Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Quyền và nghĩa vụ cuả công dân do hiến pháp và luật quy định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


BÁO CÁO TĨM TẮT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG

NGUYÊN TẮC “QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CÔNG DÂN DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH”
– LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Nhóm tác giả
1. LƢU ĐỨC QUANG (chủ nhiệm)
2. NGUYỄN MẠNH HÙNG
3. NGUYỄN THANH MINH
(GV. KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH)

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn Đề tài nghiên cứu
“Quyền và nghĩa vụ cuả công dân do Hiến pháp và luật quy định”
là một nguyên tắc mới được quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trong quá
trình nghiên cứu và giảng dạy Luật Hiến pháp, chúng tôi nhận thấy mấy vấn đề
nổi bật dưới đây có liên quan đến nguyên tắc hiến định này.
Một là, từ góc độ nội dung của các tài liệu giảng dạy Luật hiến pháp ở
Việt Nam, giáo trình của các cơ sở đạo tạo pháp luật lớn hiện chưa thống nhất
trong nhận thức về nguyên tắc này: hoặc khơng hề phân tích ngun tắc như các
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội – Nxb.


Công an nhân dân – 2008 và Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội – Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội – 2006 hoặc phân tích khá sơ sài như Giáo trình Luật
Hiến pháp Việt Nam của Viện Đại học Mở Hà Nội – Nxb. Tư pháp – 2004.
Chúng tôi hy vọng công trình này góp phần cho sự thống nhất đó.
Hai là, từ yêu cầu tổng kết việc thi hành và nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, trong đó, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đang
chiếm được sự quan tâm to lớn, khơng chỉ từ phía các nhà hoạch định chính
sách, giới học thuật mà cịn từ cơng chúng. Chúng tơi hy vọng cơng trình này sẽ
góp phần vào việc đa dạng hóa, sâu sắc hóa các nguồn tài liệu về nguyên tắc
hiến định này nói riêng, về địa vị pháp lý của cơng dân nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam, chưa có cơng trình nghiên
cứu chun biệt về nguyên tắc hiến định “Quyền và nghĩa vụ của công dân do
Hiến pháp và luật quy định”. Liên quan đến Đề tài này, một số nhà luật học đã
công bố một số bài báo trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, hội thảo khoa
học; điển hình là bài: “Bàn về hình thức văn bản và thẩm quyền quy định về
quyền và nghĩa vụ của công dân” – Tạp chí Khoa học Pháp lý số 5/2007của tác
giả Vũ Văn Nhiêm; “Một số định hướng và phương pháp ghi nhận quyền cơ
bản của công dân, quyền con người trong Hiến pháp sửa đổi” – trong sách

2


“Hiến pháp: những vấn đề lý luận và thực tiễn” – Nxb. Đại học quốc gia Hà
Nội - 2011 của PGS. TS. Nguyễn Như Phát. Một số nội dung có liên quan cũng
được một số tác giả thể hiện trong các giáo trình, sách chun khảo, sách tham
khảo với tính chất là một phần của ấn phẩm; điển hình là: “Bình luận khoa học
Hiến pháp 1992” – Nxb. Sự thật – 1992 của nhóm tác giả Phùng Văn Tửu –
Nguyễn Niên – Nguyễn Văn Thảo – Đoàn Trọng Truyến; “Quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam” (sách chuyên khảo) – Nxb. Khoa

