân sự ............. 9
1.2.1. Đương sự kháng cáo ............................................................................ 9
1.2.2. Các đương sự liên quan đến kháng cáo, kháng nghị……………………14
1.3. Quyền tố tụng của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm dân sự Việt
Nam ............................................................................................................. 17
1.3.1. Quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng ......................................................................................................... 17
1.3.1. Quyền cung cấp chứng cứ, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo và tự thỏa
thuận ........................................................................................................... 19

1.3.3. Quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự ...................... 25
1.3.4. Quyền tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa .................... 27
1.4. Nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm dân sự
Việt Nam ..................................................................................................... 30
1.4.1. Tơn trọng Tịa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa ............30
1.4.2. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án và chấp hành các quyết
định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án ...................................... 34
Kết luận Chương 1 ..................................................................................... 37
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ........................................................ 38
2.1 Thực tiễn thực hiện quyền của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm
dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................ 38


2.1.1. Về quyền cung cấp chứng cứ .............................................................. 38
2.1.2. Về quyền thay đổi, bổ sung rút kháng cáo .......................................... 44
2.1.2. Về quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự ................... 52
2.1.3. Về quyền tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa ................... 57
2.2 Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ của đương sự trong phiên tòa phúc
thẩm dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ...................................... 64
2.2.1. Về nghĩa vụ tơn trọng Tịa án và chấp hành nội quy phiên tòa ....... 64
2.2.2. Về nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án ............................ 69
Kết luận Chương 2 .................................................................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC PHỤ LỤC


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự quy định về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự bao
gồm thủ tục khởi kiện, thủ tục chuẩn bị xét xử, thủ tục hòa giải, thủ tục phiên tòa sơ
thẩm, thủ tục phúc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong đó thủ tục xét xử
phúc thẩm dân sự được quy định tại Điều 263 đến Điều 281 của Bộ luật tố tụng dân
sự. Đây là một thủ tục rất quan trọng trong q trình làm sáng tỏ vụ án thơng qua
việc Tịa án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án, quyết định của cấp sơ thẩm chưa
có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị.
Qua đó, các quyền và nghĩa vụ của đương sự sẽ được phát sinh và thực
hiện. Nhưng quyền và nghĩa vụ của đương sự có được phát sinh trong q trình giải
quyết vụ án hay khơng, có những quyền, nghĩa vụ đương sự được thực hiện tại cấp
sơ thẩm nhưng không được thực hiện tại cấp phúc thẩm hay ngược lại.
Theo đó, quyền và nghĩa vụ của đương sự sẽ được thực hiện cơng khai tại
phiên tịa dân sự phúc thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm thì đương sự được thực
hiện những quyền gì và phải có nghĩa vụ như thế nào?
Bộ luật tố tụng chỉ quy định quyền và nghĩa vụ nói chung của các đương sự,
cụ thể là quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan… trong quá trình giải quyết vụ án. Nhưng tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng
đặc biệt là tại phiên tòa phúc thẩm dân sự thì các đương sự được thực hiện những
quyền và nghĩa vụ cụ thể như thế nào thì chưa được quy định rõ ràng.
Theo đó, trên thực tế việc áp dụng và cách hiểu của đương sự về quyền và
nghĩa vụ trong phiên tòa phúc thẩm dân sự cịn nhiều khó khăn và vướng mắc nên
cần phải tìm ra nguyên nhân và những giải pháp kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm dân sự là hết sức cần thiết
khơng những có ý nghĩa về lý luận mà cịn có ý nghĩa về thực tiễn. Do vậy, học viên
quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phiên tòa phúc
thẩm dân sự” làm để nghiên cứu Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Qua quá trình tìm hiểu nghiên cứu học viên nhận thấy vấn đề về quyền và
nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa dân sự phúc thẩm cũng đã có những cơng trình
nghiên cứu nhất định như:


2

“Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự và thực
tiễn áp dụng” của tác giả Lê Thu Hà. Nội dung đề cập đến quá trình hình thành và
phát triển của Luật tố tụng dân sự Việt Nam, những nội dung và điểm mới cơ bản
của Bộ luật tố tụng dân sự, bình luận và phân tích một nhằm đưa ra những kiến
nghị, giải pháp mang tính thực tiễn cao giúp cho học viên có thêm nguồn tài liệu
phong phú, hữu ích trong q trình nghiên cứu.
Bên cạnh đó, cịn có một số cơng trình nghiên cứu khoa học khác nghiên
cứu chuyên sâu về quyền, nghĩa vụ của đương sự như:
- Nguyễn Cơng Bình (2011) “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố
tụng dân sự Việt Nam”.
- Cao Kim Oanh (2011) “Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự”.
Ngồi ra, cịn có rất nhiều bài viết của các tác giả trên tạp chí khoa học liên
quan đến vấn đề pháp lý như: Trần Văn Độ (2004), “Bản chất tranh tụng tại phiên
tịa”, Tạp chí Khoa học pháp lý (4); Mai Bộ (2014), “Nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân (23); Lại Văn Trình (2014), “Nghiên cứu
bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội - Luật học (30); Lương Thị Hợp (2010), “Một số vấn đề trong
Bộ luật tố tụng dân sự cần sửa đổi, hướng dẫn”, Tạp chí Tịa án nhân dân (11);
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2015), “Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự thơng qua
người đại diện”, Tạp chí Tịa án nhân dân (11)…và còn khá nhiều bài viết về vấn
đề quyền và nghĩa vụ của đương sự với nhiều tác giả khác nhau. Mỗi bài viết đều
thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá ở những góc độ khác nhau về vấn đề này.

