Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quyền trẻ em những khía cạnh pháp lý và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

NGUYỄN QUỐC SONG TỒN

QUYỀN TRẺ EM – NHỮNG KHÍA CẠNH
PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2006 – 2010

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Lƣu Đức Quang

Tp. Hồ Chí Minh – 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

NGUYỄN QUỐC SONG TỒN

QUYỀN TRẺ EM – NHỮNG KHÍA CẠNH
PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2006 – 2010

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Lƣu Đức Quang


Tp. Hồ Chí Minh – 2010


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................. 2
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................. 4
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền trẻ em ...................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về quyền trẻ em ..................................................................... 6
1.1.1. Cơ sở và lược sử hình thành các tư tưởng về quyền trẻ em ................................ 6
1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em ....................................................................................... 9
1.2. Những quy định của pháp luật về quyền trẻ em ....................................................... 13
1.2.1. Những quy định của pháp luật quốc tế về quyền trẻ em ..................................... 13
1.2.2. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em .................................. 20
Chƣơng 2: Thực tiễn thực hiện quyền trẻ em ở nƣớc ta và một số kiến nghị ............. 38
2.1. Thực tiễn thực hiện quyền trẻ em ở nước ta ............................................................. 38
2.1.1. Thực hiện quyền trẻ em trong lĩnh vực hình sự ................................................... 38
2.1.2. Thực hiện quyền trẻ em trong lĩnh vực chăm sóc y tế ......................................... 46
2.1.3. Thực hiện quyền trẻ em trong lĩnh vực giáo dục ................................................. 50
2.1.4. Thực hiện quyền trẻ em trong một số lĩnh vực chính trị, xã hội khác ................. 55
2.1.5. Bảo vệ trẻ em có hồn cảnh đặc biệt................................................................... 59
2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện hiệu quả quyền trẻ em tại Việt Nam................... 62
2.2.1. Những biện pháp xã hội ...................................................................................... 62
2.2.2. Những biện pháp pháp lý .................................................................................... 65
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 70
PHẦN PHỤ LỤC ............................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 82


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Văn kiện pháp lý quốc tế

Công ước của ILO về nghiên cứu và hành động ngay lập

Cơng ước 182

tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989

CRC

Nghị định thư không bắt buộc về việc sử dụng trẻ em
CRC – OPAC

trong xung đột vũ trang, bổ sung cho Công ước quốc tế
về quyền trẻ em
Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mại

CRC – OPSC

dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung
cho Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm

ICCPR

1966
Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn

ICESCR

hóa năm 1966

Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền của Liên Hiệp

UDHR

Quốc năm 1948

Các văn bản pháp luật Việt Nam
Hiến pháp 1992
BLDS năm 2005
BLHS năm 1999
BLLĐ năm 1994

Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm
2001)
Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi bổ sung năm
2009)
Bộ luật Lao động năm 1994 (đã được sửa đổi , bổ sung
năm 2002, 2006, 2007)

BLTTDS năm 2004

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004

BLTTHS năm 2003

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

Luật BVCSGDTE năm 2004


Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004


Luật BVCSSKND năm 1989

Luật Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân năm 1989

Luật HN&GĐ năm 2000

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Luật KNTC năm 1998
Luật PCGDTH năm 1991
PLXLVPHC năm 2002

Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi bổ
sung năm 2004 và 2005)
Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đã được
sửa đổi bổ sung năm 2008)

Các từ viết tắt khác
Bộ GDĐT

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ LĐTBXH

Bộ lao động, thương binh, xã hội


CBXH

Cán bộ xã hội

CBVTE

Cục bảo vệ trẻ em

CTXH

Cơng tác xã hội

HCĐB

Hồn cảnh đặc biệt

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

LĐCTN

Lao động chưa thành niên

LHQ

Liên Hiệp Quốc

NCTN


Người chưa thành niên

NĐT

Nghị định thư

TAVTN

Tòa án vị thành niên

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTDS

Tố tụng dân sự

UBVQTE

Ủy ban về quyền trẻ em

Unicef

Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc

VPHC

Vi phạm hành chính


VPPL

Vi phạm pháp luật


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và
đã đạt được những thành công ban đầu trong việc phát triển kinh tế cũng như nâng cao mức
sống của người dân. Ngày nay, trẻ em Việt Nam đang được hưởng những thành quả to lớn
do nền kinh tế phát triển mang lại như được giáo dục, được chăm sóc sức khỏe trong những
điều kiện tốt hơn. Tuy nhiên, một vấn đề mà nhà nước và xã hội đang rất quan tâm đó là
tình trạng trẻ em bị bỏ rơi sống lang thang ở các đô thị lớn; trẻ em không được đến trường
hoặc bỏ học cũng như không được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản và
đáng báo động hơn là tình trạng trẻ em bị xâm hại, cưỡng bức lao động cũng như vi phạm
pháp luật ngày càng gia tăng.
Chúng ta dành chương V của Hiến pháp năm 1992 để quy định về quyền con người,
quyền công dân; chúng ta có rất nhiều đạo luật quy định những về vấn đề quyền trẻ em như
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Giáo dục năm 2005… Bên cạnh
đó, các văn bản pháp luật Quốc tế cũng có quy định về vấn đề quyền trẻ em mà điển hình
nhất là Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Với rất nhiều những quy định pháp
luật như trên nhưng tình trạng trẻ em không được đến trường, bỏ học, trẻ bị xâm hại, cũng
như trẻ em vi phạm pháp luật vẫn đang có chiều hướng gia tăng và trở thành vấn đề nhức
nhói của tồn xã hội.
Xuất phát từ đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Quyền trẻ em – những khía
cạnh pháp lý và thực tiễn” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.
2. Mục đích của đề tài
Việc chọn đề tài: “Quyền trẻ em – những khía cạnh pháp lý và thực tiễn” làm
khóa luận tốt nghiệp, tác giả mong muốn nêu lên được một số vấn đề về lý luận cũng như

phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam và Quốc tế về quyền trẻ em. Từ đó, tác giả

1


liên hệ với thực tiễn thực hiện quyền trẻ em tại Việt Nam để xem xét một số hạn chế và
khó khăn cũng như nêu ra một số kiến nghị của tác giả.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp đặc
thù của ngành khoa học xã hội như: so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp… trên cơ sở
quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac – Lenin, cụ thể:
+ Phương pháp phân tích được sử dụng khi xác định khái niệm cũng như phân tích
các quy định của pháp luật.
+ Phương pháp tổng hợp được dùng khi đưa ra các vấn đề ở các mục, các chương.
+ Phương pháp thống kê được sử dụng khi đưa ra các số liệu về thành tựu và hạn
chế.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu được dùng khi xem xét quy định của pháp luật
Việt Nam cũng như Quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Quyền trẻ em là một bộ phận của quyền con người được nhà nước ghi nhận trong
pháp luật quốc gia và được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên bình diện tồn cầu. Với
những mục đích đã đưa ra, đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về
quyền trẻ em; đưa ra những quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề quyền trẻ em để từ
đó đánh giá thực trạng thực hiện quyền trẻ em tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu
lên một số kiến nghị của mình.
5. Cơ cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và danh
mục các từ viết tắt thì khóa luận được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền trẻ em.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền trẻ em ở nước ta và một số kiến nghị.