học xã hội – 2005 của PGS. TS. Nguyễn Văn Động; “Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN” (sách chuyên khảo) - Nxb. Chính trị quốc gia - 2011 của PGS. TS.
Nguyễn Minh Đoan; “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam” (sách chuyên khảo) – Nxb. Chính trị quốc gia – 2011
của GS. TS. Trần Ngọc Đường.
Không chỉ chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt mà các cơng trình
như đã nêu trên chưa có sự tổng kết tồn diện đối với ngun tắc hiến định này
thơng qua việc nghiên cứu so sánh kinh nghiệm lập hiến quốc tế; thu thập, phân
tích, bình luận những tình huống, số liệu cụ thể về sự thể chế hóa pháp lý quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như thực tiễn thực hiện và nhận thức của
công chúng ở nước ta về nguyên tắc hiến định quan trọng này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nhận thức: đề tài góp phần cung cấp nhận thức đúng và đầy đủ
về nguyên tắc hiến định này cũng như sự tồn tại cần thiết của nó. Trên cơ sở đó,
đề tài tổng kết, phân tích, đánh giá việc hiện thực hóa ngun tắc cũng như
những hệ quả của hiện thực này trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
và hướng tới mục tiêu thứ hai. Mục tiêu hành động: đề tài đưa ra một số kiến
nghị nhằm tối ưu hóa cơ chế thực thi nguyên tắc.
Kết quả của Đề tài có thể trở thành chuyên khảo được sử dụng trong
giảng dạy và học tập các mơn học có liên quan như Luật Hiến pháp, Quyền con
người – Quyền công dân, Giám sát Hiến pháp, Nhà nước pháp quyền… thuộc
chương trình đào tạo luật học các cấp hoặc chuyên khảo dành cho các nhà lập
hiến, lập pháp, hành pháp.
3


4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt pháp lý, chúng tôi nghiên cứu Hiến pháp năm 1992 và các văn
bản dưới luật (Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định) có liên quan đến việc thể chế

hóa quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Đối với việc tìm hiểu kinh nghiệm
quốc tế, chúng tôi nghiên cứu Hiến pháp của 12 quốc gia gồm Hoa Kỳ, Đức, Ba
Lan, LB Nga, Thụy Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore,
Indonesia, Úc và Trung Quốc.
Về mặt thực tiễn, chúng tôi chọn nghiên cứu 8 tình huống pháp lý liên
quan đến việc thực hiện nguyên tắc bằng cách trình bày và bình luận. Đồng
thời, chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học với 945 mẫu tại Tp. HCM, Khánh
Hòa, Tây Ninh và Bà Rịa – Vũng Tàu để từ đó có thể đánh giá bước đầu nhận
thức của xã hội về vấn đề này cũng như thu thập thêm luận chứng nghiên cứu.
Tóm lại, chúng tôi tập trung vào việc tổng kết thể chế hóa pháp lý và hiện
thực hóa nguyên tắc này trong đời sống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp giải thích thuật ngữ pháp lý;
phương pháp so sánh pháp luật (kinh nghiệm lập hiến quốc tế và Việt Nam);
phương pháp phân tích tình huống pháp lý; phương pháp phỏng vấn và phân
tích kết quả điều tra xã hội học…
6. Bố cục của Báo cáo tổng kết: Báo cáo tổng kết Đề tài có mấy phần như sau:
 Phần mở đầu: giới thiệu lý do chọn đề tài, tình hình, mục tiêu, phạm
vi và phương pháp nghiên cứu; bố cục Báo cáo tổng kết.
 Chương 1 – Cơ sở lý luận của nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của
cơng dân do Hiến pháp và luật quy định” trình bày: phân tích
nguyên tắc này với tính cách một nguyên tắc hiến định ở Việt Nam
(xuất xứ, nội dung, yêu cầu, ý nghĩa); giới thiệu kinh nghiệm lập hiến
của 12 quốc gia có liên quan đến nguyên tắc này.
 Chương 2 – Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định” và một số kiến nghị
4



trình bày: việc thể chế hóa về mặt pháp lý đối với các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 và một số đạo luật,
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật; nêu và bình luận một số tình
huống có liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc này và đề xuất một
số kiến nghị nhằm khẳng định sự tồn tại cần thiết của nó trong Hiến
pháp cũng như nâng cao khả năng hiện thực hóa.
 Kết luận.
 Phụ lục: giới thiệu kết quả cuộc điều tra xã hội học có liên quan đến
nguyên tắc này tại Tp. HCM, Khánh Hòa, Tây Ninh và Bà Rịa – Vũng
Tàu với 945 mẫu nghiên cứu.
 Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC
“QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN
DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH”