Nhìn chung các cơng trình khoa học nêu trên đã đề cập đến vấn đề cơ bản
về quyền và nghĩa vụ của đương sự nói chung… Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện
nay chưa có đề tài Luận văn Thạc sĩ nào nghiên cứu chuyên sâu về quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm dân sự.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
phiên tòa dân sự phúc thẩm.
Qua nghiên cứu cũng phát hiện ra những hạn chế, bất cập trong các quy
định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phiên tòa
dân sự phúc thẩm.


3

Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài:
Nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định về quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong phiên tịa dân sự phúc thẩm.
Phân tích, đánh giá pháp luật hiện hành để tìm ra những nguyên nhân thiếu
sót, chưa phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật.
Đề ra những giải pháp và hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành về quyền
và nghĩa vụ của đương sự trong phiên tòa dân sự phúc thẩm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong phiên tòa dân sự phúc thẩm như về khái niệm, mục đích ý
nghĩa phiên tịa dân sự phúc thẩm, các quyền của đương sự và nghĩa vụ của đương
sự trong phiên tịa phúc thẩm. Qua đó, tìm ra những khó khăn, vướng mắc về quyền
và nghĩa vụ của đương sự trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp kiến nghị để hoàn
thiện quy định của pháp luật.

- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên do giới hạn của Luận văn
thạc sĩ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự như mục
đích, ý nghĩa của xét xử phúc thẩm, các đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm dân
sự; các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về các quyền và nghĩa vụ của đương sự
tại phiên tòa phúc thẩm và thực tiễn thực hiện chúng tại các phiên tòa phúc thẩm
trong những năm gần đây.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho
việc nghiên cứu đề tài, vận dụng những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài cịn dựa trên các phương pháp như
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lấy ý kiến của những người làm công tác
thực tiễn…nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đang nghiên cứu.
- Chương 1: Học viên vận dụng vận dụng tổng hợp các phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử để làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc


4

nghiên cứu chương lý luận. Đồng thời, kết hợp với phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp để làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ của đương
sự.
- Chương 2: Việc nghiên cứu chương thực tiễn được vận dụng những quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dựa trên các phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và lấy ý kiến của

những người làm công tác thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về những
vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa phúc thẩm giúp
độc giả, đặc biệt là người dân và những người đang làm công tác thực tiễn hiểu biết
sâu sắc hơn về quyền và nghĩa vụ của đương sự được thực hiện những quyền và
nghĩa vụ như thế nào tại phiên tịa phúc thẩm dân sự.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục
phụ lục, nội dung đề tài kết thành 2 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
phiên tòa phúc thẩm dân sự.
Chương 2. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phiên
tịa phúc thẩm dân sự và kiến nghị hồn thiện pháp luật.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG
SỰ TRONG PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ
1.1. Mục đích, ý nghĩa của phiên tịa phúc thẩm dân sự
1.1.1. Mục đích của phiên tịa phúc thẩm dân sự
Sau khi bản án, quyết định dân sự sơ thẩm được tuyên thì về nguyên tắc bản
án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà cịn một thời hạn
để các đương sự có thể kháng cáo, Viện kiểm sát có thể kháng nghị1.
Cụ thể, thời hạn kháng cáo đối với bản án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm là
mười lăm ngày kể từ ngày tun án, đối với đương sự khơng có mặt tại phiên tịa thì
thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết,
thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm

sát cấp trên là ba mươi ngày kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
Thời hạn kháng cáo đối với quyết định dân sự có thể là quyết định tạm đình chỉ,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là bảy ngày kể từ ngày người có quyền kháng
cáo nhận được quyết định, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy
ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là mười lăm ngày kể từ ngày Viện kiểm sát cùng
cấp nhận được quyết định.
Nếu người có quyền kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án cấp sơ thẩm
thì Tịa án cấp sơ thẩm sẽ lập thủ tục và kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị của Viện kiểm sát cấp trên để chuyển lên Tòa án cấp trên trực tiếp tiến hành
xét xử lại vụ án. Thủ tục xét xử lại vụ án này được gọi là phúc thẩm dân sự.
Như vậy, xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án
mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo hoặc kháng nghị2.
Hình thức mà Tịa án cấp trên trực tiếp xét xử công khai lại vụ án mà bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị được thơng qua tại phiên tịa phúc thẩm hoặc phiên họp. Do đó, khơng
phải trường hợp nào Tịa án cấp phúc thẩm cũng đều mở phiên tòa để xem xét lại
bản án, quyết định sơ thẩm. Đối với bản án dân sự sơ thẩm có kháng cáo thì Tịa án
1
2

Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.393.
Điều 242 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011.