2


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ QUYỀN TRẺ EM

1.1. Những vấn đề lý luận về quyền trẻ em
1.1.1. Cơ sở và lược sử hình thành các tư tưởng về quyền trẻ em
 Cơ sở lý luận cho sự ra đời các quy định về quyền trẻ em:
Quyền con người với tư cách là một quyền tự nhiên và vốn có của mỗi con người đã
được cộng đồng thừa nhận và được quy định trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật
quốc tế. Tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người thường bắt đầu bằng cụm từ: “mọi
người sinh ra đều có quyền” hoặc “khơng một ai có thể bị tước đoạt”. Từ đó, ta có thể
khẳng định một đặc tính cố hữu của quyền con người đó chính là tính bình đẳng và không
tồn tại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về dân tộc, màu da, tơn giáo, giới tính, độ tuổi… Trẻ
em với tư cách là một con người, một thành viên của xã hội thì cũng đương nhiên được
hưởng các quyền cơ bản như những thành viên khác trong xã hội và các quyền trẻ em
không chỉ được bảo vệ bằng tình thương hay lịng nhân đạo của người lớn mà cịn phải
được bảo vệ bằng một cơng cụ hữu hiệu và có tính cưỡng chế cao đó chính là pháp luật.
Trẻ em, bên cạnh là một con người, một thành viên của xã hội được thừa nhận và
được hưởng các quyền cơ bản như các chủ thể khác thì trẻ em cịn là một chủ thể đặc biệt.
Ngun Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã từng phát biểu: “Trẻ em là người kế tục đường lối sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhưng khi trẻ em còn chưa phát triển đầy đủ, còn non
nớt về thể chất và tinh thần, dễ bị tổn thương thì việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
ln là mối quan tâm đặc biệt hàng đầu của Đảng và nhà nước…” [56]. Từ đó, ta suy ra
một đặc điểm của trẻ em khác các chủ thể khác trong xã hội đó chính là sự non nớt về thể
chất, tinh thần, rất dễ bị tổn thương và có những nhu cầu rất đặc thù. Do đó, bên cạnh
những quyền cơ bản như các chủ thể khác, pháp luật cần quy định những quyền đặc thù

nhằm bảo vệ và giúp đỡ trẻ em có thể phát triển bình thường.

3


Một cơ sở quan trọng cho việc cần phải quy định và bảo vệ các quyền trẻ em chính
vì vai trò của trẻ em trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ngày nay các cháu là
nhi đồng. Ngày sau các cháu là chủ của nước nhà, của thế giới…” [55]. Chính từ vai trị
quan trọng “là tương lai dân tộc, là người kế tục đường lối sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc…” mà ta thấy thật cần thiết phải có quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền trẻ
em để các em được phát triển và có thể thực hiện vai trị của mình đối với xã hội.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận nói trên, chúng ta thấy được sự cần thiết của việc
phải có các quy định về quyền trẻ em và đồng thời phải có cơ chế để đảm bảo các quyền
này được thực hiện trong thực tế.
 Lược sử hình thành các tư tưởng về quyền trẻ em:
Ngay từ thuở sơ khai của xã hội, con người đã nhận thức được rằng: với đặc điểm
non nớt và dễ bị tổn thương, trẻ em phải được chăm sóc và bảo vệ một cách đặc biệt. Tuy
nhiên, trong suốt một giai đoạn rất dài của lịch sử loài người, trẻ em khơng những khơng
được chăm sóc một cách đầy đủ mà còn bị xem là tài sản của cha mẹ, là đối tượng phụ
thuộc vào người lớn. Lịch sử đã chứng kiến rất nhiều thảm kịch thương tâm xảy ra cho trẻ
em như: trẻ bị bỏ rơi, bị giết hại, hành hạ, thất học, bị buộc làm nơ lệ… Ví dụ: tại thành
bang Sparta thời kỳ chiếm hữu nô lệ, trẻ em trai khi sinh ra sẽ bị giết nếu như cơ thể có
khuyết tật hay ốm yếu.
Xã hội lồi người ngày càng phát triển thì sự quan tâm dành cho trẻ em cũng được
đặt ra nhiều hơn. Tại Châu Âu vào thế kỷ XV, các cơng trình cơng cộng dành cho trẻ em
bắt đầu xuất hiện như bệnh viện Spedale Degli Innocenti ở Florent [41, tr.328]. Tại Việt
Nam, Bộ luật Hồng Đức đã có những quy định về vấn đề bảo vệ trẻ em như: trẻ em dưới 7
tuổi phạm tội thì khơng bị xem là tội phạm, trẻ dưới 15 tuổi phạm tội thì được giảm nhẹ tội
[44, tr.222], các quy định về trách nhiệm của quan lại địa phương cũng như dân chúng phải
giúp đỡ các trẻ em tàn tật, nghèo khổ, mồ côi, không nơi nương tựa, Luật còn nghiêm trị

các tội xâm hại trẻ em, buôn bán trẻ em…
Đầu thế kỷ XX, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã cướp đi hàng triệu sinh mạng
con người trong đó có rất nhiều trẻ em bị chết, mồ cơi và tổn thương. Tình hình cấp thiết
lúc ấy đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và