1.1. NHẬN DIỆN NGUYÊN TẮC
Để thể chế hóa nguyên lý đại diện chủ quyền nhân dân, lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định một tư tưởng chỉ
đạo hay nguyên tắc nền tảng cho việc xác lập địa vị pháp lý của công dân:
“Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Đây cũng
chính là quy định mới mang tính nền tảng đối với hoạt động lập pháp của Nhà
nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng. Điều này, một lần nữa, thể hiện thái độ
trân trọng rất đáng ghi nhận của Nhà nước đối với việc thể chế hóa địa vị pháp
lý của công dân, nhằm hạn chế tối đa sự tùy tiện từ phía Nhà nước.
Về mặt hình thức pháp lý, chúng tôi xin diễn giải như sau:
1. Quyền và nghĩa vụ của cơng dân có thể được chia thành hai loại gồm
quyền và nghĩa vụ cơ bản (được quy định mang tính xác lập, khởi đầu

hay lần đầu trong Hiến pháp – luật cơ bản của Nhà nước) và quyền, nghĩa

5


2.

3.

1.

2.

3.

vụ khác hay quyền, nghĩa vụ không cơ bản (được quy định mang tính xác
lập, khởi đầu hay lần đầu trong các luật, bộ luật).
Bản thân Quốc hội cũng không được ban hành các loại văn bản khác mà
nội dung có liên quan đến việc quy định mang tính xác lập, khởi đầu hay
lần đầu quyền và nghĩa vụ công dân.
Tất nhiên, Quốc hội cũng không thể ủy quyền cho bất kỳ cơ quan nào
khác việc quy định quyền và nghĩa vụ cơng dân.
Về mặt nội dung, chúng ta có thể hiểu như sau:
Chỉ có Quốc hội mới có quyền xác định quyền và nghĩa vụ của cơng dân
mang tính xác lập, khởi đầu hay lần đầu trong hai loại văn bản là Hiến
pháp và các đạo luật.
Tất cả các cơ quan nhà nước khác đều khơng có quyền quy định mang
tính xác lập, khởi đầu hay lần đầu quyền và nghĩa vụ cơng dân. Họ chỉ có
quyền dựa vào Hiến pháp và luật để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
quyền, nghĩa vụ công dân.

Các cơ quan nhà nước khác không được đặt ra quyền, nghĩa vụ mới hoặc
xóa bỏ quyền, nghĩa vụ hiện hữu do Quốc hội quy định.

1.2. KINH NGHIỆM LẬP HIẾN QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN
TẮC
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát nội dung của 12 bản Hiến pháp hiện hành
về phương diện này từ các quốc gia: Hoa Kỳ, Đức, Ba Lan, LB Nga, Thụy
Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Úc và Trung Quốc.
Mỗi quốc gia nói chung, mỗi bản Hiến pháp nói riêng đều có những “hồn
cảnh” riêng mà việc khảo sát này không thể bao quát song qua đó, chúng ta
phần nào nhận diện được quan điểm lập hiến đương đại về vấn đề này.
Nhìn chung, tuy cách thức hiến định khác nhau song về mặt nội dung,
các Hiến pháp tiến bộ trên thế giới đều thừa nhận trách nhiệm tuyệt đối của Nhà
nước (Quốc hội) trong việc “luật hóa” các quyền và nghĩa vụ hiến định của
cơng dân; đồng thời, tôn trọng những giới hạn hiến định mang tính pháp quyền
trong việc xây dựng địa vị pháp lý của công dân cũng như tôn trong quyền con