6

cấp phúc thẩm sẽ mở phiên tòa phúc thẩm dân sự, còn trường hợp quyết định sơ
thẩm bao gồm quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ thì Tịa án cấp phúc
thẩm sẽ mở phiên họp để xem xét tính hợp lý và căn cứ của quyết định đó.

Cho nên có thể nói, đối tượng của phiên tịa phúc thẩm dân sự phải là
những bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đó là những bản án dân sự
sơ thẩm còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Trường
hợp nếu bản án dân sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật mới bị đề nghị xét xử lại sẽ
được tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Điều đó cũng có nghĩa là
việc xét xử phúc thẩm chỉ đặt ra đối với bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân
cấp huyện và của Tịa án nhân dân cấp tỉnh.
Tuy nhiên, khơng phải vì vậy mà bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực
đều bị đưa ra phiên tòa xét xử phúc thẩm, vấn đề phiên tòa phúc thẩm dân sự chỉ đặt
ra với điều kiện là bản án đó phải bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật. Việc kháng cáo, kháng nghị sẽ mang tính chất quyết định cho việc tiến hành
phiên tòa phúc thẩm một bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật3.
Thủ tục phúc thẩm là một trong những thủ tục tố tụng được quy định ngay
từ những văn bản đầu tiên của nước ta về tố tụng dân sự. Trong Sắc lệnh số 51 ngày
17/4/1946 quy định về sự phân công của các nhân viên trong Tòa án đã quy định
Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án sơ cấp, Tịa thượng thẩm có thẩm quyền chung thẩm các bản án, quyết
định sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp. Đến các luật tổ chức Tòa án nhân dân sau này,
phúc thẩm được ghi nhận như một nội dung không thể thiếu được của hoạt động xét
xử của các Tòa án4.
Về bản chất, thủ tục phúc thẩm dân sự không phải là lần đầu tiên xét xử đối
với một vụ án mà là lần xét xử thứ hai và phiên tịa phúc thẩm dân sự cũng khơng
phải là phiên tịa đầu tiên được trong quá trình giải quyết vụ án. Về cơ bản thì phiên
tịa phúc thẩm được tiến hành giống như phiên tòa sơ thẩm, chỉ khác nhau là thủ tục
phúc thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm.

3
4

Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.394

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.304


7

Đây cũng là nội dung nguyên tắc xét xử hai cấp mà hệ thống Tòa án của
Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới áp dụng. Điều này nhằm đảm bảo tính
thận trọng cho các phán quyết nhân danh Nhà nước.
Nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử đầu tiên được ghi nhận trong Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2002 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014. Hiện nay, tại Điều 242 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi,
bổ sung năm 2011 cũng khẳng định phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét
xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Mục đích của phiên tịa dân sự phúc thẩm là để kiểm tra tính hợp pháp và
tính có căn cứ trong các bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân
dân cấp dưới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm những người có khả năng
chun mơn cao, đủ kiến thức pháp luật cần thiết để thực hiện mục đích này. Điều
53 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định thành phần
Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán trong đó một thẩm phán giữ vai trò
làm chủ tọa phiên tòa. Có thể thấy, trong Hội đồng xét xử phúc thẩm dân sự khơng
có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân.
Như vậy, mục đích của phiên tịa phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp phúc
thẩm trực tiếp kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong các bản án sơ thẩm
chưa có hiệu lực nhằm đảm bảo tính thận trọng cho các phán quyết nhân danh Nhà
nước. Tuy nhiên, việc xét xử tại phiên tòa phúc thẩm dân sự sẽ giới hạn trong phạm
vi nhất định tức là tại phiên tòa Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản
án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị. Ngồi ra, Tịa án cấp phúc thẩm
có thể xem xét những phần khác của bản án có liên quan đến việc xem xét nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Và điều quan trọng là việc kháng cáo, kháng nghị phải

nhằm vào bản án sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị nhưng lại về những vấn đề
chưa được xét xử ở cấp sơ thẩm thì Tịa án cấp phúc thẩm cũng khơng có trách
nhiệm phải giải quyết vì khơng thuộc phạm vi phúc thẩm.
1.1.2. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân sự
Kháng cáo là một hình thức thực hiện quyền tố tụng quan trọng của đương
sự trong vụ án dân sự và của những chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong


8

việc bày tỏ quan điểm, thái độ không đồng ý với kết quả xét xử sơ thẩm và yêu cầu
Tòa án có thẩm quyền xem xét lại vụ án5.
Kháng cáo, kháng nghị là điều kiện để Tòa án tiến hành mở phiên tòa để
tiến hành xét xử phúc thẩm. Đối với những bản án sơ thẩm dù có sai lầm nhưng
khơng bị kháng cáo, kháng nghị thì cũng khơng bị xét xử phúc thẩm.
Còn kháng nghị, cũng là một quyền tố tụng quan trọng của Viện kiểm sát
nhân dân theo quy định của pháp luật nhằm phản đối bản án, quyết định sơ thẩm và
đề nghị Tịa án có thẩm quyền xem xét lại vụ án.
Bởi vậy, kháng cáo, kháng nghị góp phần bảo đảm cho các đương sự thực
hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo các phương thức mà pháp luật
quy định.
Phiên tòa phúc thẩm dân sự nhằm sửa chữa những sai sót của Tòa án cấp sơ
thẩm nếu phát hiện.
Qua phiên tòa phúc thẩm dân sự Tòa án cấp trên sẽ trực tiếp xem xét lại bản
án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc
khắc phục những sai lầm trong những bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của Tịa án, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như các lợi ích
cơng cộng được thực hiện trong thực tế, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thơng qua phiên tịa phúc thẩm dân sự, Tịa án cấp trên có thể kiểm tra hoạt
động xét xử của Tịa án cấp dưới, qua đó có thể chỉ đạo một cách kịp thời và thống