4


Thụy Điển. Tuy nhiên, thuật ngữ “quyền trẻ em” chỉ được chính thức thừa nhận trong pháp
luật Quốc tế khi bà Eglantyne Jebb (người sáng lập tổ chức cứu trợ trẻ em ở Anh năm
1919) đã soạn ra một “tuyên bố với 7 điểm trong đó kêu gọi các quốc gia hãy thừa nhận và
bảo vệ các quyền của trẻ em” [41, tr.328]. Vào năm 1924, bản tuyên ngôn đã được thông
qua bởi Hội quốc liên.
Sau khi LHQ được thành lập, hàng loạt các văn bản quốc tế về quyền con người đã
ra đời như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (viết tắt là UDHR) cùng với hai
CƯQT về quyền con người là Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
(viết tắt là ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
(viết tắt là ICESCR)… Ngày 20/11/1989, LHQ thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ
em (CRC) và tính đến thời điểm hiện tại, Cơng ước đã có191 thành viên và Việt Nam là
nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn CRC. Năm 2000, LHQ
tiếp tục thơng qua hai NĐT bổ sung cho CRC đó là: Nghị định thư không bắt buộc về buôn
bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước
quốc tế về quyền trẻ em (viết tắt là CRC-OPSC) và Nghị định thư không bắt buộc về việc
sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang, bổ sung cho Công ước quốc tế về quyền trẻ em
(viết tắt là CRC-OPAC).
Cho đến nay, hơn 80 văn kiện pháp lý quốc tế về trẻ em đã được ban hành và thông
qua bởi các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Kể từ đây, quyền trẻ em đã chính thức được
thừa nhận và bảo vệ (xem thêm phụ lục số 6).
1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em chính là cách nói ngắn gọn của cụm từ “quyền con người của trẻ em”.

Do đó, để có được khái niệm quyền trẻ em, chúng ta cần phải có cái nhìn tổng thể về khái
niệm quyền con người; tìm hiểu khái niệm trẻ em cũng như những điểm khác biệt của trẻ
em để cần phải quy định cho trẻ em các quyền riêng biệt; ngoài ra, chúng ta cũng cần phải
biết được các cách tiếp cận vị thế của trẻ em trong xã hội để có thể nắm bắt được cách tiếp
cận đúng đắn khi nói về vấn đề quyền trẻ em.

5


Thứ nhất: Khái niệm quyền con ngƣời
+ Theo Văn phòng cao ủy LHQ về quyền con người: “Human rights are universal
gurantees protecting inviduals and group against actions and omissions that interfere with
fundamental freedoms, entitlements and human dignity” [80, tr.6]. Được hiểu là: “Quyền
con người là những đảm bảo pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm người chống lại những hành động và sự bỏ mặc mà những điều này có thể làm tổn
hại đến nhân phẩm, sự được phép hoặc tự do cơ bản”.
+ Theo Từ điển luật học: “Quyền con người là quyền của thành viên trong xã hội
loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực
của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia…” [47, tr.649].
+ Theo P.H Collin: “Human rights are rights of individual men and women to
basic freedoms such as freedom of speech, freedom of association…” [79, tr.325]. Tạm
dịch là: “Quyền con người là những quyền tự do cơ bản của cá nhân nam và nữ như quyền
tự do ngơn luận, tự do hội họp…”
Tuy có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người nhưng chúng ta có thể
hiểu một cách cơ bản đó là: “quyền con người chính là những quyền cơ bản mà mỗi con
người đều được hưởng và các quyền này phải được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật”.
Thứ hai: Khái niệm trẻ em và đặc điểm riêng biệt của trẻ em
 Trẻ em là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: y học,
xã hội học, tâm lý học, luật học... Tùy thuộc vào mục tiêu và cấp độ, mỗi ngành khoa học

lại những định nghĩa khác nhau về trẻ em.
+ Dưới góc độ y học, theo TS. Bác sĩ Hồng Văn Tiến – Phó cục trưởng CBVTE:
“trẻ em là một thuật ngữ chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai
đoạn đầu của sự phát triển con người” [59, tr.8].
+ Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “trẻ em là giai đoạn phát triển của đời
người từ lúc sơ sinh cho đến tuổi trưởng thành. Có đặc điểm nổi bật là sự phát triển liên
tục về thể chất và tâm thần…” [39, tr.235].

6


+ Dưới góc độ pháp lý, điều 1 CRC quy định: “trẻ em có nghĩa là tất cả những
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn”, điều 1 Luật BVCSGDTE năm 2004 quy định: “trẻ em quy định trong luật
này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Mặc dù tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau nhưng khái niệm trẻ em của các ngành
khoa học có một điểm thống nhất đó là đều căn cứ vào độ tuổi để đưa ra khái niệm. Tuy
nhiên, trong ngôn ngữ pháp lý, chúng ta thường thấy một thuật ngữ có nghĩa tương tự với
trẻ em đó là “người chưa thành niện” (NCTN). Điều 18 BLDS năm 2005 quy định NCTN
là người chưa đủ 18 tuổi. Do đó, nếu chúng ta căn cứ vào Luật BVCSGDTE năm 2004 thì
có thể nói trẻ em là NCTN nhưng ngược lại nếu nói NCTN là trẻ em thì khơng chính xác vì
nội hàm của thuật ngữ NCTN rộng hơn nội hàm của trẻ em (trẻ em không bao hàm đối
tượng từ 16 tuổi tới chưa đủ 18 tuổi mặc dù đối tượng này là NCTN). Mặc khác, nếu chúng
ta căn cứ theo CRC thì trẻ em lại đồng nghĩa với NCTN ở góc độ là tuổi tác (dưới 18 tuổi).
Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu theo hướng này thì sẽ có một hạn chế ở việc độ tuổi khơng
được đóng khung mà tùy thuộc vào pháp luật quốc gia cho nên ở mỗi quốc gia nên có thể
xảy ra hiện tượng “trẻ em quốc tế nhưng là người trưởng thành ở quốc gia” mà điển hình
là tại Việt Nam.
 Những đặc điểm riêng biệt của trẻ em:
+ Trẻ em là lứa tuổi chưa có sự phát triển hồn thiện về thể chất và tinh thần. Đây

là đặc điểm đã được một số ngành khoa học như tâm lý học, y học... chứng minh. Xuất
phát từ đặc điểm này, chúng ta cần phải có những cơ chế bảo vệ đặc thù cả dưới góc độ xã
hội và góc độ pháp luật để có thể giúp trẻ em (một đối tượng nằm trong nhóm đối tượng dễ
bị tổn thương) có được sự phát triển bình thường.
+ “Trẻ em cần có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội cả về
mặt pháp lý” [43, tr.4]. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em là cơng việc của tồn xã hội mà
khơng phải là của riêng nhà nước và việc bảo vệ các em phải bằng những cơ chế đặc biệt
và hữu hiệu.

