TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
------ ------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT ĐỊNH
SVTH: ĐINH THỊ THÙY LINH
KHÓA: 37 MSSV: 1253801010166
GVHD: ThS. LÊ THỊ MẬN
TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp niên khóa 2012 – 2016, tác giả đã
nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều phía. Trước tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Thạc sĩ Lê Thị Mận – Giảng viên Khoa luật Dân sự trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt q trình
thực hiện khóa luận. Dù bận rộn nhưng cô vẫn dành thời gian, công sức giúp
tác giả khắc phục những khiếm khuyết và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp của
mình.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho
tác giả trong quá trình học tập tại trường.
Tác giả cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là
Văn phịng Cơng chứng Bến Nghé, Phịng Cơng chứng số 1, TP. Hồ Chí Minh,
Thư viện trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tác giả nghiên cứu đề tài.
Lời cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ
nhiệt tình và động viên tác giả trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận
tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 07 năm 2016
Sinh viên
Đinh Thị Thùy Linh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HNGĐ
Hơn nhân và gia đình
BLDS
Bộ luật dân sự
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
Nghị định 70/2001/NĐCP
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2000
Nghị định
126/2014/NĐ-CP
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014
của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và
biện pháp thi hành Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT ĐỊNH ................................................................................................. 1
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định...... ...................................................................................................................... 1
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định….. … ............................................................................................................ 1
1.1.2.
1.2.
Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định .......................... 5
Pháp luật một số quốc gia về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định ....... 7
1.3.
Sơ lược về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong pháp luật hơn
nhân và gia đình Việt Nam trước ngày 01/01/2015 ....................................................13
1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ....................................................................................................13
1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến trước ngày 01/01/2015 .................................................................16
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT ĐỊNH.............22
2.1. Các nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong
pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành ..................................................................22
2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam hiện hành ...........................................................................................27
2.2.1. Chế độ tài sản chung của vợ chồng ..........................................................27
2.2.2. Chế độ tài sản riêng của vợ chồng ...........................................................40
2.2.3. Trách nhiệm về tài sản của vợ chồng đối với bên thứ ba ..........................47
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG THEO LUẬT ĐỊNH VÀ GIẢI PHÁP PHÁP LÝ HOÀN THIỆN.........55
3.1. Thực trạng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định ..........................55
3.1.1. Những kết quả đáng ghi nhận trong quá trình áp dụng chế độ tài sản
của vợ chồng theo luật định ................................................................................55
3.1.2. Những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng chế độ tài sản của vợ
chồng theo luật định ...........................................................................................59
3.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định ..........73
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng.......................................................................................................73
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về vấn đề nhập tài sản riêng vào tài sản chung
của vợ chồng.......................................................................................................77
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân .................................................................................................78
3.2.4. Hồn thiện pháp luật về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng sau
khi ly hôn ............................................................................................................79
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội đang ngày càng phát triển, cuộc sống tiến bộ, văn minh dẫn đến sự
thay da đổi thịt của hàng loạt các quan hệ và những đối tượng khác nhau. Trong
đó phải kể đến gia đình - tế bào làm nên xã hội, nơi được xem là cái nôi nuôi
dưỡng con người và là trường học đầu tiên giáo dục nhân cách, đạo đức mỗi cá
nhân. Từ xưa đến nay, gia đình có tốt, có hạnh phúc thì xã hội mới tốt, mới ổn
định và ngược lại. Nhất là trong bối cảnh thực tại, bên cạnh nền tảng là tình yêu,
tình thân giúp cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được gắn kết
thì vấn đề về tài sản lại là yếu tố vô cùng quan trọng giúp gia đình thêm bền vững.
Bởi lẽ, cuộc sống gia đình không dừng lại ở việc yêu thương, quan tâm, chia sẻ
lẫn nhau mà còn nhằm đảm bảo các chức năng cơ bản như sinh sản, nuôi dưỡng,
giáo dục con cái và kinh doanh sản xuất. Có thể nói, tài sản là nguồn vật chất để
đáp ứng các nhu cầu, chi tiêu hằng ngày của gia đình nhưng đơi khi lại chính là
nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp, xung đột giữa các thành viên.
