Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Quyền tự do kinh doanh theo luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---------------

PHẠM THỊ HÀ

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM
2014
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014

SINH VIÊN THỰC HIÊN: PHẠM THỊ HÀ
Khóa: 36
MSSV: 1155010086
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. ĐẶNG QUỐC CHƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi, Phạm Thị Hà – sinh viên Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP.HCM, là
tác giả của Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật với đề tài: “Quyền tự do kinh doanh
theo Luật Doanh nghiệp năm 2014”.
Tơi xin cam đoan rằng: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Đặng Quốc Chương, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin
chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.


DANH

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLHS

Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009

CTCP

Công ty cổ phần

DNXH

Doanh nghiệp xã hội

GCNĐKDN


Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

GCNĐT

Giấy chứng nhận đầu tư

HĐND

Hội đồng Nhân dân

LDN

Luật Doanh nghiệp

LĐT

Luật Đầu tư



Nghị định

UBND

Ủy ban Nhân dân
MỤC TỪ VIẾT TẮT


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, chuyên ngành Luật Thương
mại với đề tài: “Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 2014”, tác giả
xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ThS. Đặng Quốc Chương đã tận tậm hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Đồng thời tác giả rất
cảm ơn các thầy cô là giảng viên Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã truyền dạy
kiến thức cho tác giả trong bốn năm học qua. Cảm ơn tất cả bạn bè đã động viên, giúp đỡ
tác giả hoàn thành đề tài này.
Tuy nhiên, do khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài này khơng tránh khỏi
những thiếu sót, mong Quý thầy cô thông cảm và tác giả rất mong nhận được những ý
kiến góp ý từ các thầy cô giáo.
Tác giả xin chân thành cảm ơn.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLHS

Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009

CTCP

Công ty cổ phần

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

DNXH

Doanh nghiệp xã hội

GCNĐKDN

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

GCNĐT

Giấy chứng nhận đầu tư

LDN

Luật Doanh nghiệp

LĐT

Luật Đầu tư



Nghị định


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH VÀ QUYỀN TỰ DO

KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP ........................................... 5
1.1 Khái niệm, vai trò của kinh doanh ........................................................................ 5
1.1.1

Khái niệm kinh doanh ...................................................................................... 5

1.1.2

Vai trò của kinh doanh .................................................................................... 7

1.2 Khái quát về quyền tự do kinh doanh .................................................................. 9
1.2.1

Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam .................. 9

1.2.2

Khái niệm quyền tự do kinh doanh .................................................................. 13

1.2.3

Chủ thể của quyền tự do kinh doanh................................................................ 17

1.2.4

Nội dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh ................................................. 19

Kết luận Chƣơng 1 .......................................................................................................... 24
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 ............................................................ 26

2.1 Quyền tự do lựa chọn ngành, nghề đầu tƣ kinh doanh....................................... 26
2.1.1

Quy định về ngành, nghề kinh doanh ............................................................. 26

2.1.2

Quy định về việc ghi và mã hóa ngành, nghề kinh doanh ............................... 30

2.2 Quyền tự do thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp ............................................. 32
2.2.1

Quyền tự do thành lập doanh nghiệp ............................................................. 32

2.2.2

Quyền được góp vốn vào doanh nghiệp ......................................................... 42

2.3

Quyền tự do quyết định cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ doanh nghiệp .......... 44

2.4
Một số kiến nghị hoàn thiện về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật
doanh nghiệp ................................. .................................................................................. 46
2.4.1

Tăng cường công tác hậu kiểm để đảm bảo quyền tự do kinh doanh .............. 46

2.4.2


Bãi bỏ, bổ sung một số quy định trong luật chuyên ngành nhằm đảm báo tính
thống nhất trong thực thi quyền tự do kinh doanh ........................................... 48


Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................................ 50
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 51


LỜI NÓI ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển của kinh tế - xã hội và nhu cầu hội nhập, Việt Nam đang ngày

càng khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế và khu vực. Nhằm đưa nền
kinh tế nước ta phát triển sâu rộng, toàn diện và hội nhập với kinh tế quốc tế, Đảng và
Nhà nước ta đã và đang thực hiện nhiều chính sách pháp luật tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Kể từ khi quyền tự do kinh doanh được chính thức thừa nhận trong Hiến pháp
1992, các doanh nghiệp Việt Nam bước đầu đã có những thuận lợi nhất định trong việc
gia nhập thị trường, đầu tư kinh doanh. Sau khi trở thành một quyền hiến định, quyền
tự do kinh doanh trở thành một nguyên tắc vận hành hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và nó được cụ thể hóa thơng qua những đạo luật được ban hành: Luật Doanh
nghiệp (LDN) năm 1999, LDN Nhà nước năm 2003. Đặc biệt, với sự ra đời của LDN
năm 2005 đã tạo ra những tác động tích cực trong việc thiết lập mơi trường kinh doanh
thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng quyền tự do kinh
doanh của người dân; góp phần duy trì tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội. Có
thể nói, pháp luật kinh doanh của Việt Nam giai đoạn này đã có những tiến bộ vượt bậc

với tư tưởng xây dựng luật hướng tới tự do, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong sự vận động không ngừng của những quan hệ kinh tế, quá trình
mở rộng thị trường và nhu cầu thực tế kinh doanh ngày càng gia tăng, địi hỏi chính
sách điều tiết vĩ mơ nền kinh tế của nước ta phải có những thay đổi phù hợp với xu thế
kinh tế trong giai đoạn hội nhập. Thực tế cho thấy, các quy định về pháp luật doanh
nghiệp hiện hành đã phần nào giải quyết những nhu cầu của doanh nghiệp song vẫn đặt
ra nhiều thách thức, cản trở mà hầu hết các doanh nghiệp đang phải đối mặt. Đặc biệt
là các thủ tục thành lập doanh nghiệp và vấn đề phát sinh liên quan trong việc thực
hiện quyền tự do kinh doanh.
Trong bối cảnh Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
được thực thi hơn một năm, với những thay đổi căn bản trong quy định về quyền con
người, quyền công dân, đặc biệt là quy định mới về quyền tự do kinh doanh đã tạo nên
bước đột phá cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh. Tiếp thu
1