7


Thứ ba: Vị thế của trẻ em từ những cách tiếp cận khác nhau
Trong lịch sử loài người, trẻ em được quan tâm chăm sóc ở những mức độ khác
nhau tùy từng điều kiện và hoàn cảnh lịch sử. Việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn phụ thuộc rất nhiều vào cách tiếp cận của các chủ thể trong xã hội
đối với vị thế và vai trị của trẻ em. Nhìn chung, xã hội loài người tồn tại ba cách tiếp cận
cơ bản:
+ Tiếp cận dưới góc độ tình thương và lịng nhân đạo: cách tiếp cận này xem “trẻ
em là đối tượng phụ thuộc nhưng cần được xã hội bảo vệ. Sự bảo vệ, giúp đỡ tùy thuộc vào
lòng trắc ẩn của mọi người trước những tình huống khẩn cấp đe dọa cuộc sống của trẻ em
hay những hồn cảnh khó khăn, đau khổ của trẻ em và dừng lại khi những tình huống đó
cơ bản đã được giải quyết” [42, tr.33]. Cách tiếp cận này có một hạn chế rất lớn đó là việc
bảo vệ trẻ em được xuất phát từ lòng trắc ẩn của con người nghĩa là bảo vệ trẻ em theo kiểu
“thương thì bảo vệ, khơng thương thì thơi” mà khơng quy định đó là nghĩa vụ đối với các
thành viên khác trong xã hội. Mặt khác, trẻ em chỉ được giúp đỡ khi rơi vào hoàn cảnh khó
khăn, đau khổ hay tình huống đe dọa mạng sống cịn trong điều kiện bình thường, trẻ em sẽ
khơng được bảo vệ.
+ Tiếp cận dưới góc độ quyền con người: cách tiếp cận này xem “trẻ em cũng là
những con người, những thành viên của xã hội, những công dân của quốc gia nên phải là

chủ thể của quyền như người lớn và phải được các chủ thể khác tôn trọng, thực hiện các
quyền đó thường xuyên, theo đúng quy định pháp luật” [42, tr.33]. Cách tiếp cận này có ưu
điểm là xem trẻ em là một con người, một chủ thể của quyền nên trẻ em cũng sẽ được bảo
vệ các quyền con người như các chủ thể khác và việc bảo quyền trẻ em được quy định
trong pháp luật là nghĩa vụ bắt buộc đối với các chủ thể khác. Tuy nhiên, điểm hạn chế của
cách tiếp cận này là chưa nhận thấy được đặc điểm riêng biệt của trẻ em để quy định các
quyền đặc thù cho các em.
+ Tiếp cận dưới góc độ quyền trẻ em: cách tiếp cận này xem “trẻ em là con người
nhưng là những con người còn non nớt cả về thể chất và tinh thần, cần phải được bảo vệ
đặc biệt. Vì vậy, trẻ em vừa phải được hưởng thụ các quyền tự do cơ bản của con người
vừa phải được đáp ứng những nhu cầu đặc thù” [42, tr.33]. Cách tiếp cận này có ưu điểm

8


là không chỉ xem trẻ em là một công dân, một chủ thể của quyền để bảo vệ các em bằng
các quy định của pháp luật mà còn xem trẻ em là một chủ thể có những đặc điểm riêng biệt
đó là sự non nớt về thể chất và tinh thần. Cách tiếp cận này yêu cầu chúng ta không chỉ bảo
vệ các quyền con người của các em mà còn phải quy định các quyền đặc thù để giúp các
em có thể phát triển bình thường. Đây là cách tiếp cận đúng đắn nhất cho thấy được vị thế
của trẻ em trong xã hội.

=> Từ những cách hiểu về quyền con người và trẻ em như trên, tác giả xin đưa ra
một định nghĩa về quyền trẻ em: “Quyền trẻ em hay quyền con người của trẻ em là những
quyền cơ bản mà trẻ em với tư cách là con người, một chủ thể quyền được hưởng giống
như những thành viên cịn lại trong xã hội. Tuy nhiên, vì là một chủ thể đặc biệt rất dễ bị
tổn thương nên ngồi những quyền cơ bản, quyền trẻ em cịn bao gồm một số quyền đặc
thù nhằm giúp trẻ em đạt được sự phát triển bình thường; đồng thời, các quyền của trẻ em
phải được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật của quốc gia và quốc tế”.
1.2. Những quy định của pháp luật về quyền trẻ em

1.2.1. Những quy định của pháp luật quốc tế về quyền trẻ em
Thứ nhất: Những quy định của pháp luật quốc tế về quyền con ngƣời
Trong suốt một thời gian dài, nhân loại khơng có bất kỳ Điều ước quốc tế nào quy
định quyền con người nói chung cũng như quyền của trẻ em nói riêng. Năm 1948, LHQ
thơng qua UDHR trong đó có 26 điều (từ điều 3 đến điều 28) quy định về những quyền cơ
bản của con người. UDHR đã đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc bảo vệ
quyền con người với sự ra đời hàng loạt văn bản pháp lý quốc tế bảo vệ nhân quyền sau
này.
Năm 1966, LHQ tiếp tục thông qua hai công ước quan trọng về quyền con người là
ICCPR và ICESCR. Cả hai Cơng ước có những quy định khá cụ thể và chi tiết về việc bảo
vệ các quyền cơ bản của con người cũng như quy định cơ chế giám sát của LHQ. Bên cạnh
đó, hai Cơng ước cũng quy định một số quyền cơ bản của trẻ em như: khoản 5 điều 6
ICCPR quy định về quyền của NCTN khơng bị tun án phạt tử hình; điều 24 ICCPR quy
định về vấn đề bình đẳng khơng phân biệt đối xử giữa các trẻ em cũng như quyền được

9


khai sinh, được có quốc tịch và tên gọi… Khoản 2 điều 13 ICESCR quy định về vấn đề
phổ cập tiểu học; điểm a khoản 2 điều 12 ICESCR quy định về bảo vệ sức khỏe trẻ sơ sinh,
trẻ em và giúp các em phát triển một cách bình thường; khoản 3 điều 10 ICESCR quy định
về việc không phân biệt đối xử với trẻ em và ngăn cản tình trạng bóc lột sức lao động trẻ
em…
Hệ thống các quy định nằm trong UDHR, ICCPR và ICESCR có thể được xem là
“bộ luật nhân quyền quốc tế” với rất nhiều quy định về các quyền cơ bản của con người
trên nhiều lĩnh vực trong đó có những quy định về quyền trẻ em. Các quy định về quyền trẻ
em trong cả hai Cơng ước chính là sự phát triển ban đầu, là tiền đề của sự ra đời CRC sau
này.

