Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TÀO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐỨC THUẬN

QUYỀN ƯU TIÊN TRONG BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THEO
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 1379030360

Người hướng dẫn khoa học:

TS. LÊ MINH HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Minh Hùng.
Các thông tin trong luận văn là trung thực.
Các ý kiến, quan điểm không thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính
bản thân đều được trích dẫn đầy đủ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan về các kết quả mà
mình nghiên cứu trong luận văn.

Tác giả luận văn



Nguyễn Đức Thuận


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự.

TAND

: Tòa án nhân dân.

UBND

: Ủy ban nhân dân.

NXB

: Nhà xuất bản.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN ƯU TIÊN TRONG
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ ................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền ưu tiên trong bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ ................................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ .................. 6

1.1.2. Đặc điểm của quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ........... 17
1.1.3. Phân loại quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ .................. 21
1.2. Căn cứ phát sinh, căn cứ chấm dứt quyền ưu tiên trong bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ ............................................................................................... 27
1.2.1. Căn cứ phát sinh quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ....... 27
1.2.2. Căn cứ chấm dứt quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ...... 31
1.3. Nội dung, hiệu lực quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ 35
1.3.1. Nội dung của quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ............ 35
1.3.2. Hiệu lực quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ................... 38
1.4. Thứ tự ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ............................. 43
1.4.1. Thứ tự ưu tiên theo luật định ............................................................... 43
1.4.2. Thứ tự ưu tiên theo thỏa thuận ............................................................. 45
1.4.3. Thứ tự ưu tiên trong một số trường hợp khác....................................... 48
Kết luận Chương 1 ...................................................................................... 51
CHƯƠNG 2. BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN ƯU TIÊN TRONG
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ......... 52
2.1. Về căn cứ phát sinh và căn cứ chấm dứt quyền ưu trong bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ ....................................................................................... 53
2.1.1. Về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên ....................................................... 53
2.1.2. Về căn cứ chấm dứt quyền ưu tiên....................................................... 58
2.2. Về phân loại quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ......... 60
2.3. Về nội dung quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ .......... 64
2.3.1. Đối với quyền ưu tiên thanh toán trên giá trị tài sản............................. 65
2.3.2. Đối với quyền theo đuổi ...................................................................... 65
2.4. Về hiệu lực quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ........... 68
2.4.1. Về hiệu lực quyền ưu tiên đối với các bên tham gia giao dịch ............. 68
2.4.2. Về hiệu lực của quyền ưu tiên khi chuyển giao tài sản ......................... 72


2.4.3. Về hiệu lực của việc đăng ký quyền ưu tiên ......................................... 74

2.5. Về các thứ tự thực hiện quyền ưu tiên ................................................ 78
2.5.1. Về thứ tự ưu tiên theo luật định ........................................................... 78
2.5.2. Về thứ tự ưu tiên theo thỏa thuận......................................................... 82
Kết luận Chương 2 ...................................................................................... 89
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
Quyền ưu tiên là một chế định không mới, đã được quy định trong Bộ luật
dân sự nhiều nước trên thế giới thế nhưng so với Việt Nam thì quyền ưu tiên chưa
được quy định chính danh. Bộ luật dân sự 2005 đã quy định tại Điều 325 về thứ tự
ưu tiên thanh toán dành cho một số chủ thể có được quyền ưu tiên thanh tốn nhằm
giải quyết những tranh chấp phát sinh thứ tự ưu tiên cho giao dịch bảo đảm có đăng
ký, giao dịch bảo đảm không đăng ký và Điều 683 về thứ tự ưu tiên thanh tốn cho
người có quyền khi giải quyết những khoản nợ do người chết để lại. Tuy nhiên, thế
nào là quyền ưu tiên; các loại quyền ưu tiên; căn cứ phát sinh; căn cứ chấm dứt
quyền ưu tiên; điều kiện được hưởng quyền ưu tiên; nội dung quyền ưu tiên; thứ tự
thực hiện quyền ưu tiên... thì vẫn chưa được làm rõ.
Một số quyền ưu tiên được quy định ở những văn bản luật khác nhau như Bộ
luật Hàng hải, Luật Thi hành án dân sự, Luật Phá sản, Luật Hàng khơng dân dụng…
Nhiều quy định vẫn có nội dung còn tản mạn, chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Với
vai trị, vị trí là luật nền, luật chung của hệ thống pháp luật, Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2005 vẫn chưa thể hiện vai trị của mình trong việc quy định chế định quyền ưu
tiên. Vì vậy, quá trình thực hiện thứ tự ưu tiên trong thực tiễn vẫn còn nhiều lúng
túng, nhất là khi một nghĩa vụ tài sản bảo đảm cho nhiều người có quyền, tức phát
sinh nhiều quyền trên một tài sản thì quyền nào được ưu tiên thanh tốn và quyền

nào khơng được ưu tiên thanh toán hoặc theo thứ tự ưu tiên... Trong đó, sự xung đột
ngày càng gay gắt giữa chủ thể có quyền ưu tiên lấy trước với chủ thể có quyền ưu
tiên theo thỏa thuận và các chủ thể có quyền khác dẫn đến nhiều bất cập về thứ tự
ưu tiên thanh toán mà hiện nay chưa được giải quyết thỏa đáng.
Trong bối cảnh Việt Nam đang có sự cải cách pháp luật hồn thiện và có tính
tương đồng với pháp luật của các quốc gia trên thế giới như Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về cải cách pháp luật, cải cách tư pháp
đến năm 2020 đề cập: “Hoàn thiện pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành
mạnh...”. Dự thảo BLDS (sửa đổi) đã đề cập đến quyền ưu tiên trong phần các Vật
quyền khác được xem như là một chế định mới mà BLDS đề cập. Điều này cho
thấy quyền ưu tiên có ý nghĩa và vị trí rất quan trọng trong giao dịch dân sự hiện
nay mà pháp luật cần phải được điều chỉnh, quy định.
Nhằm nghiên cứu và làm rõ chế định quyền ưu tiên quy định trong BLDS một
cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện. Đồng thời, tiếp thu luật pháp dân sự của các
nước trên thế giới quy định về chế định quyền ưu tiên, từ đó kiến nghị hoàn thiện


2

pháp luật quyền ưu tiên theo pháp luật dân sự Việt Nam. Đó cũng là lý do tác giả đã
chọn đề tài “Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật dân
sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ cho mình.
Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về quyền ưu tiên đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đề
cập đến với những góc độ khác nhau, như:
- Trong cuốn: Bình Luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 - Bộ Tư pháp –
Viện khoa học pháp lý do tác giả Hồng Thế Liên chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2013: tác giả đã đề cập đến thứ tự ưu tiên thanh toán
theo quy định tại Điều 325 – Bộ luật dân sự 2005 và làm rõ về thứ tự ưu tiên thanh
toán quy định trong Bộ luật dân sự được xác định theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo

đảm. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập nhiều đến quyền ưu tiên trong bài viết của
mình mà chỉ đề cập đến thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản có biện pháp bảo
đảm và chủ yếu là giải thích từ ngữ quy định tại Điều 325 của Bộ luật.
- Trong “Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” của
tác giả Đỗ Văn Đại, sách chuyên khảo - Bản án và bình luận bản án, tập 1 và tập 2,
NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật Hà Nội, 2012, đề cập nhiều đến quyền được ưu
tiên thanh toán, nhất là ưu tiên thanh toán trên cơ sở tài sản của người có nghĩa vụ,
mặc dù khơng có biện pháp bảo đảm cầm cố hay thế chấp. Tác giả đã cho thấy
quyền được ưu tiên thanh toán phải thực hiện theo thứ tự đăng ký, tuy nhiên việc
thực hiện thứ tự ưu tiên trong thực tiễn pháp luật quy định còn thiếu, gặp nhiều lúng
túng khi giải quyết. Tác giả cũng đã cho thấy quyền ưu tiên do luật định có hiệu quả
hơn so với quyền ưu tiên trong các biện pháp bảo đảm do các bên xác lập, mặc dù
quyền ưu tiên theo luật chưa được quy định cụ thể. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập
nhiều đến quyền ưu tiên một cách cụ thể và có hệ thống và tác giả mong muốn sẽ có
nhiều cơng trình tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
- Trong cuốn “Bình luận khoa học về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong Luật
dân sự Việt Nam – NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2001” của tác giả Nguyễn Ngọc
Điện có bài phân tích về đặc quyền và quyền lưu giữ trong luật Hàng hải và đặc
quyền trong luật Dân sự, từ trang 203 đến 223. Tác giả đã cho thấy thứ tự thực hiện
ưu tiên trong bộ luật Hàng hải năm 1990 trong việc xử lý món nợ được bảo đảm,
nhất là quyền ưu tiên được đề cập bằng cách thực hiện thứ tự ưu tiên trong luật ấn
định (Điều 31 – BLHH 1990) và thứ tự ưu tiên trả nợ chỉ được tuân thủ một khi
việc trả nợ được thực hiện nhờ số tiền bán tài sản dùng làm vật bảo đảm cho nghĩa
vụ đối với các chủ nợ có đặc quyền. Tác giả xác định để có được quyền ưu tiên thì


3

chủ thể đó phải có đặc quyền và khi chủ thể có đặc quyền thì quyền ưu tiên được
thực hiện. Tác giả cũng đã cho thấy quyền ưu tiên do luật quy định sẽ có quyền ưu

tiên cao nhất và trước tiên nhất. Đối với việc xảy ra tranh chấp quyền lợi giữa
những người ưu tiên, tác giả có vẻ đồng ý theo quan điểm: các chủ nợ có đặc quyền
(quyền ưu tiên) ngang nhau và nếu số tiền dùng để trả nợ khơng đủ để thanh tốn
trọn, thì chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ. Tuy nhiên đối với một chủ nợ từ chối
quyền ưu tiên thì các chủ nợ khác như thế nào thì tác giả cịn bỏ ngỏ, chưa giải
quyết triệt vấn đề này.
- Trong cuốn “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức
tín dụng” của tác giả Lê Thị Thu Thủy (Chủ biên), NXB Tư pháp, Đại học Quốc gia
hà nội – Khoa luật, 2006, đã đề cập đến việc xác định thứ tự ưu tiên và cho biết nội
dung và phương pháp xác định thứ tự ưu tiên thường phụ thuộc vào chính sách lập
pháp của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, việc thiết lập thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý
tài sản bảo đảm căn cứ vào yếu tố cơ bản là: thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm
và thời điểm giao tài sản cho bên nhận bảo đảm giữ. Tác giả cũng đã chỉ ra trong
trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm tài sản thực hiện nhiều nghĩa vụ, khi
bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, bên nhận bảo đảm nào có thứ tự thứ nhất thì sẽ
được ưu tiên thanh toán trước từ số tiền thu được; số dư cịn lại mới được dùng để
thanh tốn lần lượt cho các chủ nợ có thứ tự ưu tiên tiếp theo. Trong giới hạn trình
bày, tác giả cũng chỉ nói chung trong việc xác lập thứ tự ưu tiên thanh tốn (chỉ có
04 trang, từ trang 259 đến trang 262), mà chưa phân tích cụ thể từng trường hợp xác
lập thứ tự ưu tiên thanh tốn.
Ngồi ra cịn một số bài viết có liên quan đến quyền ưu tiên, thứ tự ưu tiên
được đăng trên các tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp
chí Luật học, tài liệu từ các cuộc hội thảo, kỷ yếu hội thảo... của các chuyên gia luật
hiện nay, tuy nhiên trong giới hạn của bài viết chưa thể hiện hết nội dung về quyền
ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Tóm lại, về chế định quyền ưu tiên, đa số các tác giả đề cập một phần nhỏ của
quyền ưu tiên và thứ tự ưu tiên thanh toán, chưa làm rõ vị trí, vai trị tổng thể của
quy định về quyền ưu tiên. Cho đến nay chưa có tác giả nào hệ thống lại chế định
quyền ưu tiên và nêu cơ sở pháp lý hoặc căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền ưu tiên,
đồng thời chưa có luận văn nào nghiên cứu về quyền ưu tiên trong bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Có thể nói việc nghiên cứu đề tài về quyền ưu tiên là một vấn đề tuy không
mới, nhưng chưa có luận văn nào nghiên cứu về vấn đề này, tác giả muốn góp một


4

phần công sức để làm rõ về quyền ưu tiên, thứ tự ưu tiên trong pháp luật dân sự
Việt Nam. Đồng thời, việc nghiên cứu, tiếp thu, sử dụng một phần những bài viết
của các nhà nghiên cứu trên là tư liệu vô cùng quý giá để phục vụ viết luận văn. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài “Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo
pháp luật dân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ cho mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Thơng qua việc khảo sát, nghiên cứu, đánh giá quyền ưu tiên quy định trong
pháp luật dân sự Việt Nam, đồng thời so sánh, tham chiếu với những nội dung
tương ứng của quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về chế định này, góp phần
làm rõ về cơ sở lý luận, thực tiễn về quyền ưu tiên và từ đó hoàn thiện quy định
pháp luật dân sự Việt Nam về quyền ưu tiên trong bảo đảm nghĩa vụ.
- Luận văn đưa ra đề xuất, kiến nghị hoàn thiện về chế định quyền ưu tiên
trong pháp luật dân dân sự Việt Nam. Qua đó, thống nhất cách giải quyết quyền ưu
tiên trong việc thực hiện thanh toán theo nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản; bồi
thường, kê biên…
- Là tài liệu nghiên cứu tổng hợp cho các sinh viên nghiên cứu về quyền ưu
tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sau này.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu đề tài: tác giả nghiên cứu tất cả các quy định về quyền
ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật dân sự Việt Nam, đặc biệt
là trong Bộ luật dân sự 2005. Không nghiên cứu quyền ưu tiên nói chung, quyền ưu
tiên luật định, quyền ưu tiên khác không thuộc trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp, nhận định, đánh giá các văn bản pháp luật và thực tiễn xét xử, thi
hành án để đưa ra nhận xét, kiến nghị, phương pháp này được sử dụng xuyên suốt
trong quá trình làm luận văn. Sử dụng phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu,
so sánh nhằm tìm ra giải pháp, kiến nghị tối ưu nhất nâng cao chất lượng của Luật
nội dung. Cụ thể:
+ Phương pháp lịch sử, thống kê được sử dụng nghiên cứu các chế định về
quyền ưu tiên trong pháp luật dân sự Việt Nam trước đây, cùng với phương pháp
phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh các quy định trước và hiện nay về quyền ưu
tiên. Phương pháp này sử dụng xuyên xuốt trong quá trình làm luận văn.


5

+ Phương pháp so sánh pháp luật một số nước như Pháp, Nhật... và pháp luật
Việt Nam hiện hành quy định về quyền ưu tiên để thấy được những bất cập pháp
luật về quyền ưu tiên nhằm kiến nghị hoàn thiện trong pháp luật dân sự Việt Nam.
+ Phương pháp bình luận án được sử dụng chủ yếu ở chương II nhằm làm rõ
thực trạng pháp luật, bất cập trong việc áp dụng quyền ưu tiên, từ đó kiến nghị hoàn
thiện pháp luật.
Ý nghĩa khoa học và giá trị của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn làm rõ hơn về chế định quyền ưu tiên về
mặt lý luận và thực tiễn, từ đó kiến nghị bổ sung, hồn thiện chế định quyền ưu tiên
thanh tốn trong luật thực định.
- Kết quả nghiên cứu từ cơng trình sẽ là tư liệu tham khảo cho việc học tập,
nghiên cứu của các sinh viên và những ai quan tâm đến quyền ưu tiên trong bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ.
Bố cục của luận văn:
Luận văn được trình bày thành 2 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về quyền ưu tiên trong bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ
Chương 2. Bất cập của quy định về quyền ưu tiên trong bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và kiến nghị hoàn thiện.