tinh thần của Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành tái cơ cấu
doanh nghiệp, tạo động lực mới cho sự phát triển trong giai đoạn hội nhập kinh tế,
đồng thời khắc phục những hạn chế của LDN năm 2005, ngày 26/11/2014 Quốc hội
khóa XIII đã thơng qua LDN năm 2014 và có hiệu lực vào ngày 01/7/2015. LDN năm
2014 ra đời trên sự kế thừa một số quy định của LDN năm 2005, bên cạnh đó có những
bổ sung, sửa đổi để phù hợp với thời buổi kinh tế và nhu cầu của cộng đồng doanh
nghiệp. Để cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm theo Hiến pháp năm 2013, LDN năm 2014 đã xây dựng những quy định
mới, mở rộng hơn quyền này của doanh nghiệp. Những quy định của LDN năm 2014
liên quan đến quyền tự do kinh doanh đã thực sự tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
Việt Nam, ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng doanh nghiệp. Chính những điều đó đã
thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài “Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự do kinh doanh theo LDN là một đề tài luôn thu hút nhiều sự quan tâm
của nhiều tác giả bởi tính thiết thực của nó. Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này và có thể kể đến như: Mai Hồng Quỳ (2012)“Tự
do kinh doanh và vấn đề đảm bảo quyền con người tại Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao
động; Phan Huy Hồng và Nguyễn Thanh Tú (2012) “Quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật liên minh Châu Âu và Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; và Bùi
Ngọc Cường (2004) “Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt
2.

Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Bên cạnh đó cịn có các đề tài nghiên cứu ở cấp độ luận văn, khóa luận như:
Nguyễn Thị Kim Dung (2000), “Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong pháp
luật kinh tế Việt Nam”,Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh; Nguyễn Thành Chúng (2008), “Giới hạn quyền tự do kinh doanh theo Luật
doanh nghiệp 2005”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
Nguyễn Hữu Nghị (2003), “Quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định của
pháp luật Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh; Lê Thị Ngọc Cẩm (2006), “Quyền tự do kinh doanh theo luật doanh nghiệp
2005”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Ngồi ra liên quan đến đề tài này cịn có các bài viết được đăng trên các tạp chí
chuyên ngành như: Bùi Xuân Hải (2011), “Tự do kinh doanh: một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (277)/2011; Mai Hồng Quỳ (2012),
2


“Một số vấn đề về tự do kinh doanh và tự do hợp đồng ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 2 (69)/2012; I.V. Ershova (2013), “Những cơ sở hiến định để thực hiện
hoạt động kinh doanh”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 1 (74)/2013; Phan Huy Hồng
(2014), “Vấn đề đăng ký kinh doanh: cần sự đổi mới mạnh mẽ và triệt để”, Tạp chí

Khoa học pháp lý, số 2 (81)/2014; Trần Thanh Tùng (2014), “Quyền tự do kinh doanh
từ Hiến pháp 2013 đến Luật đầu tư 2014”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số ra ngày
04/12/2014 của; Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư (2008), “Báo
cáo rà soát đánh giá các nội dung khơng tương thích giữa Luật đầu tư và các luật có
liên quan và kiến nghị sửa đổi bổ sung” số ra tháng 01/2008.
Các cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu hữu ích cho tác giả thực hiện đề
tài của mình, vì nó đã đem lại một cái nhìn tổng quan về quyền tự do kinh doanh trong
pháp luật kinh tế Việt Nam giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong bối cảnh Hiến pháp năm
2013 vừa được thực thi và LDN năm 2014 được thơng qua có hiệu lực từ ngày
01/7/2015 với những quy định mới hơn về quyền tự do kinh doanh thì vẫn chưa có một
cơng trình khoa học nào nghiên cứu về đề tài này. Do đó, việc tác giả tìm hiểu về
quyền tự do kinh doanh theo LDN năm 2014 vẫn mang tính mới và có ý nghĩa thực
tiễn cụ thể.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích chính của tác giả khi nghiên cứu đề tài này trước hết là nhằm làm rõ
những vấn đề lý luận liên quan đến quyền tự do kinh doanh của công dân, cụ thể là của
các doanh nghiệp. Sau đó phân tích và trình bày quy định của pháp luật thực định về
3.

quyền tự do kinh doanh. Đặc biệt sẽ làm sáng tỏ những quy định mới của LDN năm
2014 về quyền tự do kinh doanh để mang lại cách tiếp cận mới về nó theo LDN năm
2014.
Từ việc trình bày và phân tích như trên, tác giả sẽ đưa ra một số đánh giá chủ
quan về quyền tự do kinh doanh theo những quy định của LDN năm 2014 và đưa ra
các đề xuất cụ thể để vừa tăng cường quyền tự do kinh doanh của người dân đồng thời
vẫn đảm bảo sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do kinh doanh là một phạm trù nghiên cứu khá rộng, liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và các quy định pháp lý phức tạp. Nội
dung quyền tự do kinh doanh bao gồm nhiều vấn đề, trong đó có quyền đăng ký thành

lập, quyền tự do hợp đồng, quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh…. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các nội dung mới của quyền tự do
4.

3


kinh doanh theo LDN năm 2014 trong sự so sánh với những quy định của LDN năm
2005. Bên cạnh đó nhằm làm sáng tỏ vấn đề, tác giả còn tiến hành phân tích những nội
dung liên quan đến quyền tự do kinh doanh được quy định trong Luật Đầu tư (LĐT)
năm 2014.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận liên quan đến quyền tự do
kinh doanh, các quy định của luật thực định mà chủ yếu là LDN năm 2014 và những
văn bản hướng dẫn. Trên cơ sở đó nhằm đưa ra các đánh giá và đề xuất có liên quan,
nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh được thực hiện trên thực tế.
5.

Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, tác giả đã sử dụng tổng hợp các phương pháp

nghiên cứu truyền thống cụ thể như sau:

Phương pháp nghiên cứu lịch sử: được áp dụng để tìm hiểu lịch sử hình thành
của quyền tự do kinh doanh trong pháp luật Việt Nam, đồng thời giải quyết những vấn
đề mang tính lý luận ở chương 1 của đề tài.

Phương pháp đối chiếu - so sánh: Đối chiếu các quy định của pháp luật trước
đây về quyền tự do kinh doanh với những quy định trong LDN năm 2014 để từ đó tìm
ra điểm mới của LDN năm 2014. So sánh các vấn đề được pháp luật quy định cụ thể
với việc áp dụng pháp luật của các doanh nghiệp hiện nay.