Thứ hai: Những quy định trong Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em

 Ý nghĩa của CRC:
CRC được đánh giá là “văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em
hiện nay” [42, tr.27] vì:
+ CRC đã đưa ra một định nghĩa chung về trẻ em (điều 1) có thể áp dụng cho mọi
xã hội mà khơng có bất kỳ sự phân biệt nào về dân tộc, tơn giáo, chế độ chính trị...
+ CRC tiếp cận trẻ em trên phương diện hoàn toàn khác biệt so với các cách tiếp
cận trước đây, CRC xem “trẻ em là những chủ thể của các quyền và của quá trình phát
triển chứ khơng phải là đối tượng được hưởng sự quan tâm, thương hại hay lòng từ thiện
thuần túy” [42, tr.30]. Trong lời nói đầu, CRC thừa nhận đặc điểm non nớt về thể chất và
tinh thần của trẻ em cũng như thừa nhận có nhiều trẻ em trên thế giới sống trong điều kiện
khó khăn.
+ CRC đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho những quy định về
quyền trẻ em cũng như nghĩa vụ thực hiện các quyền trẻ em.
+ CRC có những quy định“ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia đã phê chuẩn
hoặc gia nhập trong việc thực hiện các quyền trẻ em. Khơng những thế, nó cịn xác lập một

10


cơ chế pháp lý để theo dõi, giám sát sự tiến bộ của các quốc gia trong việc bảo đảm các
quyền trẻ em” [42, tr.28].
+ Tuy nhiên, một lí do quan trọng nhất để có thể đánh giá CRC là “văn kiện quốc
tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em hiện nay” chính là sự đầy đủ trong quy định về
quyền trẻ em mà rất nhiều quyền chưa từng được quy định trước đó. Với tập hợp các quyền
được quy định trong CRC, trẻ em sẽ được bảo vệ, chăm sóc cũng như có khả năng được
phát triển một cách bình thường cả về thể chất, tinh thần, tình cảm và văn hóa.

11



 Các nguyên tắc cơ bản của CRC:
CRC đã đưa ra được các nguyên tắc cơ bản làm cơ sở, nền tảng cho các quy định về
quyền trẻ em. Đây thực sự là một sự tiến bộ và một điểm nổi bậc rất lớn của CRC so với
các Công ước quốc tế về nhân quyền được ban hành trước đây. Nội dung các nguyên tắc
của CRC có thể được biểu hiện thơng qua mơ hình sau:
HỆ THỐNG CÁC NGUN TẮC CỦA CRC [42, Tr.34]
Tất cả trẻ em đều
được hưởng các
quyền trẻ em trong
CRC, bất kể dân tộc,
chủng tộc, giới tính,
tơn giáo, dịng dõi
gia đình, tài sản…

Bảo đảm sự
sống cịn và
phát triển
của trẻ em

Mỗi trẻ em đều có
quyền được sống và
phát triển về mọi
mặt. Các quốc gia
phải đảm bảo đến
mức tối đa sự sống
cịn và phát triển của
trẻ em

(điều 6)
Khơng phân

biệt đối xử
(điều 2)

Trẻ em có quyền bày
tỏ ý kiến, quan điểm
về các vấn đề liên
quan đến cuộc sống
của trẻ và được
người lớn lắng nghe,
tôn trọng, xem xét
các ý kiến, quan
điểm đó.

BỐN
NGUN
TẮC

Tơn trọng ý
kiến của trẻ
em
(điều 12)

12

Lợi ích tốt
nhất dành
cho trẻ em
(điều 3)

Trong mọi hoạt

động có liên quan
đến trẻ em, nhà
nước, các bậc cha
mẹ và các chủ thể
khác phải lấy lợi
ích của trẻ em là
mục tiêu hàng đầu.


 Các nhóm quyền trẻ em được quy định trong CRC:
Để tiếp cận với các quy định về quyền trẻ em trong CRC chúng ta thường tiến hành
phân nhóm các quyền trẻ em. Cách phân nhóm thứ nhất là phân nhóm theo truyền thống có
nghĩa là chia quyền trẻ em ra thành hai nhóm quyền: nhóm các quyền dân sự, chính trị và
nhóm các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (giống hai Công ước quốc tế về quyền con
người của LHQ). Cách phân nhóm thứ hai thường được sử dụng hơn khi tìm hiểu các quy
định về quyền trẻ em của CRC vì nó “khái qt được tinh thần và nội dung cơ bản của
Công ước” [42, tr.52] đó là chia quyền trẻ em thành 4 nhóm:
+ Nhóm quyền được sống còn: quyền được sống còn của trẻ em là những thiết chế
nhằm đảm bảo cho sự sống sót của trẻ em. Quyền được sống cịn của trẻ em khơng giống
như quyền được sống cịn của chủ thể khác chỉ bao gồm quyền được đảm bảo tính mạng
mà quyền được sống còn của trẻ em còn bao gồm quyền phải được chăm sóc sức khỏe,
được cung cấp đầy đủ dưỡng chất một cách tốt nhất mà nguyên nhân xuất phát từ sự non
nớt khơng thể tự chăm sóc bản thân của trẻ em. Các quyền thuộc nhóm này được quy định
tại: điều 6, điều 24 (xem phụ lục số 5).
+ Nhóm quyền được bảo vệ: quyền được bảo vệ của trẻ em là những thiết chế
nhằm bảo vệ, đảm bảo cho trẻ em tránh khỏi mọi sự xâm hại có thể đe dọa đến sự sống cịn
và phát triển của trẻ em. Sự bảo vệ dành cho trẻ em trong CRC là sự ngăn ngừa và khắc
phục những sự xâm hại (bóc lột, lạm dụng, ngược đãi, bỏ rơi...) đối với thể chất, tinh thần
cũng như các nguy cơ, điều kiện bất lợi có thể xảy ra đối với sự sống của trẻ em. Đây là
nhóm quyền chiếm số lượng lớn các điều luật của CRC với 22 điều luật gồm: điều 7, điều