6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN ƯU TIÊN
TRONG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền ưu tiên trong bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ
1.1.1. Khái niệm quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
1.1.1.1. Khái quát về quyền ưu tiên
Quyền ưu tiên không phải là vấn đề mới mẻ trong các học thuyết kinh điển
về pháp luật dân sự và đã được thể hiện trong Bộ luật dân sự của nhiều nước trên
thế giới1. Thật vậy, từ xưa, người La mã quan sát việc thực hiện các quyền từ thực
tiễn cuộc sống và phân loại thành hai nhóm quyền chính2:
- Nhóm thứ nhất, quyền tự thực hiện các quyền mà không cần hỏi ý kiến của
bất kỳ ai, thấu hiểu về các quyền tự do mà mình có được; nếu ai cản trở việc thực
hiện các quyền đó thì địi nhà chức trách bảo vệ - quyền đó có thể gọi là quyền chủ
quyền. Ví dụ: Chủ thể có quyền sở hữu tài sản, một khi tài sản của mình làm ra
hoặc mua, bán, chuyển nhượng và đang chiếm hữu hợp pháp mà bị xâm phạm, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền sở hữu của mình thì có thể u cầu nhà chức trách bảo vệ
cho chủ quyền của mình.
- Nhóm thứ hai, là các quyền mà khi muốn thực hiện, làm cho nó phát huy
giá trị thì phải cùng thực hiện với người khác hợp tác với mình. Ví dụ: Quyền yêu
cầu trả nợ - nếu con nợ không trả thì có quyền u cầu quan tịa bảo vệ, cưỡng chế
đòi tiền.
Quyền tự thực hiện trực tiếp trên vật và quyền thực hiện trên cơ sở sự hợp
tác, thực hiện của người khác gọi là nhóm vật quyền và nhóm trái quyền. Trái

quyền hay cịn gọi là quyền đối nhân được hiểu là quyền của một chủ thể đối với
một chủ thể khác. Vật quyền hay còn gọi là quyền đối vật là quyền của chủ thể tác
động lên một vật. Dựa trên nền tảng triết lý về vật quyền và trái quyền, ta có quyền
ưu tiên.
Quyền ưu tiên sinh ra là để thực hiện một đặc quyền, cho phép chủ thể có
quyền được thực hiện trước những chủ thể khác trong việc thanh toán giá trị tài sản
1

Lê Thị Hoàng Thanh (2012),“Một số vấn đề về việc xây dựng quy định về quyền ưu tiên trong BLDS Việt
Nam”, Tọa đàm tại Bộ Tư pháp trong khuôn khổ dự án JICA ngày 19/11/2012, Hà Nội.
2
Nguyễn Ngọc Điện (2011), “Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyền đối với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 2+3 (187+188)), tr. 92-96.


7

nhằm xử lý nợ. Để hiểu một cách khái quát về quyền ưu tiên mà một số quốc gia đã
nghiên cứu, quy định trong luật thực định, tác giả đưa người đọc tìm hiểu trước về
biện pháp bảo đảm được thiết kế theo lý thuyết trái quyền bảo đảm và vật quyền
bảo đảm. Bởi vật quyền bảo đảm tạo ra quyền trực tiếp của chủ nợ có bảo đảm đối
với giá trị kinh tế của tài sản bảo đảm, thể hiện ở quyền theo đuổi (a right to
follow/droit de suite) và quyền ưu tiên (a right of the priority/droit de préférence)
của chủ nợ bảo đảm. Vật quyền bảo đảm là vật quyền được thừa nhận cho chủ nợ
có bảo đảm đối với một hoặc nhiều tài sản3. Vật quyền bảo đảm được xem là biện
pháp bảo đảm đối vật. Còn trái quyền bảo đảm là bảo đảm theo đó một trái quyền
được tăng cường bởi một trái quyền khác. Trái quyền bảo đảm còn được xem là
biện pháp bảo đảm đối nhân (tiêu biểu là biện pháp bảo lãnh).
Khác với bảo đảm đối nhân, bảo đảm đối vật có tác dụng mang lại cho chủ
nợ có các quyền đặc biệt trên một hoặc nhiều tài sản của người mắc nợ. Nội dung

chính của quyền này trong quan niệm của Luật học phương Tây đó là quyền ưu
tiên, nhờ đó, mà chủ nợ được phép nhận tiền thanh toán từ giá bán các tài sản liên
quan, trước các chủ nợ không có bảo đảm và quyền theo đuổi, giúp cho chủ nợ ln
có tài sản bảo đảm để bán mà thu hồi nợ đến hạn dù quyền sở hữu có thể di chuyển
qua tay nhiều người trong lúc nợ còn chưa đến hạn địi4. Bảo đảm đối vật cho người
có quyền một quyền tương đối đặc biệt, bởi nó tạo cho người chủ nợ một quyền trên
giá trị tài sản, quyền được ưu tiên thanh toán và quyền theo đuổi tài sản. Tuy nhiên,
nếu quyền ưu tiên được thừa nhận cho tất cả các chủ nợ có bảo đảm đối vật, thì
quyền theo đuổi chỉ được dự liệu cho một vài loại chủ nợ đặc biệt, một khi việc
thực hiện quyền này có cơ sở hiện thực và nhất là khơng gây phương hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Như vậy có thể thấy rằng, quyền ưu tiên luôn hiện hữu trong các lý thuyết về
vật quyền và trái quyền, nhất là trong các biện pháp bảo đảm đối vật. Để làm rõ hơn
về quyền ưu tiên thì cần tìm hiểu khái quát về quyền ưu tiên trong bảo đảm đối vật
có nguồn gốc từ kết ước và quyền ưu tiên trong bảo đảm đối vật có người gốc do
luật định.
Thứ nhất: Quyền ưu tiên trong bảo đảo đối vật có nguồn gốc từ kết ước: từ
fiducia đến hypothecam – Luật La Mã nguyên sơ không biết đến một quyền đối vật
nào khác ngoài quyền sở hữu, vì vậy bảo đảm đối vật cho việc thực hiện nghĩa vụ
chỉ bao gồm một chế định duy nhất – fiducia cum creditore – mà nội dung có thể
3

Lê Thị Hồng Thanh (2012), tlđd 1.
Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong Luật dân sự Việt Nam,
NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 183.