Phương pháp phân tích quy nạp: Phân tích những vấn đề mới về tự do kinh

doanh được tìm ra trong LDN năm 2014, rút ra kết luận đánh giá cụ thể, sau đó đưa ra
giải pháp, hướng hồn thiện cụ thể.
6.

Bố cục tổng quát của khóa luận
Khóa luận “Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” được
trình bày với những phần sau:
Lời mở đầu
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về kinh doanh và quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật doanh nghiệp
Chƣơng 2: Sự thể hiện quyền tự do kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
năm 2014
Kết luận

4


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH VÀ QUYỀN TỰ DO
KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
1.1
Khái niệm, vai trò của kinh doanh
1.1.1 Khái niệm kinh doanh
Kinh doanh là một phạm trù gắn liền với quyền tự do kinh doanh, để hiểu thế
nào là tự do kinh doanh trước hết cần tìm hiểu khái niệm kinh doanh là gì.
Trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người, khi con người tạo ra nhiều của

cải vật chất dẫn tới dư thừa thì nhu cầu trao đổi, mua bán xuất hiện. Theo sự phát triển
của quá trình sản xuất và nhu cầu ngày càng tăng của con người, từ việc hàng đổi hàng
thuần túy chuyển sang hoạt động trao đổi hàng hóa gắn liền với lợi nhuận. Khi đó,
trong quan hệ trao đổi hàng hóa có yếu tố lợi nhuận sẽ có nhiều hơn hai chủ thể cùng
xuất hiện, một bên là nhà sản xuất hàng hóa, một bên có nhu cầu tiêu dùng lượng hàng
hóa đó và bên thứ ba khác. Bên thứ ba này sẽ bằng hai cách, một là mua háng hóa của
bên sản xuất hoặc sẽ đầu tư trực tiếp cho bên sản xuất để tạo ra nhiều hàng hóa sau đó
bán lại cho bên có nhu cầu để thu về một khoản lợi nhuận và bên thứ ba này được gọi
là nhà kinh doanh. Có thể gọi đây là giai đoạn khởi nguyên của hoạt động kinh doanh.
Như vậy, kinh doanh ra đời trên nền sản xuất hàng hóa, gắn liền với quan hệ
hàng hóa – tiền tệ và quy luật giá trị.1 Đó là phương thức hoạt động kinh tế trong điều
kiện tồn tại nền kinh tế hàng hoá, gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và
phương tiện mà chủ thể kinh doanh sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của
mình (bao gồm quá trình đầu tư, sản xuất, vận tải, thương mại, dịch vụ...) trên cơ sở
vận dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu sinh lời cao
nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh được xem là một hoạt động cơ bản của
con người nhằm tạo ra những lợi ích vật chất phục vụ cho nhu cầu của con người. Nếu
khơng thực hiện hoạt động kinh doanh thì q trình sản xuất hàng hóa hay nền kinh tế
sẽ bị ngưng trệ. Bởi kinh doanh là việc tổ chức sản xuất, buôn bán nhằm sinh lợi. Mục
tiêu cao nhất của kinh doanh đó là yếu tố lợi nhuận, chính vì vậy nó thúc đẩy các chủ

1

Theo Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở

Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr 13

5



thể thực hiện hành vi nhằm tạo ra lợi nhuận phục vụ cho chính nhu cầu của mình từ đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm kinh doanh đã được quy định trong các đạo luật
về doanh nghiệp như Luật Công ty năm 1990, LDN năm 1999, LDN năm 20052 và tiếp
tục được ghi nhận trong LDN năm 2014. Cụ thể theo Điều 4 LDN năm 2014 quy
định:“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”. Có thể nhận thấy rằng sau nhiều lần sửa đổi bổ sung
LDN, định nghĩa về kinh doanh khơng có sự thay đổi.
Theo luật định, kinh doanh được hiểu ở nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều q
trình, có thể là hoạt động đầu tư, sản xuất, trao đổi, cung ứng dịch vụ trên thị trường
hoặc là tổng hợp tất cả các hoạt động đó miễn sao mục đích cao nhất và cuối cùng là
sinh lợi. Như vậy, khái niệm kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp tập trung vào
hành vi của chủ thể và mục đích cụ thể của hành vi.3 Với cách hiểu này, khái niệm kinh
doanh có những đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, kinh doanh là hoạt động mang tính liên tục gắn liền với các chủ thể
kinh doanh. Tính liên tục đòi hỏi khi thực hiện một hoặc một số hoạt động kinh doanh
là phải nối tiếp nhau thành một quá trình khơng bị gián đoạn.4 Bên cạnh đó, để thực
hiện được hoạt động kinh doanh các chủ thể cần phải tồn tại dưới một hình thức pháp
lý nhất định. Hình thức đó có thể là hộ gia đình, hợp tác xã hoặc các loại hình doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật. Như vậy, để được coi là hoạt động kinh doanh, các
chủ thể kinh doanh phải coi đó như là một nghề nghiệp chính của mình5 và nó mang lại
nguồn thu nhập chính cho bản thân. Và đã là một nghề nghiệp thì nó ln tồn tại với
mỗi chủ thể kinh doanh. Do đó, việc xem kinh doanh như là một nghề nghiệp chính
dẫn tới hệ quả kinh doanh phải mang tính thường xuyên, ổn định và lâu dài.
Thứ hai, kinh doanh phải diễn ra trên thị trường, đó là môi trường để các chủ
thể tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Thị trường là nơi diễn ra hoạt động trao
đổi, mua bán hàng hóa, đáp ứng nhu cầu giữa cung và cầu. Ở đó chứa đựng các yếu tố
cơ bản cho hoạt động kinh doanh, như hàng hóa, cơ sở vật chất, quan hệ sản xuất, đầu

tư, mua bán, trao đổi. Tất cả đó là những nhân tố cần thiết cho hoạt động kinh doanh.
2

Xem Điều 3 Luật Công ty 1990, Điều 3 LDN năm 1999, Điều 4 LDN năm 2005
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr 12 – 15
4
Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr 568
5
Bùi Ngọc Cường, tlđd (1), tr 13 – 14
3