8, điều 9, điều 10, điều 11, điều 16, điều 19, điều 20, điều 21, điều 22, điều 23, điều 25,
điều 30, điều 32, điều 33, điều 34, điều 35, điều 36, điều 37, điều 38, điều 39, điều 40 (xem
phụ lục số 5).
+ Nhóm quyền được phát triển: quyền được phát triển của trẻ em là những thiết chế
giúp cho các em có thể đạt được một sự phát triển bình thường. Theo CRC, sự phát triển
của trẻ em là một sự phát triển tồn diện bao gồm thể chất, tinh thần, trí tuệ, tình cảm, đạo
đức và xã hội. Nhóm quyền này chủ yếu hướng tới việc cung cấp đầy đủ các dưỡng chất để
giúp trẻ em phát triển về thể chất; cung cấp các điều kiện vui chơi, giải trí, văn hóa, văn

13


nghệ... để giúp trẻ em phát triển về văn hóa, đạo đức, tình cảm xã hội; tạo điều kiện cho trẻ
em được giáo dục để giúp trẻ phát triển trí tuệ. Các quyền thuộc nhóm được quy định tại:
điều 26, điều 27, điều 28, điều 31 (xem phụ lục số 5).
+ Nhóm quyền được tham gia: quyền được tham gia của trẻ em là những thiết chế
tạo điều kiện cho trẻ có thể tham gia vào các hoạt động cũng như bày tỏ ý kiến, quan điểm
của mình. Đây là một nhóm quyền khá mới do quan niệm trước đây thường xem trẻ em là
đối tượng phụ thuộc vào cha mẹ nên mọi vấn đề của trẻ em đều do cha mẹ quyết định, trẻ
em khơng có quyền biểu đạt ý kiến cũng như không được tôn trọng ý kiến. Nhóm quyền
này hướng đến việc giúp cho trẻ em có khả năng tiếp cận thông tin đồng thời tạo điều kiện
cho trẻ em được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình và các ý kiến của các em cần phải được
tôn trọng, lắng nghe và xem xét. Các quyền thuộc nhóm này được quy định tại: điều 12,
điều 13, điều 14, điều 15, điều 17 (xem phụ lục số 5).
 Cơ chế thực hiện và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo các quy
định của CRC
+ Một vấn đề cơ bản của quyền con người đó chính là “quyền con người hồn tồn
khơng phải là vô hạn” [42, tr.54] cho nên việc hưởng thụ các quyền có thể bị hạn chế bởi
các yếu tố khác nhau và cách thức đảm bảo các quyền cũng khác nhau tùy từng loại quyền.
Các quyền dân sự, chính trị thường được thực hiện ngay lập tức và chỉ bị hạn chế trong

một số trường hợp trong khi đó các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội thường được thực hiện
tùy thuộc vào điều kiện phát triển của từng quốc gia. CRC có rất nhiều quy định về quyền
trẻ em và cách thực hiện các quyền, đi cùng với các quy định đó là các quy định về giới
hạn việc hưởng thụ các quyền theo nguyên tắc mỗi loại quyền sẽ được đảm bảo thực hiện ở
từng mức độ khác nhau. Ví dụ: điều 14 CRC (điều luật quy định về quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo và đây là một quyền dân sự, chính trị) có quy định: “Quyền tự do biểu thị
tơn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể chịu những hạn chế do pháp luật đề ra và là cần thiết
để bảo vệ an tồn cơng cộng, trật tự xã hội…” nghĩa là quyền này được thực hiện khi
không xâm phạm đến một số chuẩn mực xã hội nhất định. Điều 28 CRC (điều luật quy
định về quyền được học tập của trẻ em và đây là một quyền về văn hóa) có quy định: “trên

14


cơ sở khả năng của họ bằng mọi phương tiện thích hợp” nghĩa là quyền này sẽ được thực
hiện dựa trên điều kiện, khả năng của nhà nước.
+ CRC có những quy định khá cụ thể về cơ chế giám sát việc thực hiện quyền trẻ
em của các quốc gia thành viên. Điều 43 CRC quy định về việc thành lập một UBVQTE có
chức năng giám sát quốc gia thành viên trong việc thực hiện các quy định của CRC; điều
43 cũng quy định những vấn đề liên quan tới UBVQTE như: cơ cấu tổ chức, cách thức
thành lập, tiêu chuẩn thành viên… Điều 44 CRC quy định về nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên trong việc cung cấp các báo cáo cho UBVQTE, điều luật này cũng quy định về
thời hạn nộp báo cáo, nội dung của báo cáo và cơ chế giám sát của Đại hội đồng LHQ đối
với hoạt động của UBVQTE. Điều 45 CRC quy định về sự tham gia của các tổ chức, cơ
quan chuyên môn của LHQ cùng với Unicef trong việc xét các báo cáo mà các quốc gia
trình cho UBVQTE.
Thứ ba: Một số điều ƣớc quốc tế khác về quyền của trẻ em mà Việt Nam đã
tham gia
 Bối cảnh ra đời:
Hiện nay, số lượng trẻ em bị bóc lột lao động, bóc lột tình dục cũng như bị ép buộc

tham gia xung đột vũ trang ngày càng gia tăng mặc dù quyền trẻ em khơng bị bóc lột lao
động, khơng bị bóc lột tình dục cũng như khơng phải tham gia xung đột vũ trang là những
quyền được ghi nhận, bảo vệ trong CRC và pháp luật của các quốc gia. Đứng trước tình
hình đó, vào năm 2000, LHQ đã thông qua hai NĐT bổ sung cho CRC là CRC-OPAC và
CRC-OPSC và Tổ chức lao động quốc tế (viết tắt là ILO) cũng thông qua Công ước của
ILO về nghiên cứu và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất (viết tắt là Công ước 182) tại kỳ họp thứ 87 của tổ chức. Ba văn bản này ra đời là
công cụ pháp lý hữu hiệu tạo điều kiện cho việc bảo vệ các quyền trẻ em tốt hơn.
 Nội dung cơ bản của các điều ước:
+ Công ước 182 của ILO gồm có lời nói đầu và 16 điều luật. Lời nói đầu của Cơng
ước 182 khẳng định: “việc loại bỏ có hiệu quả những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
đòi hỏi phải hành động tức thời và tồn diện” nghĩa là Cơng ước 182 u cầu các quốc gia
phải tiến hành ngay và phải coi đây là vấn đề mang tính cấp thiết. Điều 3 quy định về “bốn