4


8


tóm gọn trong vài từ: người vay nợ chuyển quyền sở hữu một hoặc nhiều tài sản của
mình cho chủ nợ; một khi chủ nợ được trả đủ, thì chủ nợ chuyển quyền sở hữu các
tài sản liên quan trở lại cho người vay nợ. Người vay chỉ được phép dùng tài sản
bảo đảm cho một món nợ cho dù khoản vay có thể thấp hơn giá trị tài sản. Fiducia –
Lòng tin – là cơ sở duy nhất của sự bảo đảm mà người vay có thể dựa vào khi tiến
hành giao dịch. Lúc này người chiếm giữ tài sản có thể khơng nhất thiết là chủ sở
hữu tài sản đó, người ta nghĩ ra thêm một kỹ thuật bảo đảm – pignus (cầm cố) – cho
phép người vay bảo tồn quyền sở hữu của mình đối với tài sản dùng làm vật bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ và được giao cho chủ nợ giữ trong thời gian nợ chưa được trả.
Tuy nhiên, biện pháp này có mặt tốt như chủ nợ được hưởng hoa lợi gắn liền với tài
sản được giao cho mình và quyền lưu giữ tài sản nhưng mặt khác người vay có thể
khơng thu hồi được các động sản dùng làm vật bảo đảm nghĩa vụ trong trường hợp
người vay không trả và cũng không thể chứng minh đó là tài sản của mình (nhất là
tài sản của mình lẫn lộn với tài sản của người khác). Từ đó bắt đầu hình thành quan
niệm về bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản mà không cần giao tài sản cho người khác
giữ. Đầu tiên chủ nợ có thể để tài sản cho người mắc nợ chiếm giữ với tư cách
người chiếm giữ tạm hoặc cho thuê; nếu người vay khơng trả được nợ thì chủ nợ có
thể tự mình chiếm lấy tài sản hoặc dù có bị bán đi thì chủ nợ cũng có quyền theo
đuổi để đòi lại tài sản. Từ thế kỷ thứ I sau cơng ngun, chủ nợ có quyền bán tài sản
liên quan, thậm chí giữ ln tài sản làm của riêng. Rồi Constantin đã hủy bỏ quy
định cho phép chủ nợ chiếm giữ tài sản làm của riêng và hypothèque (để đương),
một thuật ngữ gốc Hy Lạp, ra đời và tồn tại gage, để chỉ một quan hệ pháp lý đặc
biệt: người thụ hưởng hypothèque khơng có quyền sở hữu cũng chẳng được phép
cầm giữ tài sản liên quan, mà chỉ có quyền ưu tiên thu hồi nợ bằng cách bán tài sản
và quyền theo đuổi tài sản qua các cuộc chuyển nhượng5.
Thứ hai: Quyền ưu tiên trong bảo đảm đối vật có nguồn gốc do luật định:
privita lex – Có nhiều trường hợp mà trong đó một chủ nợ khơng có bảo đảm được
luật dành cho quyền ưu tiên, so với các chủ nợ khơng có bảo đảm khác, trong việc
nhận tiền thanh toán bằng giá bán các tài sản của người mắc nợ, cho đến khi phân

chia tiền bán tài sản của người mắc nợ, chủ nợ có quyền ưu tiên khơng khác gì mọi
chủ nợ khơng có bảo đảm khác: tất cả đều được đại diện bởi nhân vật pháp lý đặc
biệt gọi là magister bonorum - người có trách nhiệm bán các tài sản của người mắc
nợ, sau đó sẽ thanh tốn cho người có đặc quyền trước rồi mới đến các chủ nợ khác.
Tuy nhiên có trường hợp vì chủ nợ có bảo đảm đối vật nên đôi khi họ không thông
qua magister bonorum, họ tự thực hiện việc chiếm giữ tài sản hoặc bán để trừ nợ, vì
5

Nguyễn Ngọc Điện (2001), tlđd 4, tr. 185-186.


9

vậy những chủ nợ có đặc quyền khơng được ưu tiên trả nợ trước. Chủ nợ có đặc
quyền do đó khơng thể lấn lướt các chủ nợ có bảo đảm đối vật theo hợp đồng trong
thứ tự ưu tiên đòi nợ. Suy cho cùng, “đặc quyền trong quan niệm cổ La Mã không
phải là một quyền đối vật mà chỉ là một chế định có tác dụng tăng cường hiệu lực
của quyền chủ nợ khơng có bảo đảm”6. Về sau, luật La Mã thời kỳ cuối còn thiết
lập chế định để đương có đặc quyền để giải quyết vấn đề thứ tự trả nợ trong trường
hợp nhiều chủ nợ để đương.
Luật cổ của Pháp, sau khi hủy bỏ biện pháp để đương đối với động sản, đã
xây dựng khái niệm đặc quyền trên các động sản cụ thể và sau đó khái niệm đặc
quyền trên các bất động sản cụ thể (từ các ý tưởng dựa trên nền của chế định để
đương có đặc quyền của luật Byzantin): bắt đầu hình thành đặc quyền mang tính
chất của quyền đối vật. Từ một lúc nào đó, người ta quyết định rằng chủ nợ có đặc
quyền được nhận tiền thanh tốn nợ trước các chủ nợ để đương. Bộ luật Napoléon
thừa nhận các đặc quyền bên cạnh các bảo đảm đối vật khác, cũng như sự ưu tiên
của chủ nợ có đặc quyền so với chủ nợ có bảo đảm đối vật khác.
Luật thực định Pháp ghi nhận sự tồn tại của khoảng hơn 170 loại đặc quyền.
Có những chủ nợ như Kho bạc, thậm chí khơng thể thống kê cho đủ các đặc quyền

mà mình có được. Sự “lạm phát đặc quyền” dẫn đến hai hậu quả tất yếu: Thứ nhất:
việc xếp loại yêu tiên các đặc quyền trở thành vấn đề hết sức rắc rối và chỉ có thể
giải quyết tùy theo trường hợp chứ khơng có giải pháp ngun tắc. Thứ hai: nhiều
đặc quyền chỉ có giá trị trên giấy tờ, do luôn bị lấn át bởi các đặc quyền khác trong
thực tiễn áp dụng pháp luật.
Như vậy, lý thuyết quyền ưu tiên đã tồn tại từ thời pháp luật La Mã, và
nguồn gốc của quyền ưu tiên trong bảo đảm đối vật có căn cứ phát sinh từ việc kết
ước và do luật định. Ta có thể khẳng định quyền ưu tiên là một chỉnh thể được tạo
nên bởi hai nhân tố: quyền ưu tiên là đặc quyền lấy trước được pháp luật ghi nhận
và quyền ưu tiên theo thỏa thuận.
1.1.1.2. Khái quát bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc khác hoặc khơng thực hiện cơng việc nhất định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi chung là bên có quyền)7. “Nghĩa vụ
dân sự có thể bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định
6
7

Nguyễn Ngọc Điện (2001), tlđd 4, tr. 187.
Xem Điều 280 BLDS 2005.


10

của pháp luật”8. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được hiểu “là biện
pháp trong đó một bên sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc uy tín
củn mình (gọi là bên bảo đảm) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của
mình hoặc của chủ thể khác (gọi là bên được bảo đảm)”9.
“Bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba cam kết bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặc cọc, bên ký cược,
bên ký quỹ, bên bão lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín
chấp”10. “Bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ dân sự mà việc thực
hiện quyền đó được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm, bao gồm bên
nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặc cọc, bên nhận ký cược, bên nhận
bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong trường hợp tín chấp và bên có quyền được ngân
hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại trong trường hợp ký quỹ”11.
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là mối quan hệ pháp lý được thiết lập giữa một
bên là người cam kết bảo đảm và bên kia là người thụ hưởng biện pháp bảo đảm, đó
là mối quan hệ nghĩa vụ đích thực, nghĩa là có tác dụng tạo ra một trái quyền mà
người thụ hưởng biện pháp bảo đảm được phép chống lại người cam kết bảo đảm12.
Pháp luật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ xây dựng không nằm ngồi mục đích
bảo đảm cho khả năng của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự tự chịu trách nhiệm
về tài sản, bảo đảm nguyên tác tự do, tự nguyện và bình đẳng.
Điều kiện đặt ra để được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì buộc bên có quyền
phải đăng ký bảo đảm đối với tài sản mà mình được bảo đảm. Để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ thì các bên tham gia giao dịch phải thỏa thuận biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ bởi “nếu các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ phát sinh
khác nhau (các căn cứ này có thể là do sự thỏa thuận, có thể là do quy định của
pháp luật), thì biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh thơng qua
thỏa thuận của các bên trong một giao dịch dân sự”13.
Qua nghiên cứu, ta thấy có thể phân loại các dạng bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bao gồm:
8

Xem Khoản 1, Điều 319 BLDS 2005.
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 286.
10
Khoản 1, Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm.