6


Thứ ba, kinh doanh phải có mục đích sinh lợi. Tất cả mọi hoạt động của con
người đều hướng tới một, một số mục đích nhất định, khi có mục đích cụ thể mới có
động lực để thực hiện hành vi nhằm đạt được mục đích đặt ra. Mục đích cao nhất và
cuối cùng của hoạt động kinh doanh là sinh lợi, đây là một đặc điểm quan trọng của
khái niệm kinh doanh. Mục đích sinh lợi hồn tồn khơng đồng nhất với mục đích sinh
lời. Sinh lời nhằm chỉ đến lợi nhuận bằng một khoản tiền nhất định. Trong khi đó sinh
lợi được hiểu một cách rộng hơn là ngồi khoản lợi nhuận việc kinh doanh cịn có thể
hướng đến các lợi ích xã hội khác khơng nhất thiết phải bằng tiền. Sinh lợi nhiều lúc là
cơ hội trong kinh doanh, nó vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp vừa giúp cho cộng
đồng phát triển. Có thể nói lợi nhuận là mục tiêu hướng đến của các nhà kinh doanh,
tuy nhiên bên cạnh đó có một số chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh còn hướng tới
những giá trị cho xã hội, cộng đồng, điều này thể hiện rõ nét qua các hoạt động cụ thể
của các doanh nghiệp xã hội (DNXH). LDN năm 2014 đã có những quy định mới về
DNXH, tại Điều 10 LDN năm 2014 quy định mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp
xã hội là nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, mơi trường vì lợi ích cộng đồng. Do đó,

đặc điểm sinh lợi đã làm cho cách hiểu về kinh doanh bao quát và toàn diện hơn.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động kinh doanh phải
đảm bảo hội tụ đầy đủ ba đặc điểm nêu trên. Hiểu được khái niệm kinh doanh là một
đòi hỏi cơ bản để các chủ thể thực hiện được hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.2 Vai trị của kinh doanh
1.1.2.1 Đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh có vai trị rất quan trọng và nó tác
động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Kết quả của hoạt động kinh doanh là
tạo ra của cải vật chất – tiền đề cho sự tồn tại và phát triển xã hội.
Đối với doanh nghiệp, kinh doanh chính là phương thức, hoạt động chủ yếu để
tìm kiếm lợi nhuận, hay nói cách khác kinh doanh là một nghề nghiệp của nhà kinh
doanh, mang lại thu nhập cho họ. Nghề kinh doanh cùng với các ngành nghề khác
trong xã hội tạo nên sự đa dạng trong việc chọn lựa ngành nghề mưu sinh cho người
dân. Khi kinh doanh trở thành nghề nghiệp của mình, các chủ thể kinh doanh không
ngừng cải tiến, đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm tốt nhất,
giúp cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả để thu về lợi nhuận cao nhất cho mình. Vơ
hình chung hệ quả của quá trình này sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tăng
năng suất lao động.

7


1.1.2.2 Đối với người lao động
Vai trò của kinh doanh đối với người lao động thể hiện thông qua việc tạo ra
công ăn việc làm, giảm bớt áp lực thất nghiệp trong xã hội, mang đến thu nhập cho
người lao động. Những chủ thể kinh doanh thành lập nên những doanh nghiệp mới, họ
không chỉ tạo ra những việc làm mới cho bản thân mà còn tạo ra nhiều việc làm cho
nhiều người khác. Kinh doanh là một hoạt động ra đời trên cơ sở sự phân công lao
động xã hội, vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất khác, phải trao đổi
sản phẩm cho nhau. Rõ ràng hoạt động kinh doanh không thể diễn ra một cách đơn lẻ

mà phải cần đến đội ngũ nhân cơng, lao động phù hợp. Ý tưởng kinh doanh có thể
được khởi tạo từ một người nhưng để thực hiện được ý tưởng đó cần phải có sự chung
sức của đội ngũ lao động. Khi một chủ thể tiến hành kinh doanh, bắt buộc họ phải thuê
lao động để tiến hành sản xuất, hỗ trợ cho mình. Theo đó, có càng nhiều nhà kinh
doanh thì có thêm càng nhiều cơng việc cho người lao động, vấn đề thất nghiệp càng
được giải quyết triệt để hơn. Khi đã tạo được công ăn việc làm cho mọi người thì
những hệ lụy của vấn nạn thất nghiệp cũng sẽ được giảm đi đáng kể.
1.1.2.3 Đối với nền kinh tế
Đối với nền kinh tế, kinh doanh giúp cho hàng hóa được lưu thơng thuận lợi từ
khâu sản xuất cho đến tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các nhà kinh doanh
với mục tiêu kiếm tìm lợi nhuận, họ sẽ tiến hành nghiên cứu thị trường trước khi đầu tư
kinh doanh để tìm ra nhu cầu của thị trường. Sau đó mới xác định cho mình lĩnh vực
kinh doanh phù hợp, chính yếu tố này sẽ đảm bảo hài hòa cán cân cung - cầu của thị
trường. Mặt khác, hệ quả của hoạt động kinh doanh luôn tạo ra của cải vật chất, tạo ra
nguồn vốn trong xã hội, đây chính là điều kiện để phát triển kinh tế, đa dạng hóa các
ngành nghề kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì vậy, trong nền kinh tế của
bất cứ một quốc gia nào, kinh doanh luôn là động lực thúc đẩy phát triển.
Khi hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển, hình thành nhiều doanh nghiệp
thì ngân sách Nhà nước hàng năm sẽ tăng lên thông qua việc nộp các khoản thuế cho
Nhà nước. Đây sẽ là nguồn vốn để Nhà nước tiến hành các hoạt động xã hội, phục vụ
lợi ích cộng đồng, thúc đẩy kinh doanh phát triển sẽ đồng thời kéo theo các hoạt động
phúc lợi xã hội được cải tiến, nâng cao hơn.
Hoạt động kinh doanh ngày càng chi phối mạnh mẽ đến các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế, đóng vai trị quyết định đối với sức sống của mọi nền kinh tế. Kinh
doanh trở thành một trong những nhân tố nền tảng của lĩnh vực pháp luật kinh tế và
luôn gắn liền với quyền tự do kinh doanh. Để các chủ thể tiến hành kinh doanh có hiệu
8