15


hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất”. Cơng ước 182 cũng đặt ra yêu cầu cho các quốc gia
phải có những hành động cụ thể để đạt được các mục tiêu quy định tại khoản 2 điều 7. Một
số biện pháp mà Công ước 182 đưa ra như: quy định trong pháp luật về các hình thức lao
động trẻ em tồi tồi tệ nhất (khoản 1 điều 4); quy định các biện pháp trừng phạt những hành
vi vi phạm Công ước (khoản 1 điều 7); xây dựng cơ quan chuyên trách giám sát việc thực
hiên Công ước (khoản 3 điều 7); tăng cường hợp tác, trao đổi, và giúp đỡ giữa các quốc gia
(điều 8).
+ CRC-OPAC gồm 13 điều và lời nói đầu. Trong lời nói đầu, NĐT khẳng định
quyền trẻ em được bảo vệ và phát triển trong điều kiện hịa bình và việc ban hành NĐT sẽ
giúp thực hiện hiệu quả nguyên tắc bảo vệ trẻ em khỏi các cuộc xung đột vũ trang. NĐT
chủ yếu quy định về nghĩa vụ của các quốc gia phải bảo vệ trẻ em tránh khỏi các cuộc xung
đột vũ trang như: điều 1 quy định về nghĩa vụ đảm bảo cho người chưa đủ 18 tuổi không
phải trực tiếp tham gia chiến sự; điều 2 quy định không tuyển hoặc cưỡng ép trẻ em dưới

18 tuổi vào lực lượng vũ trang; khoản 1 điều 5 quy định quốc gia phải ngăn chặn lực lượng
vũ trang không thuộc lực lượng vũ trang quốc gia tuyển mộ trẻ em; điều 6 quy định trách
nhiệm của quốc gia phải phổ biến và thực hiện rộng rãi NĐT cũng như giải ngũ và giúp
cho các em hòa nhập với xã hội; nghĩa vụ tăng cường hợp tác, trao đổi, giúp đỡ giữa các
quốc gia (khoản 1 điều 7); nghĩa vụ gửi báo cáo định kì của quốc gia cho UBVQTE để
giám sát việc thực hiện NĐT (điều 8)…
+ CRC-OPSC gồm lời nói đầu và 16 điều. Lời nói đầu nêu rõ sự cần thiết của việc
xây dựng NĐT, khẳng định quyền trẻ em được bảo vệ khỏi mọi sự bóc lột đồng thời đưa ra
nguyên nhân cho sự gia tăng các vụ buôn bán, bóc lột tình dục trẻ em. Điều 2 CRC-OPSC
đưa ra các khái niệm về buôn bán trẻ em, mại dậm trẻ em, văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em.
Từ điều 3 đến điều 10 quy định về trách nhiệm của quốc gia như: phải quy định các hành vi
được liệt kê tại khoản 1 điều 3 là các hành vi phạm tội; quy định những hình phạt thích
đáng cho những hành vi này cũng như những trách nhiệm cho người liên quan (khoản 2 và
3 điều 3); thực hiện hợp tác, tương trợ quốc tế nhằm phòng chống các loại tội phạm này
(điều 5, điều 6); giúp đỡ các trẻ em là nạn nhân của hành vi phạm tội trình bày ở trên có

16


điều kiện phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng (điều 8 và điều 10)… Điều 12 NĐT quy định
về nghĩa vụ của Quốc gia phải gửi báo cáo về việc thực hiện NĐT cho UBVQTE.
1.2.2. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em
Để tiếp cận các quy định về quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam chúng ta cần
hiểu rằng: “không phải các quyền tự do cơ bản của con người trong pháp luật Việt Nam
chỉ ra đời từ khi Việt Nam tham gia các Công ước nhân quyền quốc tế…” [48, tr.288].
Quyền trẻ em cũng vậy, chúng ta ghi nhận và bảo vệ các quyền trẻ em không phải chỉ từ
khi chúng ta gia nhập CRC mà quyền trẻ em đã được ghi nhận và bảo vệ từ những văn kiện
lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mà ngày nay là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 15 của Hiến pháp năm 1946, điều 33 Hiến pháp năm 1959,
điều 60 Hiến pháp năm 1980 và rất nhiều văn bản khác về quyền trẻ em đã có trước khi

Việt Nam gia nhập CRC.
Mặt khác, quyền con người cần phải được nhận thức môt cách sâu sắc và tồn diện,
do đó mà nó được nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Tiếp cận quyền con người theo
hướng đa ngành và liên ngành “đang được hình thành và khẳng định ở nhiều nước trên thế
giới, mang lại những giá trị to lớn trên nhiều phương diện cả về mặt khoa học và cuộc
sống” [48, tr.7]. Quyền trẻ em cũng là một bộ phận của quyền con người nên việc nghiên
cứu quyền trẻ em theo phương thức đa ngành và liên ngành luật học có thể giúp chúng ta
có được cái nhìn tổng thể các quy định về quyền trẻ em cũng như kết quả của việc nghiên
cứu có thể phục vụ tốt hơn cho công tác bảo vệ trẻ em. Xuất phát từ lí do trên, khi nghiên
cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em, tác giả sẽ khơng tiếp cận theo
cách phân nhóm các quyền như CRC mà tác giả sẽ tiếp cận theo hướng nghiên cứu đa
ngành và liên ngành luật học để có thể có được cái nhìn khái qt hơn về các quy định về
quyền trẻ em tại Việt Nam.
Thứ nhất: Quyền trẻ em trong lịch sử lập hiến Việt Nam
Trên thế giới, khi chúng ta nhắc đến quyền con người nói chung hay quyền của một
đối tượng cụ thể nào thì đầu tiên chúng ta phải nhắc đến các quy định trong Hiến pháp vì
Hiến pháp chính là đạo luật cơ bản nhất quy định về quyền con người. Tại Việt Nam, Đảng
Cộng Sản cũng khẳng định: “nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công

17


dân và quyền con người…” [2]. Qua đó, chúng ta thấy được quan điểm của Đảng và nhà
nước ta là thừa nhận và bảo vệ các quyền con người một cách tốt nhất bằng một công cụ
hữu hiệu là pháp luật mà đạo luật tối cao chính là Hiến pháp.
Các quy định về quyền trẻ em qua các bản Hiến pháp của Việt Nam cũng thể hiện
nhất quán tinh thần bảo vệ và chăm sóc trẻ em mặc dù mức độ cũng như sự chi tiết trong
các quy định có thể khác nhau.
+ Hiến pháp 1946: đây là bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Mặc
dù vẫn cịn gặp nhiều khó khăn do đất nước mới thoát khỏi chiến tranh nhưng Hiến pháp