11
Khoản 2, Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm.
12
Nguyễn Ngọc Điện (2013), “Xây dựng lại hệ thống pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trên cơ sở lý thuyết vật
quyền và trái quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (01 (233)), tr. 19-22.
13
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, (Tập 2),
tr. 61.
9


11

- Thứ nhất: Căn cứ nguồn gốc quan hệ bảo đảm gồm 03 loại:
Một là: Bảo đảm theo luật định: là các quyền ưu tiên được pháp luật ghi nhận
cho một số chủ thể xác định, bao gồm chủ yếu Nhà nước (đối với các khoản nợ
thuế), người lao động (các khoản nợ lương)...
Hai là: Bảo đảm theo thỏa thuận: quyền ưu tiên thông qua các biện pháp bảo
đảm được xác lập trên cơ sở một hợp đồng (hợp đồng cầm cố, thế chấp…) được
pháp luật quy định.
Ba là: Bảo đảm theo quyết định của tòa án: quyền ưu tiên thơng qua biện
pháp bảo đảm do Tịa án quyết định theo u cầu của bên có quyền (ví dụ: chủ nợ
cho rằng có nguy cơ khơng thu hồi được khoản nợ của mình thì có thể u cầu Tịa
án tun mình được ưu tiên thanh tốn trước và áp dụng các biện pháp bảo đảm để
bảo toàn tài sản con nợ).
- Thứ hai: Căn cứ theo tính chất của biện pháp bảo đảm:
Một là: Trái quyền bảo đảm là biện pháp theo đó một trái quyền được tăng
cường bởi một quyền khác (tiêu biểu là biện pháp bảo lãnh).Trái quyền bảo đảm
còn gọi là các biện pháp bảo đảm đối nhân gồm có bảo lãnh, bão lãnh độc lập, thư
bảo trợ.

Hai là: Vật quyền bảo đảm là vật quyền được thừa nhận cho các chủ nợ có
bảo đảm đối với một hoặc nhiều tài sản. Về vật quyền bảo đảm hay còn gọi là các
biện pháp bảo đảm đối vật gồm có nhiều loại quyền khác nhau như: quyền ưu tiên
đối với động sản, cầm cố động sản hữu hình, cầm cố động sản vơ hình, bảo lưu
quyền sở hữu động sản, các quyền ưu tiên đối với bất động sản, cầm cố bất động
sản, thế chấp bất động sản, quyền cầm giữ tài sản.Vật quyền bảo đảm lại được chia
thành nhiều loại khác nhau:
+ Theo hệ quả của biện pháp bảo đảm gồm có: vật quyền chỉ là quyền ưu
tiên chứ khơng có quyền nào khác nữa (ví dụ: quyền ưu tiên chung theo luật định);
vật quyền bao gồm cả quyền ưu tiên và quyền theo đuổi (ví dụ vật quyền phát sinh
từ thế chấp); vật quyền là quyền tuyệt đối đối với tài sản (ví dụ như các biện pháp
bảo đảm bằng quyền sở hữu bao gồm bảo lưu và chuyển giao quyền sở hữu).
+ Theo phạm vi của vật quyền gồm: vật quyền bảo đảm chung là vật quyền
đối với tất cả tài sản của cơn nợ, ví dụ như quyền ưu tiên của Nhà nước (nợ thuế,
người lao động (nợ tiền lương); vật quyền bảo đảm cụ thể là vật quyền đối với một
hoặc nhiều tài sản xác định.


12

+ Theo tính chất của tài sản gồm có vật quyền bảo đảm đối với động sản, bao
gồm động sản hữu hình và động sản vơ hình; vật quyền bảo đảm đối với bất động sản.
+ Theo phương thức xác lập bảo đảm bao gồm có vật quyền bảo đảm chuyển
giao tài sản; vật quyền bảo đảm không chuyển giao tài sản.
Một lần nữa, lý thuyết quyền ưu tiên luôn hiện hữu trong các cách phân loại
khác nhau về vật quyền bảo đảm và trái quyền bảo đảm.
Tóm lại, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà tác giả trình bày trong luận văn của
mình là bảo đảm cho nghĩa vụ được thanh toán từ tài sản của con nợ. Qua đó, quyền
ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là quyền được thanh tốn trước các chủ
thể có quyền khác. Quyền ưu tiên không chỉ hiện diện trong những biện pháp bảo

đảm nghĩa vụ hình thành do thỏa thuận của các bên, mà hiện diện cả trong bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ được hình thành do pháp luật ghi nhận, đó là đặc quyền lấy trước
của một số chủ thể mà không cần bảo đảm bằng tài sản.
1.1.1.3. Khái niệm quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay chưa quy định thế nào là quyền
ưu tiên và cũng chưa có khái niệm quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Có chăng là sự hiện diện quyền ưu tiên nằm rãi rác một số văn bản luật và đề cập ở
những góc độ khác nhau. Quyền ưu tiên là một khái niệm không mới nhưng lại
chưa được đặt tên chính danh trong luật thực định Việt Nam. Trong thực tiễn pháp
lý, quyền ưu tiên có một vị trí rất quan trọng, nhất là trong xung đột lợi ích giữa các
chủ nợ cần thanh toán và tranh chấp quyền lợi trong việc ưu tiên thanh toán diễn ra
ngày càng gay gắt. Để làm rõ quyền ưu tiên là gì, cần thiết phải có một khái niệm về
quyền ưu tiên trong dân sự nói chung nhằm hiểu một cách đúng đắn về quyền ưu
tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Xét về ngôn từ, “Ưu” tức là tốt, đặc biệt; “Tiên” tức là trước, đầu. Chữ
“Tiên” ở đây ta thường bắt gặp ở các thành ngữ như “Tiên trách kỷ, hậu trách
nhân” hay là “Tiên học lễ, hậu học văn”. “Ưu tiên” được hiểu là được hưởng trước
những người khác, vì được coi trọng hơn. Hiểu một cách nơm na thì “Quyền ưu
tiên” được hiểu là quyền của một chủ thể được làm trước một việc, được thực hiện
trước những người khác với một số điều kiện nhất định.
Quyền ưu tiên, theo tiếng anh là “The Right of Priority” xuất hiện trong công
ước quốc tế khi sử dụng trong việc bảo hộ sở hữu công nghiệp mà các nước thành
viên tham gia ký kết tại Paris năm 1883 là:


13

Quyền của một người nộp đơn trên cơ sở nộp đơn đầu tiên hợp lệ đến một
quốc gia khác là thành viên điều ước quốc tế có quy định quyền ưu tiên, trong một
thời gian nhất định người nộp đơn bảo hộ có thể nộp đơn đến các quốc gia thành

viên khác và đơn đó được xem là cùng thời điểm khi người nộp đơn đầu tiên tại
nước mình14.
Bộ luật dân sự Pháp đã đưa ra khái niệm quyền ưu tiên (tiếng Pháp là “droit
de préférence”) tại Điều 2095 đó là: “Quyền ưu tiên là quyền của người có quyền
được ưu tiên thanh tốn nghĩa vụ trước những người có quyền khác, kể cả người có
quyền đã nhận thế chấp” 15.
Trong pháp luật dân sự có quy định một số loại quyền ưu tiên, nên ta cần
phân biệt các loại quyền ưu tiên như quyền ưu tiên mua; (được ưu tiên mua trong tài
sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người…); quyền ưu tiên bán (được ưu tiên
bán trước), quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (đảm bảo thực hiện cho
các chủ nợ, ai được xử lý trước tài sản đó, tài sản đó ai sẽ là người được lấy trước),
quyền ưu tiên trong thừa kế (những khoản nợ được ưu tiên thanh toán trong thừa
kế)... Tuy nhiên, trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì chỉ bao gồm quyền ưu tiên
theo luật định và theo thỏa thuận.
Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ còn được hiểu là đặc quyền
lấy trước, tức là chủ nợ bảo đảm sẽ có quyền nhận khoản thanh tốn cho trái quyền
của mình trước người có trái quyền khác đối với tài sản của bên có nghĩa vụ.
Đề cập đến quyền ưu tiên, đã có tác giả định nghĩa quyền ưu tiên: “Quyền ưu
tiên nghĩa là người có quyền đối vật được ưu tiên thực hiện quyền của mình trên vật
trước tất cả những người khác” 16.
Ngồi ra, có tác giả đã đưa ra khái niệm quyền ưu tiên: “Vật quyền cho phép
người có quyền thực hiện quyền của mình đối với vật nhằm thỏa mãn lợi ích theo
đuổi trước những người khác, đặc biệt là những người theo đuổi cùng lợi ích đó.
Luật đó gọi là quyền ưu tiên” 17.