quả, cần phải có cơ chế để bảo đảm cho quyền tự do kinh doanh của người dân được

thực thi trên thực tế.
1.2
Khái quát về quyền tự do kinh doanh
1.2.1 Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam
Tự do kinh doanh là quy luật tất yếu của nền kinh tế, đồng thời cũng là nhu cầu
thiết thực của các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên để trở thành quyền luật định và được
thực thi trên thực tế thì tùy mỗi giai đoạn phát triển mà biểu hiện của nó khác nhau. Ở
Việt Nam, do chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh nên kinh tế phát triển muộn hơn
so với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước phương Tây và quyền tự do kinh
doanh cũng chưa được thừa nhận một cách đúng đắn và rộng rãi trong một khoảng thời
gian dài.
Trong giai đoạn trước đổi mới năm 1986, Việt Nam phải đối mặt với hai cuộc
chiến tranh tàn khốc của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bị đàn áp, bóc lột và phải gánh
chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, kinh tế nước ta lúc bấy giờ gặp mn vàn khó khăn.
Để giảm bớt gánh nặng cho người dân đồng thời chịu ảnh hưởng của các nước Xã hội
chủ nghĩa mà cụ thể là Liên Xô, Việt Nam đã thực hiện đường lối kinh tế bao cấp, kế
hoạch hóa tập trung, khơng thừa nhận kinh tế hàng hóa cơ chế thị trường và hệ quả là
không chấp nhận quyền tự do kinh doanh của người dân. Tuy nhiên thực tế cho rằng,
ngay cả trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhu cầu tự do kinh doanh vẫn tồn tại,
mặc dù lúc đó sự tư hữu về tư liệu sản xuất là rất hạn chế. Nhưng vì những lý do khác
nhau mà lúc bấy giờ tự do kinh doanh không được pháp luật thừa nhận. Các doanh
nghiệp lúc đó chỉ thực hiện theo những kế hoạch, chủ trương của Nhà nước đề sẵn mà
không được quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, trong
Hiến pháp năm 1945, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 cũng như các sắc
lệnh khác khơng hề có bất kì một quy định cụ thể nào về quyền tự do kinh doanh của
công dân. Điều 10, Điều 12 Hiến pháp năm 1959 đã thừa nhận rằng: “Nhà nước lãnh
đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, kinh tế quốc doanh giữ vai trò
lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên”. Điều 18,
Hiến pháp năm 1980 cũng quy định: “Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản
xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết

lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một
nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc
sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao

9


động. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát
triển ưu tiên”.
Với những quy định trên, có thể nhận thấy rằng trong giai đoạn trước năm 1986,
pháp luật kinh tế Việt Nam đã không thừa nhận các thành phần kinh tế tư nhân, phủ
nhận kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc triệt tiêu quyền tự do kinh doanh của công
dân. Theo PGS. TS Mai Hồng Quỳ, “trong suốt mấy thập kỷ của nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung ở Việt Nam, tự do kinh doanh đã không được nhắc đến và bị xem như
một phạm trù kinh tế không thể chấp nhận được”.6
Sau khi thực hiện chế độ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta lâm
vào tình trạng khủng hoảng tồn diện. Điều đó cho thấy chính sách kinh tế của nước ta
là chưa phù hợp, đi ngược lại xu hướng phát triển chung của thế giới. Trong khi kinh tế
thị trường đang từng bước đi lên khẳng định vai trị của mình thì Việt Nam lại phát
triển kinh tế theo kế hoạch chỉ tiêu, bao cấp nền kinh tế. Đó chính là một lực cản lớn
đẩy nước ta tụt hậu so với các nước trên thế giới. Nhận thức kịp thời những sai lầm
trong đường lối phát triển kinh tế trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm
cải cách nền kinh tế, thực hiện chính sách đổi mới. Kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI trở đi, kinh tế Việt Nam đã bước sang một con đường mới – con đường đổi
mới toàn diện.
Trong giai đoạn đổi mới (tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986), mục tiêu
của nước ta là xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định “Phải kết hợp việc xây dựng các ngành kinh tế - kỹ
thuật với việc phát huy thế mạnh của từng vùng, từng tỉnh, thành phố theo hướng mở

rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, chú trọng xây dựng kinh tế trên địa bàn, sử dụng
đúng đắn và liên kết các thành phần kinh tế”.7 Với định hướng như vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã tiến hành chuyển đổi cơ chế từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường. Để
thực hiện được quyết tâm đó, như một tất yếu, nước ta phải tạo điều kiện đảm bảo cho
người dân thực hiện quyền kinh doanh theo nhu cầu của thị trường. Cũng tại Đại hội
VI đã thể hiện việc bảo đảm tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ tổ chức của các đơn vị
kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.8 Đây có thể coi là cơ sở đầu tiên
nhằm đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của người dân được khẳng định.
6

Xem thêm: Mai Hồng Quỳ (2012), “Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam”, Nhà
xuất bản Lao động, tr 73
7
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, tr 127
8
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, tr 130

10


Bước sang thời kì đổi mới đất nước, với cơ chế thị trường thì quyền tự do kinh
doanh đã được manh nha thừa nhận trong định hướng phát triển đất nước. Nền kinh tế
Việt Nam đã bước sang một trang mới mà ở đó người dân có cơ hội để quan tâm đến
kinh doanh và được tự chủ thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Đó như là một sự
cởi trói cho các nhà kinh doanh sau bao nhiêu năm bị kìm hãm phải thực hiện theo kế
hoạch định sẵn của Nhà nước.
Nhằm cụ thể hóa những định hướng trong Đại hội VI, ngày 29/12/1987, Quốc
hội chính thức thơng qua LĐT nước ngoài, đây là văn bản pháp lý quan trọng chính
thức luật hóa việc tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngồi kể từ q trình đổi mới. LĐT
nước ngoài năm 1987 được ban hành cho phép nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu

tư kinh doanh tại Việt Nam, được thành lập tại Việt Nam xí nghiệp 100% vốn nước
ngồi, tự mình quản lý xí nghiệp, chịu sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước về quản lý
đầu tư nước ngoài, được hưởng các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi trong
giấy phép đầu tư.9 Với những quy định tại LĐT nước ngoài năm 1987, nước ta chính
thức mở cửa nền kinh tế, cho phép nhà đầu tư nước ngồi có quyền kinh doanh tại Việt
Nam. Sau 3 năm thực hiện LĐT nước ngoài, năm 1990 Quốc hội ban hành hai đạo luật
quan trọng đối với các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là LDN tư nhân năm 1990 và
Luật Công ty năm 1990. Theo Điều 4 Luật Công ty quy định: “Trong khuôn khổ pháp
luật, cơng ty có quyền tự do kinh doanh”, Điều 3 LDN tư nhân cũng quy định: “Trong
khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ
động trong mọi hoạt động kinh doanh”. Kể từ đây, quyền tự do kinh doanh đã chính
thức được luật hóa thành cơ sở pháp lý vững chắc cho người dân, doanh nghiệp thực
hiện quyền kinh doanh của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Quốc
hội đã thông qua hai đạo luật quan trọng đối với doanh nghiệp và khẳng định quyền tự
do kinh doanh của doanh nghiệp, thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp trong quá trình thực
hiện hoạt động kinh doanh.10
Năm 1992, trải qua 6 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Hiến pháp năm
1992 ra đời – hiến pháp đầu tiên trong giai đoạn đổi mới và cũng là bản Hiến pháp đầu
tiên của Việt Nam có một quy định rõ ràng về quyền tự do kinh của công dân. Tại Điều
57 Hiến pháp năm 1992 minh thị rằng: “Cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo quy
định của pháp luật”. Từ một quyền luật định (LDN tư nhân năm 1990, Luật Công ty
năm 1990), nay với quy định của Hiến pháp năm 1992 quyền tự do kinh doanh trở
9
10

Điều 14 Luật đầu tư nước ngoài năm 1987
Mai Hồng Quỳ, tlđd (15), tr 98 – 99

11



thành một quyền hiến định ở nước ta. Sự chuyển biến này tạo nên bước ngoặt quan
trọng trong pháp luật kinh tế và cũng là sự mong đợi của cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn đổi mới đất nước. Việc hiến định quyền tự do kinh doanh là một
trong những thành tựu quan trọng nhất của Hiến pháp năm 1992. Đây là căn cứ pháp lý
tạo nên bước chuyển mạnh mẽ trong nền kinh tế, giúp giải phóng năng lực sản xuất,
phát triển các quan hệ kinh tế, tạo công ăn việc làm cho xã hội.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội cũng đã ban hành những đạo luật
quan trọng để thể chế hóa định hướng phát triển kinh tế. Năm 1999, Luật Công ty và
LDN tư nhân được hợp nhất thành LDN năm 1999 tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho
các doanh nghiệp khối tư nhân, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong
kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư.11 Điều 6 LDN năm 1999 quy định “doanh nghiệp được tự
chủ đăng ký và thực hiện kinh doanh các ngành, nghề không thuộc ngành nghề cấm
kinh doanh, ngành nghề có điều kiện kinh doanh”. Sau đó đến năm 2003, LDN nhà
nước cũng được ban hành nhằm tạo tiền đề pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước.
Đặc biệt LDN năm 2005 ban hành nhằm hợp nhất LDN năm 1999 và LDN nhà nước
2003, LĐT năm 2005 cũng ra đời. Hai đạo luật này đã tạo ra nhiều quy định thơng
thống hơn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, bước đầu mở rộng quyền tự
do kinh doanh cho doanh nghiệp. Điều 7 LDN năm 2005 quy định “doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật
không cấm”. Điều 4 LĐT năm 2005 cũng quy định “Nhà đầu tư được đầu tư trong các
lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động
đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Bên cạnh đó, tại Điều 50 Bộ Luật dân
sự năm 2005 cũng thừa nhận “Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và
được pháp luật bảo vệ”. Như vậy, LDN năm 2005 và LĐT năm 2005 cùng với quy
định trong Bộ luật dân sự đã tạo nên làn sóng chuyển biến mạnh mẽ trong việc cải
thiện môi trường kinh doanh với những quy định theo hướng ngày càng mở rộng phạm
vi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi này của pháp luật doanh
nghiệp là một bước đi đúng đắn của nước ta, phù hợp với nhu cầu thực tiễn kinh doanh

của người dân, doanh nghiệp trong hoàn cảnh kinh tế mới.
Tuy nhiên với xu thế hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, điều kiện kinh
tế xã hội luôn không ngừng thay đổi và nhu cầu tự do kinh doanh luôn không ngừng

11

Xem thêm Lời mở đầu của LDN năm 1999

12


mở rộng. Do đó, Hiến pháp năm 2013 được ban hành thay thế cho Hiến pháp năm
1992, với những nội dung phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn mới - hội
nhập kinh tế quốc tế. Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự
do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, hướng tiếp cận này
rộng hơn nhiều so với Điều 57 Hiến pháp năm 1992. Theo đó, doanh nghiệp có quyền
kinh doanh những gì mà pháp luật khơng cấm thay vì chỉ được kinh doanh những gì
pháp luật quy định như Điều 57 Hiến pháp năm 1992. Nhằm phù hợp với những quy
định của Hiến pháp năm 2013, ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua LND năm
2014 với những điểm mới, những quy định thơng thống hơn, mở rộng quyền tự do
kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. LDN năm 2014 có hiệu lực vào ngày
01/7/2015 thay thế cho LDN năm 2005 hứa hẹn sẽ tạo nên làn sóng kinh doanh mới
trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, xóa bỏ những rào cản gia nhập thị trường và
tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư.
Qua việc tìm hiểu trên đây, chúng ta thấy rằng quyền tự do kinh doanh chỉ mới
được nước ta thừa nhận trong những năm sau khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế.
Mặc dù trên thực tế, nhu cầu tự do kinh doanh ln là địi hỏi tất yếu của các chủ thể
kinh doanh, nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội và hoàn cảnh đất nước nên sau giai
đoạn đổi mới pháp luật kinh tế Việt Nam mới có cái nhìn đúng đắn, cụ thể và rõ ràng
hơn đối với quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Sự ghi nhận kịp

thời quyền tự do kinh doanh trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp đã tạo ra hành lang
pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện nhu cầu kinh doanh của mình. Đó chính là tiền đề
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam.
1.2.2 Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Tự do kinh doanh gắn liền với phạm trù quyền tự do của con người12 vì vậy, để
đưa ra được khái niệm quyền tự do kinh doanh cần tìm hiểu định nghĩa về quyền tự do.
Tự do được hiểu là trạng thái khơng bị cấm đốn, là khả năng biểu hiện ý chí và
làm theo ý muốn của mình.13 Tự do vừa là bản chất tự nhiên vừa là khát vọng thường
trực của mọi người, trong bất cứ lĩnh vực nào con người cũng ln có xu hướng tìm
đến sự tự do và nó trở thành bản năng sống của mỗi người. Vì vậy quyền tự do trở
thành quyền thiêng liêng vốn có của con người. Được khẳng định trong bản Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, quyền tự do là quyền tự nhiên mà tạo hóa ban
12