1946 vẫn dành một số điều luật để quy định về các quyền cơ bản của trẻ em. Điều 14 Hiến
pháp 1946 quy định: “trẻ em được chăm sóc về mặc giáo dưỡng”, điều 15 quy định: “Nền
sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số
có quyền học bằng tiếng của mình”. Các quy định này thể hiện tư tưởng tiến bộ của các
nhà lập hiến Việt Nam so với giai đoạn trước đó.
+ Hiến pháp 1959: Do đang trong thời kì kháng chiến nên các quy định của Hiến
pháp cũng tập trung chủ yếu vào việc củng cố chính quyền phục vụ chiến tranh. Do đó, các
quy định về quyền trẻ em trong Hiến pháp 1959 cũng không được cụ thể mà lồng ghép vào
các quy định chung về quyền con người. Điều 24 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền lợi
của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ”,
điều 33 quy định: “nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách”.
+ Hiến pháp 1980: Các quy định về quyền trẻ em trong Hiến pháp 1980 khá cơ bản
và mang tính nguyên tắc. Các quy định này chủ yếu hướng tới trách nhiệm của nhà nước và
xã hội trong việc bảo vệ trẻ em. Điều 41 quy định: “Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng”, hay điều 74 quy định: “Trẻ mồ côi được Nhà nước và xã hội nuôi
dạy”...
+ Hiến pháp 1992 thể hiện nhiều sự tiến bộ trong việc quy định về quyền trẻ em và
các quy định này khá phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Điều 65 hiến pháp
1992 quy định: “trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”,
đây là quy định thể hiện nhà nước luôn luôn bảo vệ các quyền thiêng liêng nhất của trẻ em

18


là quyền được sống và phát triển. Các điều 35, 36, 59 Hiến pháp 1992 quy định về trách
nhiệm của nhà nước và xã hội phải tạo điều kiện tốt nhất cho cơng dân trong đó có trẻ em
được học tập: “Các đoàn thể nhân dân, trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm
giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng”. Điều 40 Hiến pháp quy định: “Nhà nước, xã

hội, gia đình và cơng dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; thực hiện
chương trình dân số và kế hoạch hố gia đình”, đây là một quy định nhằm xác định trách
nhiệm bảo vệ bà mẹ trẻ em của nhà nước và xã hội. Điều 64 quy định về trách nhiệm của
gia đình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hiến pháp 1992 cịn có một số quy định
bảo vệ trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, điều 67 quy định: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ
côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”, điều 69 quy định: “Nhà nước
và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp” …
Các quy định về quyền trẻ em được phát triển dần qua các bản Hiến pháp và càng về
sau càng được càng được cụ thể hóa. Chúng ta có thể xem sự phát triển của các quy định
này chính là tiền đề cơ bản cho sự ra đời các đạo luật cụ thể và chi tiết hơn về quyền trẻ em
sau này.
Thứ hai: Quyền trẻ em trong lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự
Ở bất kì quốc gia nào, chính sách hình sự của quốc gia luôn quan tâm đặc biệt đến
vấn đề bảo vệ trẻ em do sự non nớt của đối tượng này và Việt Nam cũng khơng phải là
ngoại lệ. Chính sách hình sự của Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng bảo vệ trẻ em tập trung
vào các quy định của BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003.
 Chính sách đối với NCTN phạm tội được quy định tại chương X BLHS năm 1999
với tên gọi: “Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”.
+ Điều 12 BLHS năm 1999 quy định về độ tuổi chịu TNHS của trẻ em: trẻ em
dưới 14 tuổi sẽ không phải chịu TNHS do hành vi của mình gây ra, trẻ từ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm
trọng. Đây là những quy định thể hiện sự bảo vệ của nhà nước ta đối với đối tượng trẻ em
VPPL hình sự.

19


+ Điều 69 BLHS năm 1999 quy định về các nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội. Ta
nhận thấy trong cả 6 nguyên tắc quy định tại điều 69, nhà nước đều hướng đến bảo vệ đối
tượng NCTN phạm tội, quy định nhiều ưu đãi trong hình phạt cũng như án tích so với

người thành niên phạm tội như “truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với họ trong
trường hợp cần thiết”, “án đã tuyên đối với NCTN tội khi chưa đủ 16 tuổi không được xem
là căn cứ xác định tái phạm”…
+ Điều 70 BLHS năm 1999 quy định về các biện pháp Tư pháp có thể áp dụng đối
với NCTN phạm tội. Các biện pháp Tư pháp này sẽ được áp dụng thay cho hình phạt khi
Tịa án xét thấy chưa cần thiết áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội và việc áp dụng
biện pháp Tư pháp này khơng để lại án tích. Đây chính là quy định mang tính ưu đãi đặc
biệt của nhà nước đối với NCTN vì các biện pháp này không áp dụng cho đối tượng phạm
tội là người đã thành niên.
+ Điều 71 BLHS năm 1999 quy định về các hình phạt áp dụng đối với NCTN
phạm tội gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn và khơng áp dụng
hình phạt tù chung thân hay tử hình đối với NCTN phạm tội. Quy định này phù hợp với
điều 37 CRC đó chính là trẻ em sẽ “khơng bị xử tử hình hoặc tù chung thân mà khơng có
khả năng phóng thích”.
+ Các điều luật từ 72 đến 77 của BLHS năm 1999 quy định về phương thức áp
dụng hình phạt, tổng hợp hình phạt cũng như xóa án tích cho NCTN phạm tội, các quy
định này thể hiện một nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội của BLHS năm 1999 đó là xử lý
TNHS NCTN phạm tội nhằm để giáo dục và tạo điều kiện để họ có thể trở thành cơng dân
có ích.
 Xử lý các tội phạm xâm hại trẻ em:
+ Điều 14 Luật BVCSGDTE năm 2004 quy định về quyền được tơn trọng, bảo vệ
tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em. Nhà nước ta bảo vệ quyền này một
cách triệt để bằng cách quy định trong BLHS năm 1999 những hình phạt nghiêm khắc đối
với các tội phạm xâm hại trẻ em. Đối với các tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, nhà nước quy định hầu hết là các tội phạm nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng với mức hình phạt từ 12 năm tù tới chung thân hoặc tử hình,

20



×