14

Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp năm 1883 (Paris Convention for the Protection of
Industrial Property – Paris Convention).
15

Bản dịch Bộ luật Dân sự Pháp.
16
Hồ Quang Huy (2011), “Vật quyền bảo đảm – Những vấn đề lý luận đặt ra quá trình cải cách pháp luật dân
sự ở nước ta”, trích nguồn Cổng thơng tin điện tử Bộ tư pháp, đăng ngày 9/12/2011, truy cập lúc 10 giờ ngày 23/06/2014.
17
Nguyễn Ngọc Điện (2011), tlđd 2, tr. 92 - 96.


14

Hiểu một cách cơ bản, quyền ưu tiên mà 02 tác giả trên đề cập là hoàn toàn
đúng, bởi “vật quyền hàm chứa quyền ưu tiên”18. Vật quyền tạo ra quyền ưu tiên
cho bên có quyền thực hiện trước những người khác. Đây cũng là định nghĩa, khái
niệm chung về các loại quyền ưu tiên mà các tác giả trên đề cập. Đối với quyền ưu
tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì ngồi việc được ưu tiên thực hiện trước
còn phải thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định như: việc đăng ký quyền ưu
tiên, công khai đối kháng với người thứ ba, thứ tự thực hiện quyền ưu tiên chung
hay riêng, tài sản có bảo đảm hay khơng có bảo đảm... Có thể thấy, quyền ưu tiên
trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tức là quyền được làm trước những người khác,
được quy định một cách hợp pháp theo quy định hoặc đã được thỏa thuận. Đây
được hiểu là quyền của một cá nhân, chủ thể được thực hiện trước tất cả các cá
nhân, chủ thể khác khi có sự tranh chấp, xung đột về lợi ích trên cùng tài sản của
người mắc nợ hoặc tranh chấp về lợi ích thanh tốn trên sản nghiệp của chủ sở hữu.
Từ những phân tích, tổng hợp trên và trong giới hạn đề tài nghiên cứu quyền
ưu tiên, tác giả tạm đưa ra khái niệm quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ như sau: “Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là khả năng xử sự
của bên chủ nợ có bảo đảm được phép yêu cầu bên mắc nợ phải thanh toán nợ cho
mình trước khi thanh tốn cho các chủ nợ khác nếu tài sản bảo đảm bị xử lý theo
quy định của pháp luật”.
Nội hàm của khái niệm trên đây có thể được hiểu theo các khía cạnh sau đây:

- Thứ nhất: Quyền ưu tiên là một dạng quyền; đó là quyền của chủ thể được
thanh toán nghĩa vụ về tài sản và quyền này được pháp luật quy định. Quyền ưu tiên
trong khái niệm mà tác giả đã đưa ra là quyền của các chủ thể có quyền, bao gồm:
Quyền ưu tiên thanh toán theo luật định như: Kho bạc, cơ quan thuế, người lao
động, người được bồi thường thiệt hại... và quyền ưu tiên thanh toán theo thỏa thuận
(qua giao dịch bảo đảm xác lập hợp đồng theo thỏa thuận) như: cầm cố, thế chấp...
- Thứ hai: Bên có nghĩa vụ là bên phải trả nợ cho chủ thể có quyền. Bên có
nghĩa vụ về trả nợ về tài sản có thể là cơng ty, doanh nghiệp mắc nợ thuế nhà nước,
nợ tiền cơng lao động, người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho trẻ thành niên, người có
nghĩa vụ bồi thường khi sai phạm, tiền phạt... và cũng bao gồm ln những người
mắc nợ mà khơng có khả năng chi trả sau khi đã ký kết các hợp đồng thế chấp, cầm

18

Đỗ Văn Đại (2014), “Vật quyền bảo đảm: Kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam?”, tài liệu Hội thảo
quốc tế Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày
29/09/2014, tr. 141.


15

cố... Người có nghĩa vụ phải thanh tốn từ giá trị tài sản cho người có quyền khi tài
sản được xử lý.
- Thứ ba: Tác giả đã phân biệt giữa quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ với các quyền ưu tiên khác. Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bao gồm quyền ưu tiên trong giao dịch bảo đảm (cầm cố, thế chấp...); quyền ưu
tiên theo luật định (các khoản chi phí phải trả trước như chi phí bảo quản, đấu giá,
tiền nợ thuế, bồi thường thiệt hại...) và cả quyền ưu tiên trong cầm giữ mà pháp luật
chuyên ngành (luật hàng hải, luật hàng khơng dân dụng...) quy định như chi phí trục
vớt, sữa chữa, cứu hộ... Vì vậy, tài sản xử lý để trả nợ là bao gồm tài sản là động

sản, tài sản là bất động sản hoặc kể cả sản nghiệp của người có nghĩa vụ.
- Thứ tư: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là bảo đảm thanh toán nợ trong dân sự,
chứ không phải là nghĩa vụ cung ứng hay dịch vụ gì. Vì vậy, việc thực hiện quyền
ưu tiên là theo quy định pháp luật dân sự. Trường hợp pháp luật dân sự chưa quy
định hoặc có quy định nhưng chưa cụ thể thì áp dụng pháp luật chuyên ngành có
liên quan để giải quyết. Pháp luật dân sự sẽ quy định các quyền ưu tiên theo luật
định và theo giao dịch bảo đảm (thỏa thuận). Những quyền ưu tiên có liên quan đến
xử lý tài sản là tàu, thuyền, máy bay, tài sản của doanh nghiệp hoặc thi hành án... thì
sẽ có pháp luật chun ngành điều chỉnh (như Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản,
Luật Thi hành án Dân sự, Bộ luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng...).
Tóm lại, với khái niệm trên, tác giả đã xây dựng một khái niệm chung nhất
về quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật dân sự. Khái
niệm này bao gồm cả quyền ưu tiên thanh toán trong giao dịch bảo đảm và quyền
ưu tiên được pháp luật ghi nhận mà đặc trưng cơ bản, chung nhất của cả hai loại
quyền ưu tiên này chỉ có nhiệm vụ duy nhất đó là quyền được thanh tốn trước
những người có quyền khác. Dù chủ thể có quyền ưu tiên thanh toán trong giao dịch
bảo đảm hay quyền ưu tiên thanh tốn theo luật định thì đó cũng là quyền được
thanh toán trước trong mọi trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và nghĩa vụ này
chính là nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh quyền ưu tiên trong bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ là theo pháp luật dân sự.
Với khái niệm này, người tìm hiểu luật sẽ dễ dàng hiểu được quyền ưu tiên
cũng chính là quyền được thanh tốn trước cho chủ thể có quyền và quyền ưu tiên
cũng là ngơn từ đang sử dụng để chỉ về đặc quyền lấy trước mà ta thường thấy trong
văn bản pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới đang sử dụng như: Nhật bản,
Pháp, Campuchia...