Mai Hồng Quỳ (2012), “Một số vấn đề về tự do kinh doanh và tự do hợp đồng ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học

pháp lý, số 02 (69)/2012, tr 3
13

Viện ngơn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, tr 990

13


cho họ và khơng ai có thể xâm phạm. Song đặt trong mối tổng hòa các quan hệ xã hội,
quyền tự do của con người – công dân luôn gắn liền với trình độ phát triển và tiến bộ
xã hội, chịu sự chi phối mạnh mẽ của chế độ chính trị, chế độ kinh tế.14 Vì vậy, trong
khn khổ pháp luật chúng ta cần hiểu rằng tự do không phải là muốn làm gì thì làm,
trong một đất nước có pháp luật, tự do chỉ có thể là được làm những cái nên làm và
không bị ép buộc làm điều không nên làm.15 Bởi sự tự do của một người nếu để cho nó

vơ biên, vơ lượng thì ắt hẳn sẽ ảnh hướng tới tự do của người khác.
Tự do kinh doanh là một trong những quyền tự do quan trọng của con người
trong hoạt động kinh tế. Xét về khái niệm, tự do kinh doanh là một phạm trù rất rộng
và có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Để hiểu nội hàm khái niệm quyền tự do kinh
doanh, cần tiếp cận nó ở góc độ chính trị và pháp lý.
Dưới góc độ chính trị, tự do kinh doanh là một trong những biểu hiện của quyền
tự do dân chủ của công dân.16 Một đất nước muốn phát triển kinh tế cần phải đảm bảo
cho cơng dân của mình có quyền tự chủ nhất định trong hoạt động kinh doanh. Khi
“hạt giống” tự do kinh doanh có “đất” phát triển thì nền kinh tế mới vươn cao, vươn xa
để hội nhập với kinh tế thế giới.
Dưới góc độ pháp lý, quyền tự do kinh doanh cần được xem xét dưới hai khía
cạnh.
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể, tự do kinh doanh là quyền của chủ thể trong việc
lựa chọn các lĩnh vực của đời sống kinh tế để đầu tư kinh doanh với mục đích sinh
lợi.17 Ở khía cạnh này, quyền tự do kinh doanh bao hàm một loạt hành vi mà cá nhân,
pháp nhân được phép tiến hành như: lựa chọn lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh,
tiến hành đăng ký và thành lập doanh nghiệp theo hình thức mình mong muốn.
Thứ hai, quyền tự do kinh doanh phải được hiểu là tổng hợp toàn bộ các quy
định pháp luật mà Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân hay pháp
nhân thực hiện quyền chủ thể nói trên của mình. Dưới khía cạnh này, quyền tự do kinh
doanh bao hàm cả hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là hai mặt của
một vấn đề, muốn tự do kinh doanh tồn tại cần phải có những quy định pháp luật cụ
thể. Bởi lẽ, khi chưa được Nhà nước quy định bằng các quy phạm pháp luật thì quyền

14
15

Bùi Ngọc Cường, tlđd (1), tr 17
Montesquieu (2010), Tinh thần pháp luật, Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Nhà xuất bản Đà Nẵng Tr 101


16

Lê Hồng Hạnh (1992), “Pháp luật và quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2 (77)/1992,
tr 24 – 26
17
Phan Công Thương (2001), “Một số vấn đề về chủ thể kinh doanh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6/2001,
tr19

14


tự do kinh doanh vẫn chưa được thừa nhận mặc dù trên thực tế các chủ thể kinh doanh
luôn tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh.
Như vậy, tự do kinh doanh là quyền của chủ thể kinh doanh mà theo đó bất cứ
ai có nguyện vọng và có đủ khả năng đều có thể trở thành nhà kinh doanh. Song chúng
ta cần hiểu rằng tự do kinh doanh không có nghĩa là chủ thể kinh doanh muốn làm gì
thì làm, càng không phải được thực hiện mọi hành vi kinh doanh mà nó ln nằm trong
một giới hạn cụ thể. Giới hạn đó phụ thuộc vào mức độ điều tiết nền kinh tế của Nhà
nước thông qua pháp luật. Để thể chế hóa quyền kinh doanh của cơng dân, Nhà nước
luôn đặt ra những quy phạm pháp luật liên quan trong hệ thống pháp luật kinh tế làm
cơ sở cho công dân thực hiện quyền năng kinh tế của mình. Có thể nói rằng pháp luật
có vai trị đặc biệt đối với tự do kinh doanh vì nó biến nhu cầu kinh doanh thành một
quyền pháp định, thậm chí cao hơn là một quyền hiến định.18 Pháp luật phải trở thành
công cụ của Nhà nước để vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh vừa hài hòa các lợi ích
trong xã hội. Tuy nhiên tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của đất nước
ở từng giai đoạn lịch sử mà mức độ cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh là khác nhau.
Kinh doanh là nhu cầu tất yếu, nội tại của con người, đảm bảo quyền tự do kinh
doanh là một đòi hỏi có tính chất quy luật của nền kinh tế. Trong cơ chế thị trường mọi
quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa ln chịu sự tác động mạnh mẽ của quy luật giá trị,
quy luật cung cầu. Khi thực hiện hoạt động kinh doanh ai cũng muốn mang về lợi ích

cho bản thân, nếu cá nhân mỗi người làm tốt cơng việc kinh doanh thì điều đó lại có lợi
cho cả nền kinh tế của một một quốc gia. Bởi chính bản thân thị trường có tác dụng
điều tiết nền kinh tế và đảm bảo sự phát triển hài hòa của các quan hệ xã hội mà nhà
kinh tế học Adam Smith gọi là bàn tay vơ hình. Dưới tác động của nền kinh tế thị
trường, các nhà kinh doanh muốn tồn tại và phát triển cần phải thực hiện hoạt động
kinh doanh của mình một cách linh hoạt và phù hợp với nhu cầu của thị trường để
không bị đào thải khỏi cuộc chơi. Vì vậy, họ cần phải có quyền tự chủ nhất định trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là quyền tự chủ trong việc lựa chọn ngành nghề,
hình thức kinh doanh, th mướn nhân cơng,… Tính tự chủ của nền kinh tế thị trường
ln gắn liền với quyền tự do kinh doanh của công dân và có thể nói tự do kinh doanh
được xem là một nguyên tắc cơ bản vận hành nền kinh tế thị trường.
Quyền tự do kinh doanh không nên hiểu rằng phải làm và chỉ làm những gì pháp
luật quy định, vì Nhà nước có thể hạn chế quyền tự do kinh doanh bằng cách thu hẹp
18