nhất việc áp dụng pháp luật trong các hoạt động xét xử tại các Tòa án ở địa
phương6.
Bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần bảo vệ và củng cố pháp chế xã hội
chủ nghĩa đồng thời nâng cao hiệu quả xét xử, xác lập chế độ trách nhiệm cao đối
với nhân dân và một mơi trường pháp lý an tồn trong đó có quyền cơng dân được
pháp luật bảo vệ và củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ.
Khi hoạt động xét xử kết thúc bằng một bản án của Tịa án thì bản án phải
được mọi người tơn trọng, những người có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Có như vậy, kỷ cương phép nước mới được tơn trọng và đề cao. Đồng thời, thơng
qua phiên tịa cơng khai và bản án có căn cứ thuyết phục khơng những có tác động
tốt đối với bản thân của đương sự mà cịn có giá trị giáo dục rộng rãi trong đời sống
xã hội. Với người thật, việc thật được bản án kết luận chính xác, khách quan, nó dễ
5
6

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.305
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.394


9

đi vào lòng người và dễ được nhân dân chấp nhận hơn là việc thuyết giáo suông về
pháp luật.
Khi nhân dân đã tin tưởng vào pháp luật thì pháp luật là chỗ dựa cho họ đấu
tranh phòng chống vi phạm pháp luật và chính pháp luật đi vào lịng người như vậy
nó trở thành sức mạnh đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng, pháp chế xã hội chủ
nghĩa ngày càng được củng cố và tăng cường.
1.2. Các đương sự tham gia trong phiên tòa phúc thẩm dân sự
Để vụ án được giải quyết nhanh chóng, chính xác đồng thời bảo đảm cho
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm cho việc xét xử, trực

tiếp, liên tục, bằng lời nói thì khi Tịa án mở phiên tòa phúc thẩm để xét xử, về
nguyên tắc tất cả những người tham gia tố tụng phải được triệu tập tham gia phiên
tòa phúc thẩm7.
Theo quy định tại Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm
2011 thì những người tham gia phiên tịa phúc thẩm gồm có: người kháng cáo,
đương sự, cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến kháng cáo, người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tịa.
Ngồi ra, Tịa án có thể triệu tập thêm những người tham gia tố tụng khác
nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Còn đối với Kiểm
sát viên cùng cấp bắt buộc phải tham gia phiên tòa phúc thẩm trong tất cả các
trường hợp bất kể khơng có kháng nghị hay khơng có Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa sơ thẩm.
1.2.1. Đương sự kháng cáo
Người kháng cáo phải là những người được pháp luật cho phép. Theo quy
định tại Điều 243 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 và Nghị
quyết 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “thủ tục giải
quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ
sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự thì chỉ có
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự là được quyền kháng cáo.
Nếu vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện thì cơ quan, tổ chức cũng có quyền
kháng cáo. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng và
lợi ích của Nhà nước là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của
7

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.305


10


người được bảo vệ. Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó có thể tự
mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải
ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện theo
pháp luật của cơ quan, tổ chức đó; họ, tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích
hợp pháp được bảo vệ. Đồng thời, ở phần cuối đơn, người đại diện theo pháp luật
của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó.
Đối tượng mà đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức
khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp mở
phiên tòa giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm là bản án giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm.
Đương sự là cá nhân phải có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể
tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn
phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có kháng cáo. Đồng thời, ở phần cuối đơn
kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không
mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình là đương sự trong vụ án về tranh chấp
có liên quan đến giao dịch dân sự đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục
tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có
kháng cáo. Đồng thời, ở phần cuối đơn kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc
điểm chỉ.
Nếu đương sự có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự,
không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khơng tự mình kháng cáo, thì có thể uỷ
quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo, trừ kháng cáo bản án của Tồ
án cấp sơ thẩm về ly hơn. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải
ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền có kháng cáo; họ, tên, địa chỉ
của đương sự uỷ quyền kháng cáo và văn bản uỷ quyền. Đồng thời, ở phần cuối đơn
kháng cáo, người đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Đương sự là cơ quan, tổ chức có quyền kháng cáo. Người đại diện theo

pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo.
Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ của đương
sự là cơ quan, tổ chức; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương
sự là cơ quan, tổ chức. Đồng thời, ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo


11

pháp luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp người đại
diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền cho người khác đại
diện cho cơ quan, tổ chức kháng cáo, thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo
trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo; tên,
địa chỉ của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền; họ, tên, chức vụ của người đại
diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó và văn bản uỷ quyền. Đồng
thời, ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc
điểm chỉ.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên trừ
trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng
lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người mất năng lực
hành vi dân sự; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể tự mình làm đơn
kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa
chỉ của người đại diện theo pháp luật; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự. Đồng thời, ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc
điểm chỉ.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền cho
người khác đại diện cho mình kháng cáo, thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng
cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền và văn bản
uỷ quyền; họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền;
họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi

dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời, ở phần cuối đơn
kháng cáo, người đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Việc uỷ quyền của các đương sự để thực hiện quyền kháng cáo phải được
làm thành văn bản có cơng chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ
quyền đó được lập tại Tồ án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án
được Chánh án Toà án phân cơng. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương
sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án của Toà án cấp sơ
thẩm.
Như vậy, người có quyền kháng cáo là các đương sự bao gồm nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện theo ủy quyền trong
vụ án và cơ quan tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước.


12

Tuy nhiên, mỗi tư cách tham gia tố tụng khác nhau thì có phạm vi kháng
cáo khác nhau, có thể là rộng hơn hoặc giới hạn trong phạm vi nhất định.
Chẳng hạn, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị
đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, cơ quan tổ chức khởi kiện vụ án dân
sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước có quyền
kháng cáo toàn bộ nội dung bản án dân sự của Tịa án cấp sơ thẩm. Cịn người có
quyền có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì chỉ kháng cáo được những nội dung vụ
án liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình chứ khơng có quyền kháng cáo
hết toàn bộ nội dung vụ án.
Cho nên, sau khi nhận đơn kháng cáo Tòa án cấp sơ thẩm cần kiểm tra đơn
kháng cáo có đầy đủ các nội dung theo quy định pháp luật, trong thời hạn quy định
và người làm đơn kháng cáo có thuộc chủ thể được quyền kháng cáo hay khơng.
Cịn đối với trường hợp đại diện theo ủy quyền cần kiểm tra thời hạn và phạm vi ủy
quyền để xác định quyền kháng cáo.

Người kháng cáo là chủ thể đầu tiên bắt buộc phải tham gia phiên tịa phúc
thẩm dân sự trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Trong trường hợp
người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất thì Hội đồng xét xử phải hỗn phiên tịa
khơng phân biệt là có lý do chính đáng hay khơng có lý do chính đáng. Đến lần
triệu tập hợp lệ thứ hai mà người kháng cáo vẫn vắng mặt khơng vì sự kiện bất khả
kháng thì coi là từ bỏ việc kháng cáo và Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án của người kháng cáo vắng mặt.
Khi đó, sau khi nhận được đơn kháng cáo thì Tịa án cấp sơ thẩm phải kiểm
tra đơn kháng cáo xem có đầy đủ nội dung chưa nếu chưa thì Tịa án cấp sơ thẩm
yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo trong thời hạn do Tòa án
cấp sơ thẩm ấn định nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày người kháng
cáo nhận được thông báo của Tòa án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo, trừ
trường hợp có trở ngại khách quan, thì thời gian có trở ngại khách quan khơng tính
vào thời hạn sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo.
Trong thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo phải nêu rõ những
vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người kháng cáo biết để họ thực hiện. Thời gian
thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo khơng tính vào thời hạn kháng cáo.
Sau khi người kháng cáo đã sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo theo u cầu
của Tịa án, thì Tịa án cấp sơ thẩm tiếp tục thực hiện các thủ tục theo quy định tại
Điều 248 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hết thời hạn do Tòa án ấn định mà người


13

kháng cáo không thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo và đơn kháng cáo
khơng có đầy đủ các nội dung chính quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố
tụng dân sự, thì đơn kháng cáo khơng được coi là hợp lệ. Tịa án cấp sơ thẩm trả lại
đơn cho người kháng cáo và ghi chú vào sổ nhận đơn về việc trả lại đơn.
Nếu qua kiểm tra mà phát hiện thấy đơn kháng cáo là của người khơng có
quyền kháng cáo hoặc nội dung kháng cáo khơng thuộc giới hạn của việc kháng

cáo, thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn, Tòa án cấp sơ
thẩm trả lại đơn và ghi chú vào sổ nhận đơn về việc trả lại đơn.
Còn nếu đơn kháng cáo hợp lệ, người kháng cáo phải có nghĩa vụ nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm trừ trường hợp người kháng cáo được miễn án phí hoặc
khơng phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Tịa án cấp sơ
thẩm phải thơng báo bằng văn bản cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm. Thơng báo phải ghi rõ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm phải
nộp, nơi nộp tiền, thời hạn nộp tiền và hậu quả của việc khơng nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm. Thơng báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm được giao trực tiếp
hoặc gửi cho người kháng cáo qua bưu điện. Và theo quy định Pháp lệnh án phí thì
số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 200.000 đồng.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được thơng báo của Tịa án về
việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải có nghĩa vụ nộp tiền
tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Nếu hết thời hạn này mà người kháng cáo khơng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
mà khơng có lý do chính đáng, thì được coi là họ từ bỏ việc kháng cáo. “Lý do
chính đáng” là trường hợp được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết
06/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
Trong trường hợp sau khi hết thời hạn mười ngày, người kháng cáo mới
nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và khơng có tường trình
về lý do chậm nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Tịa án cấp sơ
thẩm yêu cầu người kháng cáo trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án
yêu cầu phải làm bản tường trình nộp cho Tịa án cấp sơ thẩm để đưa vào hồ sơ vụ
án. Trường hợp này được coi như kháng cáo quá hạn. Tòa án cấp sơ thẩm không
phải tiến hành thủ tục thông báo về việc kháng cáo đã được coi là từ bỏ và không