16

Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tức là quyền được thanh

tốn trước của bên có quyền, nếu khơng có quyền ưu tiên thì thứ tự ưu tiên thanh
tốn sẽ đảo lộn, mất cân bằng vì ai cũng có quyền giành giật lợi thế cho mình, thậm
chí họ có thể tự thực hiện cách thu hồi nợ không theo quy định của pháp luật, dễ
dẫn đến những sai phạm khác… Vì vậy, quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện quyền được ưu tiên thanh toán
trước những người khác, thể hiện ở chỗ:
- Đảm bảo công bằng cho những chủ thể có quyền: là thể hiện tính công
bằng, dân chủ của pháp luật Việt Nam. Bởi người có quyền ưu tiên phải là chủ thể
đã được pháp luật ghi nhận và theo pháp luật quy định quyền ưu tiên. Khi có được
quyền ưu tiên thì nhà nước là người đảm bảo cho họ được thực hiện.
- Cân nhắc cho những chính sách xã hội: như bảo hộ cho những người có
quyền ưu tiên nhưng bị yếu thế về xã hội; rủi ro về kinh tế, bất lợi về mặt xã hội. Đó
là sự duy trì một xã hội có trật tự, ổn định phát triển theo một hướng chung, thống
nhất trong cách xử lý bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ví dụ như nợ lương của
những người lao động, những người trông coi, bảo quản tài sản bảo đảm…
- Bảo hộ quyền của người có trái quyền thơng thường: người mắc nợ phải có
nghĩa vụ trả nợ cho số tiền mà mình đã vay mượn, đã ký kết giao dịch. Tuy nhiên
không chỉ một tài sản bảo đảm, mà còn nhiều tài sản bảo đảm cho nhiều món nợ
khác nhau, quyền ưu tiên ra đời là để bảo hộ cho những trường hợp con nợ cần phải
xử lý tài sản bảo đảm trả nợ theo một trình tự, thứ tự có sự can thiệp của pháp luật
tránh sự giành giật tài sản và không theo quy định pháp luật, dẫn đến sai phạm.
- Ngoài ra cịn có ý nghĩa cho việc bảo hộ một số ngành nghề đặc biệt mà
theo quy định của nhà nước, họ được bảo hộ và một số quyền chỉ được ưu tiên theo
quy định của pháp luật như: các loại chi phí trong cầm giữ tàu biển, tàu bay; hoặc
các loại án phí, các chi phí cho thi hành án, chi phí định giá, tiền cấp dưỡng, tiền bồi
thường thiệt hại, tiền phạt, tiền lo ma chay...
Tóm lại, việc quy định quyền ưu tiên có ý nghĩa to lớn cả về lý luận lẫn thực
tiễn, thể hiện qua hai việc: Thứ nhất, đó là việc thể hiện ý chí của nhà lập pháp
trong việc bảo đảm dung hòa hiệu quả kinh tế của bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cần phải mang lại tính hiệu quả cao, nếu

khơng sẽ khơng xuất hiện tín dụng hay trường hợp một chủ nợ sẽ khơng cho vay
nếu khơng có được biện pháp bảo đảm hiệu quả; Thứ hai, đó là để bảo vệ con nợ.
Về bản chất, quy định quyền ưu tiên là thể hiện mối quan tâm mang tính xã hội hơn
là kinh tế. Vì vậy, quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mang ý nghĩa


17

cân đối giữa hiệu quả kinh tế và sự công bằng xã hội, bảo vệ con nợ trong một số
trường hợp.
1.1.2. Đặc điểm của quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Quyền ưu tiên là loại quyền đặc biệt, vừa dựa trên nền tảng triết lý vật quyền
nhưng cũng vừa mang tính trái quyền. Có thể nói, quyền ưu tiên là một dạng quyền
mang đặc điểm “lưỡng tính”, vì hàm chứa trong đó tính chất của cả vật quyền và
trái quyền. Cụ thể:
- Bản chất của quyền ưu tiên là quyền được lấy trước hay thanh toán trước.
Đặc quyền lấy trước là đặc điểm nổi trội nhất, thể hiện bản chất của quyền
ưu tiên, cho dù đó là quyền ưu tiên được pháp luật ghi nhận hay quyền ưu tiên trong
giao dịch bảo đảm. Bản chất của quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
chính là để làm căn cứ xác định thứ tự ưu tiên cho chủ thể có quyền và yêu cầu bên
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tài sản cho mình trước các chủ thể
có quyền khác.
Đối với giao dịch bảo đảm thì người có tài sản bảo đảm đến thời hạn trả nợ
thì khi xử lý tài sản bảo đảm phải ưu tiên thanh toán cho người đăng ký trước hoặc
xác lập trước theo thứ tự đăng ký hoặc xác lập19. Chỉ có người có đăng ký hoặc xác
lập giao dịch thì mới có quyền ưu tiên lấy trước so với những người có đăng ký sau
hoặc khơng có đăng ký. “Bên nhận bảo đảm được ưu tiên thanh toán từ tài sản
được sử dụng làm vật bảo đảm, nếu việc bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ dân sự này
được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”20. Hay nói cách khác, chủ nợ có
vật quyền bảo đảm được xác lập trước sẽ được phép lấy trước tiền thanh toán từ tiền

bán tài sản, chủ nợ có vật quyền bảo đảm xác lập sau phải chấp nhận thanh tốn sau
từ những gì cịn lại trong giá bán tài sản21.
Đối với quyền ưu tiên lấy trước của chủ nợ đối với tài sản không đăng ký
bảo đảm nhưng được pháp luật quy định (hay còn gọi là chủ thể có đặc quyền) thì
được ưu tiên thanh tốn trước cả giao dịch có đăng ký tài sản bảo đảm. Đây là chủ
thể được xem là chủ nợ có đặc quyền chỉ có thể tham gia vào quan hệ xử lý tài sản
bảo đảm với vị trí đặc biệt, thể hiện ở chỗ họ được ưu tiên, hay nói đúng hơn là họ
có đặc quyền thanh tốn các khoản nợ trước tất cả các chủ nợ khác mà không quan
tâm đến thời gian đăng ký hay xác lập hợp đồng của các chủ nợ đối với bên có
19

Điều 325 BLDS 2005.
Hồng Thế Liên (Chủ biên) (2013), Bình Luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 (tập II), Bộ Tư pháp –
Viện Khoa học Pháp lý, NXB Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, tr. 76.
21
Nguyễn Ngọc Điện (2013), tlđd 12, tr. 19-22.
20


18

nghĩa vụ22. Đặc quyền ưu tiên này được một số quốc gia xếp vào loại vật quyền bảo
đảm pháp định, không cần đăng ký công khai.
- Quyền ưu tiên là căn cứ pháp lý cho phép chủ nợ được quyền theo đuổi
nhằm bảo đảm nghĩa vụ được thực hiện.
Quyền ưu tiên trong bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có đặc điểm của một quyền
đối với vật nên khi tài sản đã được đăng ký là tài sản bảo thì chỉ được thanh tốn
cho người có quyền ưu tiên. Cho dù tài sản đó đang nằm trong tay ai thì chủ nợ có
bảo đảm vẫn có thể theo đuổi, truy địi tài sản đó để đảm bảo thực hiện bởi biện
pháp bảo đảm được xác lập trên các tài sản đặc định23.

Ví dụ: Theo quy định BLDS thì: “Bên nhận cầm cố có quyền sau đây: yêu
cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó”24 hay
bên nhận thế chấp có quyền “yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản
thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý trong trường hợp đến hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa
vụ”25. Ngồi ra, “trong trường hợp bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế
chấp không phải là hàng hóa ln chuyển trong q trình sản xuất, kinh doanh mà
khơng có sự đồng ý của bên nhận thế chấp thì bên nhận thế chấp có quyền thu hồi
tài sản thế chấp”26.
Trong trường hợp nghĩa vụ bảo đảm thực hiện thanh tốn đối với tồn bộ tài
sản hoặc sản nghiệp của bên có nghĩa vụ thì tồn bộ tài sản sau khi đem xử lý, phân
chia cũng phải được ưu tiên thanh tốn cho chủ thể có quyền, bên có nghĩa vụ
khơng được tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ. Nếu xảy ra các giao dịch có
liên quan đến tài sản trong thời gian bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (như tài sản đang
bị kê biên; công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã đang bị phá sản... đang mở thủ tục phá
sản) thì mọi giao dịch đó đều vơ hiệu.
- Quyền ưu tiên có đặc điểm lệ thuộc.
+ Lệ thuộc vào tài sản.
Một khi có quyền ưu tiên, chủ thể có đặc quyền được đảm bảo thực hiện đối
với phần quyền ưu tiên của mình trên tài sản bảo đảm và chỉ tài sản bảo đảm thực
22

Nguyễn Văn Vinh (2013),“Chủ nợ đặc quyền và đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam”, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, (02 (251)), tr. 37-43.
23
Nguyễn Ngọc Điện (2013), tlđd 12, tr. 19.
24
Khoản 1, Điều 333 BLDS 2005.
25
Khoản 5, Điều 351 BLDS 2005.