Bùi Ngọc Cường (2002), “Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí

Khoa học pháp lý, số 7 (14)/2002, tr 23

15


lại các quy định mà nhà kinh doanh được phép thực hiện.19 Một Nhà nước muốn bảo
đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh của cơng dân thì phải biết quy định những lĩnh
vực, ngành nghề nào cần phải cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh. Về nguyên tắc, các
quyền tự do kinh doanh có thể bị hạn chế nhằm bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức, xã
hội trên cơ sở nguyên tắc cân bằng – hợp lý.20 Điều này có nghĩa rằng khi một cá nhân
thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình thì ln tác động và ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích chính đáng của những chủ thể khác và của cả xã hội. Do vậy, để đảm bảo hài
hịa, cân bằng lợi ích của tất cả chủ thể trong xã hội, Nhà nước cần phải đặt ra những

quy định về ngành nghề, lĩnh vực cấm kinh doanh và hạn chế kinh doanh. Để từ đó nhà
kinh doanh xác định được phạm vi hoạt động của mình, tránh kinh doanh những ngành
nghề gây nguy hại đến ngưỡng an toàn của xã hội và chuẩn bị các điều kiện cần thiết
khi kinh doanh những ngành nghề có điều kiện.
Trên những cơ sở về quyền tự do kinh doanh như đã phân tích, khi nghiên cứu
những quy định về quyền tự do kinh doanh, chúng ta cần phải đảm bảo những yếu tố
cơ bản sau:
Tạo ra thủ tục thuận lợi trong việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh
doanh.
Bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Như đã
phân tích, tự do kinh doanh trong xã hội có giai cấp khơng phải là được làm tất cả
những gì mình muốn mà luôn nằm trong một giới hạn do Nhà nước định ra. Vai trị
quản lý của Nhà nước chính là việc bảo đảm cho giới hạn đó ln phù hợp với lợi ích
chung của xã hội và thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển.
Ràng buộc doanh nghiệp chặt chẽ bằng những trách nhiệm pháp lý rõ ràng cụ
thể để đảm bảo trật tự kinh doanh dưới sự điều tiết của Nhà nước.
Quyền tự do kinh doanh là một đòi hỏi cơ bản của con người trong hoạt động
kinh tế, việc thừa nhận quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia. Một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế là đảm
bảo quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế được tham gia
một cách bình đẳng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một nguyên tắc vô
cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó cịn tạo ra
19

Theo Bùi Xn Hải (2011), “Tự do kinh doanh: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 5 (277)/2011, tr 68 – 74
20
Xem Phan Huy Hồng, Nguyễn Thanh Tú (2012), Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật liên minh Châu Âu và
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr 146


16


được mơi trường kinh doanh lành mạnh, có sức cạnh tranh giữa các chủ thể kinh
doanh, điều đó khơng chỉ kêu gọi nhà đầu tư trong nước mà còn hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài để phát triển kinh tế một cách toàn diện. Việt Nam đang xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải tạo tiền đề
vững chắc cho người dân thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình.
Một lần nữa khẳng định rằng, quyền tự do kinh doanh là quyền tự nhiên của con
người, nó tồn tại một cách khách quan. Chỉ có điều ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, phụ
thuộc vào ý chí của giai cấp cầm quyền, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước ở từng giai đoạn mà phạm vi thừa nhận quyền tự do kinh doanh ở mức độ
khác nhau.
1.2.3 Chủ thể của quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là nhu cầu của mỗi cá nhân trong hoạt động kinh tế,
nhưng nó chỉ được thừa nhận khi được pháp luật điều chỉnh. Dưới sự tác động của các
quy phạm pháp luật, mỗi loại quan hệ pháp luật đều có cơ cấu chủ thể nhất định, do đó
khơng phải bất cứ ai cũng trở thành chủ thể của quyền tự do kinh doanh.
Theo lý luận chung về pháp luật, chủ thể của một quan hệ pháp luật phải là
những cá nhân, tổ chức đáp ứng được những điều kiện mà pháp luật quy định cho mỗi
loại quan hệ pháp luật và tham gia vào quan hệ pháp luật đó.21 Như vậy, để trở thành
chủ thể của quyền tự do kinh doanh mỗi người phải có được những điều kiện nhất định
về năng lực chủ thể theo luật định.
Mọi người đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, đây là
khả năng pháp luật cho phép một chủ thể hưởng những quyền và nghĩa vụ liên quan
đến tự do kinh doanh. Song để hiện thực hóa những quy định của pháp luật trên thực tế
đó chủ thể phải thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật đặt ra như: nguồn vốn, đăng ký
kinh doanh, khả năng nhận thức… và thông qua các hành vi cụ thể của mình để tham
gia vào quan hệ pháp luật đó.
Đi từ nền tảng lý luận về pháp luật như trên đã trình bày, chủ thể có quyền tự do

kinh doanh phải là cá nhân có đăng ký kinh doanh dưới một hình thức pháp lý nhất
định hay nói cách khác đó chính là các chủ thể kinh doanh. Khi muốn thực hiện hoạt
động kinh doanh, cá nhân phải lựa chọn cho mình mơ hình pháp lý nhất định được Nhà
nước thừa nhận thì mới đảm bảo quyền tự do kinh doanh của mình. Theo pháp luật
thực định, chủ thể kinh doanh là những tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh
21

Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Tài liệu lưu hành nội bộ, tr

105

17


×