Trên cơ sở đó, pháp luật được coi như một giải pháp tích cực, hiệu quả để
làm hài hòa các mâu thuẫn, khắc phục những khiếm khuyết trong mối quan hệ
giữa các thành viên của gia đình. Những quy định về chế độ tài sản của vợ chồng
trong pháp luật hơn nhân và gia đình đã được vận dụng khá hiệu quả trên thực tế
song vẫn xuất hiện khơng ít trường hợp mà trong đó quan điểm, cách xử lý vấn đề
giữa vợ chồng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có sự khác biệt và khơng thống
nhất. Để phù hợp với tình hình cũng như sự biến chuyển của xã hội, Luật HNGĐ
năm 2014 ra đời trên nền tảng kế thừa những quy định của Luật HNGĐ năm 2000
đã ghi nhận thêm về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận cùng một số
những quy định mới về chế định khác. Mặc dù chế độ tài sản của vợ chồng đã
được đề cập qua các văn bản Luật HNGĐ năm 1959, năm 1986 và năm 2000
trước đây nhưng những quy phạm này mới chỉ thừa nhận một chế độ tài sản vợ
chồng duy nhất đó là chế độ tài sản theo luật định. Vì vậy, có thể nói, Luật
HNGĐ năm 2014 được ban hành là một bước ngoặt mới đầy tiến bộ và nhân văn
2
vì nó thể hiện sâu sắc quyền tự do định đoạt, quyền bình đẳng về tài sản của vợ
chồng trong gia đình theo khn khổ của pháp luật.
Tuy nhiên, vì Luật HNGĐ hiện hành mới ra đời có hiệu lực áp dụng không
lâu nên một số quy định của văn bản này còn chưa được hiểu thống nhất đồng
thời cũng chưa được nghiên cứu sâu rộng. Nhất là về vấn đề chế độ tài sản của vợ
chồng, dù đã có sự bổ sung, thay đổi nhất định so với Luật HNGĐ năm 2000
nhưng những quy phạm trong luật mới vẫn chưa được khai thác cặn kẽ và chi tiết.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chế độ tài sản của
vợ chồng theo luật định” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tài sản của vợ chồng là vấn đề có tính xã hội cao và đóng vai trị vơ cùng
quan trọng trong việc duy trì, đảm bảo sự bền vững, ổn định của gia đình. Đến
nay, đã có rất nhiều những cơng trình, bài viết nghiên cứu cũng như những luận
văn, tạp chí chuyên ngành đề cập đến chế định này. Có thể điểm qua một số cơng
trình tiêu biểu như:
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam hiện hành, Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2001 của tác giả Lê Vĩnh Châu.
Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và
gia đình Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2013 của tác giả Mai Thị
Tuyết Hạnh.
Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng, bài viết đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2008 của tác giả Ngô Thị
Hường.
Trách nhiệm liên đới của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014, bài viết trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 05, tháng 03/2015 của tác giả Đỗ
Văn Đại và Nguyễn Nhật Thanh.
3
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân – quy định và
thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật năm 2009 của tác giả Tơ Quang Đơ.
Chế độ tài sản của vợ chồng, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật năm 2013
của tác giả Nguyễn Hữu Lê Anh.
Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật hơn nhân và
gia đình Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật năm 2014 của tác giả
Nguyễn Tấn Nghĩa.
Trách nhiệm của vợ chồng về tài sản đối với bên thứ ba, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân Luật năm 2015 của tác giả Lê Thị Kim Anh.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân
Luật năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh.
Tuy nhiên, những bài viết, cơng trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về
các quy định có liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HNGĐ năm
2000. Các bài viết về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong Luật
HNGĐ năm 2014 cịn rất ít và chưa đi sâu bàn luận về các khía cạnh của vấn đề.