26
Khoản 1, Điều 20, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm.


19

hiện nghĩa vụ mới đem xử lý cho món nợ. Chủ nợ không được áp dụng quyền ưu
tiên trên tài sản mà họ khơng được bảo đảm. Chỉ có tài sản bảo đảm thì chủ nợ mới
có quyền theo đuổi và quyền ưu tiên để truy đòi đảm bảo cho khoản nợ của mình, vì
vậy trong phạm vi đối tượng thực hiện quyền ưu tiên thì quyền ưu tiên lệ thuộc vào
tài sản bảo đảm. Nếu khơng có tài sản bảo đảm thì con nợ khơng lệ thuộc vào chủ
nợ, nếu có mắc nợ mà khơng có tài sản bảo đảm thì tất nhiên chủ nợ khơng thể thực
hiện quyền ưu tiên của mình. Bên cạnh đó, tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ có
thể được thay thế bằng một tài sản bảo đảm khác để thực hiện quyền ưu tiên nếu có
sự đồng ý của người có quyền. Tài sản bảo đảm thay thế có giá trị tương đương
hoặc lớn hơn tài sản được thay thế . “Đối với giao dịch bảo đảm đã đăng ký thì bên
nhận thế chấp được chủ động yêu cầu đăng ký thay đổi về tài sản bảo đảm”27. Tài
sản dùng để thực hiện nghĩa vụ có thể là một tài sản đã xác định hoặc là tồn bộ tài
sản của bên có nghĩa vụ, vì vậy, quyền ưu tiên có đặc điểm lệ thuộc vào tài sản.
+ Lệ thuộc vào bên có nghĩa vụ.
Ngoài việc lệ thuộc vào tài sản của bên có nghĩa vụ, bên có quyền ưu tiên
cịn phải lệ thuộc vào sự hợp tác của người mắc nợ để thực hiện các quyền được gọi
là chủ nợ có bảo đảm mà luật dành cho mình28. Ví dụ trường hợp tài sản bảo đảm
cần xử lý còn nằm trong tay người mắc nợ, thì chủ nợ phải yêu cầu người này giao
tài sản cho mình xử lý29. Nếu người này khơng giao tài sản thì chỉ cịn cách kiện ra
tịa án để được giải quyết.
+ Phụ thuộc vào hiệu lực quyền ưu tiên.
Hiệu lực của quyền ưu tiên phát sinh là do sự vi phạm nghĩa vụ chính đang
được bảo đảm. Nếu nghĩa vụ chính vơ hiệu thì nghĩa vụ bảo đảm cũng vô hiệu, và
như vậy sẽ không phát sinh quyền ưu tiên. Nếu nghĩa vụ chính và nghĩa vụ bảo đảm

đều có hiệu lực, nhưng bên có nghĩa vụ lại thực hiện nghĩa vụ chính một cách đầy
đủ và đúng cam kết thì nghĩa vụ bảo đảm cũng không phát sinh, tức cũng không cần
sử dụng đến quyền ưu tiên. Như vậy, quyền ưu tiên không thể phát sinh hiệu lực
nếu nghĩa vụ bảo đảm bị vô hiệu hoặc nghĩa vụ chính đã được thực hiện đúng, đủ.
Quyền ưu tiên chỉ có hiệu lực thực thi khi nghĩa vụ chính bị vi phạm, nghĩa vụ được
áp dụng và có sự xung đột của các chủ nợ có quyền cùng được thanh toán trên giá
trị của cùng một tài sản bảo đảm. Do đó, quyền ưu tiên có tính phát sinh và có hiệu
27

Hồng Thế Liên (Chủ biên) (2013), tlđd 20, tr. 135.
Nguyễn Ngọc Điện (2012), “Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong nghị định 163/2006/NĐ-CP và
những vấn đề cần giải quyết tại thông tư liên tịch hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm”, Tạp chí Khoa học Pháp
lý (04), tr. 24-27.
29
Khoản 5, Điều 351 BLDS 2005.
28


20

lực phụ thuộc vào nghĩa vụ bảo đảm hoặc khi phát sinh quyền được thanh toán của
nhiều chủ nợ trên một tài sản hoặc một khối tài sản xác định của con nợ.
Có thể nói, đặc điểm lệ thuộc phản ánh đối tượng của quyền ưu tiên.
- Quyền ưu tiên có thể thay đổi thứ tự hoặc được chuyển nhượng.
Quyền ưu tiên có thể thay đổi hoặc được chuyển nhượng là một đặc điểm
mang tính nội dung của quyền ưu tiên. Quyền ưu tiên là tuyệt đối, mọi chủ thể phải
tơn trọng và thực hiện, bởi nó đã được pháp luật thừa nhận bằng cách công khai và
hoặc được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp
luật quy định hoặc có sự thỏa thuận giữa các chủ thể ưu tiên cùng hàng thì vẫn có
thể thay đổi thứ tự thực hiện quyền ưu tiên. Vì vậy, quyền ưu tiên thực hiện trước

vẫn có thể thực hiện sau và ngược lại, bên có thứ tự ưu tiên sau có thể đổi lên thành
hàng thứ nhất. Trường hợp quyền ưu tiên tuy xác lập sau nhưng nhờ có đăng ký
cơng khai vật quyền bảo đảm nên được ưu tiên thanh tốn trước những trường hợp
có quyền ưu tiên nhưng không công khai đăng ký đối kháng với người thứ ba.
Theo lý thuyết, quyền ưu tiên được xác lập trước được ưu tiên so với quyền
ưu tiên được xác lập sau. Tuy nhiên, quyền ưu tiên là một ngoại lệ của nguyên tắc
bất bình đẳng giữa các chủ nợ nên việc xác định thứ tự ưu tiên đôi khi được sắp xếp
đặc biệt hơn đối với một số nghĩa vụ nhất định. Vì vậy, trong trường hợp có sự
xung đột một số quyền ưu tiên thì thứ tự ưu tiên không chỉ xác lập theo thứ tự trước
hay sau mà là loại quyền ưu tiên. Quy định đó gọi là thứ tự quyền ưu tiên30.
Các bên cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản, có quyền thỏa thuận về việc
thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau hoặc chuyển nhượng, chuyển giao
quyền ưu tiên theo thỏa thuận. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên
thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mình thế quyền31.
- Quyền ưu tiên có đặc điểm là tăng cường quyền cho chủ thể có quyền.
Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng có khả năng thanh tốn nợ thì có thể
được chủ thể khác thanh tốn nợ thay mình, nghĩa là đồng thời bên có quyền được
tăng cường quyền để địi nợ một người khác khơng phải là con nợ ban đầu. Đây là
đặc điểm mang tính trái quyền của quyền ưu tiên. Ví dụ: trong trường hợp bên bảo
lãnh cho bên có nghĩa vụ để trả nợ thay cho bên có quyền địi nợ. Chủ thể có quyền
có thể yêu cầu bên nhận bảo lãnh thanh tốn nợ cho bên có nghĩa vụ khi bên nhận
30

Xaca Vacaxumvà Tori Aritdumi (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Dg: Nguyễn Đức
Giao, Lưu Tiến Dũng, Bộ tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr.
281.
31
Khoản 2, Điều 6, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về Giao dịch bảo đảm.



×