14


phải gửi hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm, trừ trường hợp trong vụ án cịn có kháng
cáo của người khác, kháng nghị của Viện kiểm sát.
Như vậy, người kháng cáo là đương sự đầu tiên có quyền kháng cáo bản án
sơ thẩm ngồi ra cịn có những nghĩa vụ nhất định như nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung
đơn kháng cáo nếu như đơn kháng cáo chưa đúng quy định, nghĩa vụ nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm và nộp biên lai tạm ứng án phí phúc thẩm cho Tòa án.
1.2.2. Các đương sự liên quan đến kháng cáo, kháng nghị
Phiên tòa phúc thẩm chỉ được tiến hành khi có kháng cáo hoặc kháng nghị
đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Cho nên, chủ thể thứ nhất tham
gia phiên tòa phúc thẩm là người kháng cáo, cịn chủ thể thứ hai khơng thể vắng
mặt tại phiên tịa phúc thẩm là người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Phạm vi xét xử phúc thẩm là xem xét đến nội dung có kháng cáo kháng
nghị hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị là trường hợp việc giải quyết
kháng cáo, kháng nghị đối với phần này của bản án sơ thẩm đòi hỏi phải xem xét
giải quyết đồng thời phần khác của bản án sơ thẩm đó mặc dù phần này khơng bị
kháng cáo, kháng nghị.
Ví dụ: Tại bản án số 45/2013/DS-ST ngày 17-3-2013, Toà án nhân dân huyện
K, tỉnh TN đã quyết định xử chia di sản thừa kế của ông N cho năm thừa kế theo pháp
luật của ơng N. Tồ án cấp sơ thẩm còn quyết định các thừa kế của ông N phải thực
hiện nghĩa vụ về tài sản do ông N để lại đối với ông B. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông B
kháng cáo phần bản án sơ thẩm về thanh toán nghĩa vụ tài sản mà các thừa kế của ông
N phải thực hiện đối với ông B trong khối di sản do ông N để lại.
Trường hợp này việc giải quyết kháng cáo của ông B đòi hỏi phải xem xét
đồng thời phần bản án về chia di sản thừa kế của ông N cho các thừa kế theo đúng
quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 là người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại8.
Đối với trường hợp kháng nghị bản án sơ thẩm thì tại phiên tịa phúc thẩm
phải có sự tham gia của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến kháng nghị.


8

Điều 15 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “thủ tục giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm” của
Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự.


15

Còn đối với trường hợp kháng cáo, nếu nguyên đơn kháng cáo thì tại phiên
tịa phúc thẩm ngồi sự có mặt của ngun đơn cịn có mặt của bị đơn, nếu bị đơn
kháng cáo thì tại phiên tịa phúc thẩm phải có mặt của nguyên đơn và bị đơn. Nếu
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo thì tại phiên tịa phúc thẩm ngồi
sự có mặt của người kháng cáo cịn phải có mặt của ngun đơn và bị đơn.
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người được giả thiết có quyền, lợi ích
hợp pháp đang bị xâm phạm hoặc có tranh chấp nên đã yêu cầu Tòa án bảo vệ hoặc
được người khác yêu cầu Tòa án bảo vệ theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ
chức khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tịa án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của
Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn. Sự tham gia tố tụng
của nguyên đơn được thực hiện một cách chủ động ở tất cả các giai đoạn và không
ngoại trừ giai đoạn phúc thẩm.
Bị đơn trong vụ án dân sự là người giả thiết đã xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn hoặc tranh chấp với nguyên đơn và là người bị
nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện theo quy định
pháp luật. Bị đơn trong vụ án là chủ thể bị kiện nên cho dù không mong muốn cũng
phải bắt buộc tham gia tố tụng để làm sáng tỏ các vấn đề kiện tụng do nguyên đơn
hoặc các chủ thể khởi kiện nêu ra.
Ngoài nguyên đơn và bị đơn tạo thành các bên trong tố tụng dân sự cịn có

thể có những người khác phải tham gia tố tụng vì giải quyết mối quan hệ giữa
nguyên đơn và bị đơn sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của họ. Trong tố tụng dân sự
họ được gọi là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào vụ án là do họ chủ
động thực hiện hoặc do phía nguyên đơn hay bị đơn yêu cầu và cũng có thể do Tịa
án triệu tập vì quyền lợi của họ gắn liền với vụ án mà Tòa án đang giải quyết.
Như vậy, đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm ngồi người kháng cáo về
ngun tắc thì tất cả các đương sự còn lại phải tham gia phiên tịa phúc thẩm dân sự
nhưng những người có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị
là những thành phần chủ yếu bắt buộc phải có. Những người này có thể là nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Ngồi ra, phiên tịa phúc thẩm cịn phải có sự tham gia của người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự nếu có. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự có thể do đương sự yêu cầu và được Tòa án chấp nhận, tại phiên
tòa phúc thẩm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia


16

song hành cùng với đương sự nhưng họ có vị trí độc lập so với đương sự nhằm hỗ
trợ, giúp đỡ đương sự về nhận thức pháp luật.
Trong mọi trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích của họ vắng mặt thì phải hỗn
phiên tịa mà khơng phân biệt là họ vắng mặt có lý do chính đáng hay khơng có lý
do chính đáng trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nếu người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị có người đại diện
theo ủy quyền tham gia phiên tịa thì Tịa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ mà
không cần xem xét đến việc hỗn phiên tịa.
Cịn nếu được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà người khơng có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị tức là quyền lợi, nghĩa vụ của họ độc

lập với việc xem xét kháng cáo, kháng nghị vắng mặt thì Hội đồng xét xử khơng
phải xem xét đến việc hỗn phiên tịa.
Tuy nhiên, nếu được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có thể nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc người đại diện của họ vắng mặt
khơng vì sự kiện bất khả kháng mà khơng có đơn xin xét xử vắng mặt thì Tịa án ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, còn nếu đương sự là bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập, người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự vắng mặt thì Tịa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Bên cạnh đó, mọi phiên tịa phúc thẩm dân sự bắt buộc phải có sự tham gia
của kiểm sát viên trường hợp vắng mặt kiểm sát viên thì phải hỗn phiên tịa, như
vậy có thể thấy hoạt động của kiểm sát viên tại phiên tịa có ý nghĩa rất quan trọng.
Song song đó, thì người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được
quyền biết được việc kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, Tịa án cấp sơ thẩm không
phải thông báo về việc kháng cáo cho chính người đã kháng cáo. Tịa án cấp sơ
thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có
liên quan đến kháng cáo (nếu việc xét xử phúc thẩm vụ án do có kháng cáo có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự đó) biết về việc kháng cáo.
Đương sự được thơng báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý
kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý
kiến của người được thông báo phải được lưu vào hồ sơ vụ án. Trường hợp người
được thông báo gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Tòa án
cấp sơ thẩm mà hồ sơ vụ án chưa gửi cho Tịa án cấp phúc thẩm, thì Tòa án cấp sơ


17

thẩm đưa văn bản này vào hồ sơ vụ án và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm; nếu hồ sơ
vụ án đã gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm, thì Tịa án cấp sơ thẩm phải gửi văn bản đó
cho Tịa án cấp phúc thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án và xem xét khi xét xử phúc thẩm.

Như vậy, khi sau khi xét xử sơ thẩm nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị thì
người có liên quan đến kháng cáo kháng nghị được phát sinh quyền được biết việc
kháng cáo, kháng nghị, cụ thể ai là người kháng cáo, kháng nghị và nội dung kháng
cáo, kháng nghị là gì và có quyền có ý kiến đối với nội dung kháng cáo, kháng nghị
để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa phúc thẩm.
1.3. Quyền tố tụng của đương sự trong phiên tòa phúc thẩm dân sự
Việt Nam
Khi tham gia phiên tịa phúc thẩm dân sự thì các đương sự có quyền ngang
nhau khơng phân biệt địa vị pháp lý trong tố tụng dân sự. Các quyền của đương sự
tại phiên tòa phúc thẩm được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự cụ thể như
sau:
1.3.1. Quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng
Sau khi Chủ tọa phiên tịa giải thích quyền, nghĩa vụ của những người tham
gia tố tụng tại phiên tịa thì Chủ tọa sẽ giới thiệu họ tên những người tiến hành tố
tụng bao gồm thẩm phán chủ tọa phiên tòa và hai thẩm phán họp thành Hội đồng
xét xử, kiểm sát viên thực hiện việc kiểm tra giám sát hoạt động tố tụng và thư ký
Tòa án ghi biên bản phiên tòa, người giám định, người phiên dịch nếu có và hỏi các
đương sự tham gia phiên tịa phúc thẩm có đề nghị thay đổi ai khơng nếu có căn cứ
cho rằng họ khơng khách quan.
Khi đó, quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng của đương sự được phát sinh ở giai đoạn bắt đầu phiên tòa phúc thẩm
dân sự. Chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự nếu có xem có ai có
yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hay không.
Các căn cứ yêu cầu của đương sự về quyền yêu cầu thay đổi người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng được quy định từ Điều 46 đến Điều 51, điểm l
khoản 2 Điều 58 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 13 đến Điều 15 của Nghị quyết
03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định