6


người. Thay cho lời kết ở phần này, chúng tôi xin minh họa bằng bảng so sánh
nội dung của 12 bản Hiến pháp nêu trên về quyền và tự do cơ bản sau đây:

Tiêu chí
--------------Quốc gia

Hiệu lực
trực tiếp

Trách

Hạn chế
nhiệm “luật
hiến
định
hóa”

Hạn chế
luật
định

Điều khoản
chuyển tiếp

Hoa Kỳ









Khơng

Đức










Khơng

Ba Lan









Khơng

LB Nga









Khơng


Thụy Điển











Hàn Quốc

Khơng







Khơng

Nhật Bản

Khơng








Khơng

Singapore

Khơng







Khơng

Indonesia









Khơng


Thái Lan











Khơng rõ







Khơng

Khơng

Khơng rõ






Khơng

Úc
Trung Quốc

CHƢƠNG 2

THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUN TẮC
“QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN
DO HIẾN PHÁP VÀ LUẬT QUY ĐỊNH”
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1. THỂ CHẾ HÓA PHÁP LÝ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA
CÔNG DÂN: trên các lĩnh vực gồm nhóm quyền chính trị, nhóm quyền dân
sự; nhóm quyền kinh tế, văn hóa và xã hội; nhóm nghĩa vụ cơ bản.

7


Qua việc thống kê việc thể chế hóa các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, chúng tôi rút ra một vài nhận xét sau đây:
Một là, có ba mơ hình thể chế hóa pháp lý quyền và nghĩa vụ cơng dân:
+ Mơ hình “Hiến định duy nhất”: nếu tất cả các nghĩa vụ cơ bản của
công dân đã có được “luật hóa” thì vẫn cịn nhiều quyền cơ bản của công dân
đã được hiến định nhưng lại chưa được Quốc hội “luật hóa”.
+ Mơ hình “Hiến pháp – văn bản dưới luật”: trên thực tế, có nhiều
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tuy được hiến định nhưng chưa được
Quốc hội “luật hóa”. Văn bản cao nhất được thi hành trực tiếp là pháp lệnh của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, thơng tư của các Bộ…

+ Mơ hình “Hiến pháp – đạo luật – văn bản dưới luật”: đây là mô hình
thể chế hóa pháp lý các quyền và nghĩa vụ cơ bản đã đạt được sự đồng bộ về
mặt hình thức “luật hóa” của nguyên tắc.
Hai là, xét về mối tương quan giữa các nhóm quyền cơ bản của cơng dân
thì chúng ta thấy nhóm quyền cơ bản về dân sự (quyền về tự do) là có sự vi
phạm nhiều nhất đối với yêu cầu “luật hóa”. Đối với nhóm quyền cơ bản về
chính trị thì cũng có sự vi phạm nguyên tắc nhưng ở mức độ ít hơn Đối với
nhóm quyền cơ bản về kinh tế - văn hóa - xã hội thì khơng có sự vi phạm u
cầu “luật hóa”.
Ba là, xét về cách thức hiến định, Hiến pháp 1992 chưa thể hiện sự
tương thích cao giữa nội dung hiến định của nguyên tắc này với các điều khoản
về quyền và nghĩa vụ cụ thể. Mặc dù, nguyên tắc được ghi nhận: “Quyền và
nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”; thế nhưng, cách quy
định về các quyền cụ thể trong Hiến pháp đã gây ra sự ngộ nhận khi quy định
dưới dạng: quyền (nghĩa vụ) nào đó của cơng dân được thực hiện theo quy định
của pháp luật.
Bốn là, Hiến pháp quy định nhiều quyền cơ bản của công dân “ẩn” dưới
dạng nghĩa vụ của Nhà nước (hay tương xứng với nghĩa vụ của Nhà nước).
2.2. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC VÀ BÌNH LUẬN