Vì vậy, với đề tài này, tác giả tập trung tìm hiểu, đánh giá và liên hệ thực tiễn
dưới góc độ những quy định mới của Luật HNGĐ hiện hành về chế độ tài sản của
vợ chồng theo luật định.
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Bên cạnh quan hệ tình cảm là nền tảng duy trì hạnh phúc gia đình thì quan
hệ tài sản cũng đóng vai trị quan trọng khơng kém, là yếu tố giúp gia đình được
ổn định và phát triển bền vững. Việc nghiên cứu về chế độ tài sản vợ chồng theo
luật định khơng nằm ngồi mục đích giúp cho các chủ thể nói chung và các bên
trong quan hệ hơn nhân và gia đình hiểu được các quy định của pháp luật để có
những xử sự đúng đắn, hợp pháp khi phát sinh những vấn đề về tài sản của vợ
chồng. Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển, những mâu thuẫn tranh chấp
về tài sản vợ chồng cũng ngày càng phổ biến thì việc nghiên cứu một cách cụ thể,
4
chi tiết về các quy định của pháp luật có ý nghĩa to lớn, tạo cơ sở vững chắc nhằm
giải quyết hiệu quả những tranh chấp trên thực tế.
Việc nghiên cứu về “chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định” cịn nhằm
đi sâu tìm hiểu, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này để
từ đó rút ra những điểm tích cực, những hạn chế, bất cập, thiếu sót cần bổ sung
nhằm góp phần hồn thiện pháp luật hơn nhân gia đình nói riêng và hệ thống
pháp luật nói chung. Ngồi ra, khóa luận này cũng có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, học tập các mơn học liên quan đến
hơn nhân và gia đình như luật dân sự, luật hơn nhân và gia đình,…
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định”.
Phạm vi nghiên cứu: với đề tài này, tác giả sẽ tập trung đi sâu vào nghiên
cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng theo pháp luật hiện hành đồng thời điểm qua những quy định của các văn
bản pháp luật cũ và pháp luật các quốc gia trên thế giới như: Pháp, Thái Lan, Đài
Loan, một số bang ở Hoa Kỳ.
Sau khi nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận, tác giả sẽ liên hệ với
thực tiễn áp dụng pháp luật để từ đó nhận diện những vướng mắc trong cơ chế
pháp lý về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định và đề xuất, kiến nghị những
giải pháp pháp lý hồn thiện.
Vì đề tài này có phạm vi rộng nên trong q trình hồn thành khóa luận tốt
nghiệp của mình, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp
luật về chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản
riêng, các nguyên tắc chung về tài sản vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với tài sản và vấn đề chia tài sản vợ chồng trong hôn nhân. Do đó, khóa luận
sẽ khơng đề cập tới các quy định pháp luật liên quan đến tài sản của vợ chồng khi
hôn nhân chấm dứt do ly hôn.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài “chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định”, tác giả đã vận
dụng một số phương pháp nghiên cứu tiêu biểu sau: các phương pháp của chủ
nghĩa Mác – Lênin như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử
khi tìm hiểu về sự thay đổi của chế độ tài sản vợ chồng qua các thời kỳ trong mối
tương quan tác động qua lại với các điều kiện kinh tế - xã hội; phương pháp so
sánh pháp luật giai đoạn trước giai đoạn sau, pháp luật hơn nhân gia đình Việt
Nam với pháp luật nước ngồi; phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp các
quy định của pháp luật. Ngoài ra, khóa luận cịn sử dụng các phương pháp phổ
biến trong quá trình nghiên cứu như: phương pháp liệt kê, thu thập các tài liệu,
Bản án trên thực tế,…
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được cơ cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
Chương 2: Pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về chế độ
tài sản của vợ chồng theo luật định
Chương 3: Thực trạng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
và giải pháp pháp lý hoàn thiện
Trong q trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình, vì phạm vi đề
tài nghiên cứu rộng song thời gian ít ỏi và khả năng của bản thân cịn hạn chế nên
khóa luận có nhiều thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu của quý thầy cô, bạn bè, người đọc nhằm giúp tác giả có thể
hồn thiện hơn khóa luận cũng như tích lũy thêm nguồn tri thức cho mình.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT ĐỊNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo
luật định
1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm chế độ tài sản
Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường coi tài sản là tiền bạc, hiện kim
hay các loại vật dụng có ích. Về mặt ngơn ngữ luật học, tài sản là “các vật có giá
trị bằng tiền, là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản
bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có như hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được
chế tạo theo mẫu đã được thỏa thuận giữa các bên, tiền, giấy tờ trị giá được bằng
tiền và các quyền tài sản”1. Còn theo quy định của BLDS năm 2005 “tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”2. BLDS mới nhất (có hiệu lực
từ ngày 01/01/2017) tại Điều 105 thì mô tả cụ thể hơn: “Tài sản bao gồm bất động
sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai”. Nói chung, tài sản chính là những yếu tố vật chất giúp con
người thỏa mãn, đáp ứng những nhu cầu trong sinh hoạt, chi tiêu thường ngày.