18

chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự cụ thể như sau:
Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự
bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự. Những người thân thích của đương sự là người có quan hệ sau đây với
đương sự: là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
đương sự; là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
đương sự; là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của đương sự; là cháu ruột
của đương sự, mà đương sự là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột.
Họ đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án
đó;
Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ
như trong quan hệ tình cảm, quan hệ thơng gia, quan hệ cơng tác, quan hệ kinh tế,...
có căn cứ rõ ràng để có thể khẳng định là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký Tịa án
khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ.
Ví dụ: Thẩm phán là con rể của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là Thủ trưởng cơ quan nơi vợ của Thẩm phán làm việc... mà có căn cứ rõ ràng
chứng minh là trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau,
có mối quan hệ về kinh tế...
Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể khơng vơ tư trong
khi làm nhiệm vụ nếu trong cùng một phiên toà xét xử vụ án dân sự Kiểm sát viên,
Thẩm phán và Thư ký Tịa án là người thân thích với nhau hoặc nếu Thẩm phán,
Kiểm sát viên được phân công xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có người thân thích là
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên đó tham gia xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm vụ án đó.
Thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ cùng
trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau. Tuy nhiên, khi có hai
người trong Hội đồng xét xử thân thích với nhau, thì chỉ có một người phải từ chối
hoặc bị thay đổi. Việc thay đổi ai trước khi mở phiên tồ do Chánh án Tịa án quyết
định, tại phiên tồ do Hội đồng xét xử quyết định.
Và Thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ “Đã
tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,… trong vụ án đó”. Đó tham gia xét xử sơ


19

thẩm, phúc thẩm,... trong vụ án đó là đó tham gia giải quyết vụ án và đó ra bản án
sơ thẩm, bản án phúc thẩm hoặc quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Tại phiên toà người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng phải trình bày
rõ lý do và căn cứ của việc yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.
Hội đồng xét xử nghe người bị yêu cầu thay đổi trình bày ý kiến của họ về
yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.
Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và lời trình bày của người có u
cầu, của người bị u cầu thay đổi phải được ghi đầy đủ vào biên bản phiên toà. Hội
đồng xét xử thảo luận tại phũng nghị án và căn cứ vào quy định tại các điều 46, 47,
48 và 49 của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Điều 13 và Điều 14 của Nghị
quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đa số thay đổi hoặc không thay đổi người
tiến hành tố tụng.
Trường hợp quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, thì trong quyết
định phải ghi rõ việc hỗn phiên tồ và đề nghị người có thẩm quyền cử người khác
thay thế người tiến hành tố tụng đó bị thay đổi trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày
nhận được quyết định và thời hạn hỗn phiên tồ.

Quyết định thay đổi hoặc khơng thay đổi người tiến hành tố tụng phải được
Hội đồng xét xử cơng bố cơng khai tại phiên tồ. Quyết định thay đổi người tiến
hành tố tụng phải được gửi ngay cho những người có thẩm quyền quy định tại
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật tố tụng dân sự.
1.3.2. Quyền cung cấp chứng cứ, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo và tự
thỏa thuận
- Quyền cung cấp chứng cứ:
Công việc quan trọng hàng đầu mà Tòa án cũng như các đương sự cần thực
hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án là thu thập thêm chứng cứ để làm rõ các
tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án.
Trong tố tụng dân sự thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự. Theo
Điều 6 của Bộ luật tố tụng dân sự thì các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu cho yêu cầu


20

của mình là có căn cứ và hợp pháp, Tịa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng
cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật9.
Khái niệm chứng cứ đã được quy định cụ thể tại Điều 81 Bộ luật tố tụng
dân sự cụ thể như sau:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tịa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay khơng
cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Như vậy chứng cứ của vụ án luôn tồn tại khách quan và được biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau. Với ý nghĩa quan trọng của chứng cứ như vậy nên
chứng cứ khơng thể là những sự kiện, tình tiết giả được. Thực tiễn xét xử cho thấy

có khơng ít trường hợp đương sự tự tạo ra các tình tiết, chứng cứ giả gây khó khăn
cho Tịa án trong việc giải quyết vụ án nhưng bằng nhiều phương pháp đánh giá
chứng cứ khác nhau như căn cứ vào lời khai của các bên đương sự, biên bản đối
chất hoặc kết quả giám định tài liệu, chữ ký... mà Tịa án có thể phân tích, so sánh
để đưa ra được quyết định giải quyết chính xác vụ án.
Tuy nhiên, các chứng cứ được sử dụng để chứng minh cho yêu cầu hay
phản đối của các đương sự phải được thu thập theo trình tự do pháp luật quy định.
Thơng thường trước đây lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng
thường được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản và chứa đựng sự thật về vụ
án. Hiện nay Bộ luật tố tụng dân sự đã có quy định mở rộng hơn các nguồn và vấn
đề về chứng cứ cụ thể tại khoản 4 Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định các
lời khai của đương sự, của nhân chứng nếu được ghi bằng băng ghi âm, đĩa ghi âm,
băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Bộ luật tố tụng
dân sự cũng có giá trị pháp lý. Với quy định này các đương sự sẽ có rất nhiều thuận
lợi trong việc cung cấp các chứng cứ chứng minh cho các u cầu, phản tố của
mình thơng qua việc xuất trình cho Tịa án băng ghi âm, đĩa ghi âm... kèm theo văn
bản xác nhận xuất xứ hoặc văn bản về việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó
để Tịa án lập biên bản, lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Với vai trò đặc biệt quan trọng của chứng cứ trong việc giải quyết chính xác
vụ án trên đây thông qua việc thu thập theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy
9

Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.33.


×