8


2.2.1. Tình huống thứ nhất – Sự chậm trễ “luật hóa” quyền biểu tình của
cơng dân nhìn từ tư duy của các nhà chức trách
2.2.2. Tình huống thứ hai - Sự tương thích giữa Hiến pháp, Luật Đất đai và
các văn bản dưới luật về vấn đề thu hồi đất với quyền sử dụng đất của cơng dân.
2.2.3. Tình huống thứ ba – Thực tiễn thực thi quyền học tiểu học khơng phải
trả học phí của cơng dân

2.2.4. Tình huống thứ tƣ – Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ
chức khoa học và công nghệ với quyền nghiên cứu khoa học của cơng dân
2.2.5. Tình huống thứ năm – Danh mục tác phẩm âm nhạc được phép phổ
biến với quyền sáng tác, biểu diễn nghệ thuật và hưởng thụ văn hóa của cơng
dân
2.2.6. Tình huống thứ sáu – Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Đà
Nẵng với quyền tự do cư trú của công dân
2.2.7. Tình huống thứ bảy - Thực tiễn thực thi quyền tự do kinh doanh của
cơng dân
2.2.8. Tình huống thứ tám - Văn bản hành chính với việc ghi nhận quyền và
nghĩa vụ cơng dân
*Qua việc tìm hiểu và bình luận một số tình huống trên, chúng tơi nhận thấy
mấy vấn đề sau đây:
Một là, tình trạng “luật hóa” chậm trễ đối với các quyền cơ bản chịu
ảnh hưởng lớn bởi tư duy quản lý bị động và thái độ ban phát quyền cho người
dân.
Hai là, sự thiếu tương thích giữa nội dung hiến định với nội dung luật
cũng như nội dung văn bản dưới luật về quyền và nghĩa vụ diễn ra theo ba
“kịch bản” sau:
 Thứ nhất, nội dung “luật hóa” của quyền và nghĩa vụ cơ bản không
khác biệt với nội dung hiến định về chúng.
 Thứ hai, có những quyền của cơng dân đã được quy định bằng một
văn bản luật riêng (chuyên ngành) nhưng vẫn còn tiếp tục được quy
định trong nhiều văn bản luật khác nữa mà các văn bản luật này lại

9


mâu thuẫn với nhau, trái ngược nhau gây nên sự lúng túng của cơ
quan nhà nước trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp.

 Thứ ba, quyền và nghĩa vụ cơ bản được tuy được “luật hóa” song
không đúng với tinh thần hiến định hoặc trong quá trình thực thi đã bị
“biến tấu” theo ý chí chủ quan của cơ quan thực hiện, bị “thêm bớt”
hoặc bị “cắt xén”, không đúng theo tinh thần mà Hiến pháp và luật đã
qui định.
Ba là, có những quyền cơ bản hoàn toàn đồng bộ trong nội dung hiến
định lẫn luật định và cả nội dung văn bản dưới luật tức là hồn hảo về mặt
“danh chính ngơn thuận” song thực tế thực hiện thì hồn tồn ngược lại. Người
dân lẫn nhà chức trách đều biết và hành xử theo kiểu ngược lại ấy như “luật bất
thành văn” vì nhiều lý do từ khách quan đến chủ quan làm cho họ gần như chấp
nhận buông xuôi.
Bốn là, nguyên tắc hiến định mà ta đang bàn có liên hệ mật thiết với
nguyên tắc thực hiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền (“Cơng dân được
làm tất cả những gì pháp luật khơng cấm; cán bộ, cơ quan nhà nước chỉ được
làm những gì pháp luật cho phép”).
Năm là, vấn đề ưu tiên tính hợp lý hay hợp pháp trong việc ban hành các
quyết định quản lý nhà nước thường trực nguy cơ xâm hại quyền cơng dân.
Sáu là, thủ tục hành chính quả thực là một “con dao hai lưỡi” bởi một
mặt, muốn quản lý phải áp dụng thủ tục; mặt khác, nếu bản thân thủ tục và việc
áp dụng nó khơng lành mạnh thì khơng chỉ hiệu quả quản lý sẽ tiến về cực âm,
mà quyền công dân chắc chắn bị hạn chế tới mức triệt tiêu.
2.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Thông qua việc nghiên cứu về mặt lý luận, so sánh đối chiếu với kinh
nghiệm lập hiến quốc tế, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, sưu tầm và
phân tích các tình huống thực tiễn cũng như tiến hành điều tra xã hội học,
chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp tổng quát nhằm tiếp tục duy trì và
hiện thực hóa một cách tốt đẹp ngun tắc hiến định “Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân do Hiến pháp và luật quy định”.

10



* Thứ nhất – Tối ƣu hóa việc ghi nhận nguyên tắc “Quyền và nghĩa
vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”
Trước tiên, chúng ta cần thống nhất quan điểm về sự cần thiết của việc
hiến định nguyên tắc này bởi nó vừa ràng buộc trách nhiệm cao độ của Nhà
nước trong việc thể chế hóa pháp lý quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
đồng thời, nó góp phần tạo ra một mơi trường pháp lý mang tính pháp quyền –
mơi trường sống của một xã hội văn minh. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần tính
tới những bất cập hiến định hiện hữu. Theo chúng tôi, Hiến pháp cần lựa chọn
hai “kịch bản” thể hiện sau đây:
Một là, cần hạn chế số lượng các quyền và nghĩa vụ hiến định để chúng
thực sự mang tính “cơ bản” như phương án mà nhiều Hiến pháp hiện đại đang
áp dụng (cần trả lời câu hỏi: để thực sự là công dân của nhà nước ta, mỗi người
cần được hiến định những quyền và nghĩa vụ tối thiểu gì?)
Hai là, nếu tiếp tục duy trì số lượng quyền và nghĩa vụ hiến định khá lớn
như hiện hành thì nhất định các nhà lập hiến ta phải vạch ra lộ trình “luật hóa”
chúng.
Điều cốt lõi là Hiến pháp ln cần được tổ chức một cách đồng bộ, ít
nhất là từ trong kết cấu của nó. Do vậy, cần thay cơng thức “cơng dân có quyền
(nghĩa vụ) … theo quy định của pháp luật” bằng công thức “quyền … của công
dân là bất khả xâm phạm, trừ hạn chế hiến định hoặc luật định…”.
* Thứ hai – Nâng cao nhận thức tồn diện cho các nhà chức trách và
cơng chúng về Hiến pháp nói chung, nguyên tắc này nói riêng
Theo kết quả điều tra của chúng tơi, tuy có hơn 91% số người được hỏi
cho biết đây là nguyên tắc hiến định nhưng chỉ có 39% cho rằng: “Chỉ có Hiến
pháp và luật quy định quyền và nghĩa vụ của công dân”; 48% cho rằng: “Do
được ghi nhận trong Hiến pháp và luật nên quyền và nghĩa vụ của công dân
được đảm bảo và không bị các cơ quan nhà nước vi phạm”.
Cũng theo điều tra này, gần 94% số người được hỏi cho rằng: hiện nay,

nguyên tắc này đang bị vi phạm. Tuy nhiên, tuyệt đại đa số mọi người khá lúng
túng trong việc nhận diện những biểu hiện vi phạm nguyên tắc nên chúng tôi

11


không thể đưa ra kết quả ở đây. Đối với nguyên nhân dẫn tới sự vi phạm
nguyên tắc này, chỉ có gần 40% số người tham gia trả lời.
Qua việc phân tích kết quả này cùng những tình huống nêu trên, chúng ta
có thể nhận ra sự hạn chế lớn trong nhân thức về Hiến pháp nói chung, nguyên
tắc hiến định này nói riêng. Xin lưu ý là: đối tượng điều tra tuy thuộc nhiều
thành phần xã hội song họ (về lý thuyết) là những người có sự quan tâm khá lớn
và phần nào am hiểu pháp luật (sinh viên luật tại chức). Những con số kết quả
điều tra vừa nêu quả là nhiều biểu cảm với thực trạng ý thức pháp luật nói
chung ở nước ta hiện nay.
* Thứ ba – Tổ chức thi hành nghiêm túc nguyên tắc này
Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh, trước hết, vai trị chủ động của các
nhà chức trách. Họ chính là người khởi động cho quy trình hiện thực hóa
ngun tắc bằng việc thơng qua Hiến pháp  cơng bố tồn dân  tổ chức thực
hiện (chuẩn bị điều kiện vật chất và tinh thần – quyền cơng dân chỉ có thể được
đảm bảo bằng nghĩa vụ của Nhà nước theo ngun tắc bình đẳng)  áp dụng
pháp luật khi cơng dân thực hiện quyền (thủ tục hành chính)  xử lý vi phạm
(nếu có). Trong suốt q trình này, một trong những điều cần tránh chính là
hành xử với quyền của công dân với tâm lý của “bề trên”, ban phát ân huệ cho
“kẻ dưới”. Đó là mầm mống của mọi điều tồi tệ nhất trong quan hệ giữa nhà
chức trách với công dân.
* Thứ tƣ – Xây dựng cơ chế bảo hiến có hiệu quả cao
Đối với việc bảo vệ nguyên tắc hiến định này, phải chăng, đã đến lúc
chúng ta cần nghiêm túc đánh giá và tiến tới thừa nhận: cơng dân có quyền khởi
kiện nhà chức trách nếu họ ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến

pháp và các đạo luật tại Tòa án hành chính (chính xác là Tịa án Hiến pháp, nếu
thiết chế này được thành lập).

12


KẾT LUẬN

Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc “Quyền và nghĩa
vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Trong quá trình nghiên cứu
và giảng dạy Luật Hiến pháp, những trăn trở về Hiến pháp cùng với thân phận
của người dân đã khiến chúng tơi suy nghĩ một cách có hệ thống và nhận thấy
nguyên tắc này là một trong những mắt xích quan trọng để bảo vệ công dân
cũng như nâng cao “đẳng cấp” của Nhà nước pháp quyền mà chúng ta không
ngừng phấn đấu xây dựng. Bằng tiểu luận nhỏ này, chúng tôi muốn bày tỏ một
số ý tưởng sau đây:
Qua việc tìm hiểu kinh nghiệm lập hiến quốc tế, chúng tơi thấy rằng
nguyên tắc này phần nào thể hiện ý tưởng tích cực của các nhà lập hiến Việt
Nam trong việc nâng cao năng lực bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Qua việc tổng kết pháp luật, chúng tôi cho rằng việc thể chế hóa pháp lý
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã thể hiện sự cố gắng của các nhà lập
pháp nước ta song nỗ lực ấy vẫn cịn khá nhiều bề bộn.
Qua việc trình bày và phân tích một số tình huống pháp lý có liên quan,
chúng tôi thấy rằng cùng với xu thế dân chủ hóa đời sống xã hội, người dân
ngày càng chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình; cịn
các nhà chức trách thì khơng thể mãi vô tư hay vô tâm trước thực tế này.
Qua việc điều tra xã hội học, chúng tôi nghĩ rằng công cuộc cải cách
pháp luật nói chung, sửa đổi Hiến pháp nói riêng ở nước ta, có lẽ phải bắt đầu
từ nhận thức của công chúng.
Việc đảm bảo địa vị pháp lý của công dân là một trong những nhân tố

quyết định thành bại của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, địa vị đó khơng chỉ
cần được “trang điểm” bằng một bản văn Hiến pháp mỹ miều. Việc nó được
“ni dưỡng” và “trưởng thành” như thế nào mới là điều quyết định đối với sự
thịnh vượng của Nhà nước Pháp quyền – Nhà nước Nhân quyền.

13



×