Có thể nói, chế độ tài sản là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
tài sản ấy cả về mặt pháp lý và thực tiễn đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật. Chế
độ này thể hiện qua quyền sở hữu với ba quyền năng cơ bản: quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt theo quy định chung của pháp luật dân sự.
Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản3. Trên thực tế, chủ sở
hữu thường tự mình bằng các hành vi của bản thân để thực hiện quyền chiếm hữu
tài sản gọi là quyền chiếm hữu thực tế. Trong một số trường hợp, chủ sở hữu
1
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, NXB Từ điển bách khoa, tr.
685.
2
Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005.
3
Điều 182 Bộ luật dân sự năm 2005.
1
chuyển quyền này cho người khác thông qua một hợp đồng dân sự theo ý chí của
họ hoặc khơng theo ý chí của họ như: bị đánh rơi, bỏ quên, thất lạc, chơn dấu
chưa tìm thấy,… thì chủ sở hữu vẫn có quyền chiếm hữu pháp lý đối với tài sản
đó4. Quyền chiếm hữu là tiền đề pháp lý để thực hiện các quyền cịn lại, gồm
chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật.
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản5. Theo đó, tùy tính chất của tài sản ấy như thế nào, chủ sở hữu có thể trực tiếp
khai thác lợi ích vật chất của nó phục vụ cho bản thân hoặc thơng qua người khác
để thực hiện quyền này như: chuyển quyền sử dụng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
khi không đủ khả năng, chuyên môn sử dụng một số loại phương tiện khoa học kỹ
thuật, cho thuê tài sản để hưởng lợi tức, đầu tư vào kinh doanh sản xuất,…
Đứng về góc độ kinh tế thì quyền sử dụng là quyền có ý nghĩa quan trọng
hơn cả vì nó khai thác được lợi ích của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt
và sản xuất, đáp ứng con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhưng xét về mặt
pháp lý thì quyền định đoạt là quyền quan trọng nhất và có tính quyết định nhất.
Quyền định đoạt sẽ chi phối và đảm bảo cho chủ sở hữu thuận lợi thực hiện hai
quyền còn lại. Bởi lẽ, hai quyền năng chiếm hữu, sử dụng thì ngồi chủ sở hữu,
những người khác cũng có thể có nhưng với quyền định đoạt thì chỉ duy nhất
người sở hữu tài sản mới được thực hiện mà thơi.
Chính vì những lẽ trên mà quyền định đoạt được coi là một quyền năng rất
quan trọng. Pháp luật dân sự đã định rõ, chỉ có chủ tài sản mới được phép chuyển
giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó theo quy định. Khi thực
hiện quyền này, chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế,
từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp đối với tài sản6. Ngồi
tự mình thực hiện quyền, họ cũng có thể ủy quyền cho người khác định đoạt tài
sản thay mình trong một phạm vi nhất định nào đó.
4
Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, tr. 174.
Điều 192 Bộ luật dân sự năm 2005.
6
Điều 197 Bộ luật dân sự năm 2005.
5
2
Cả ba quyền trên tạo thành một thể thống nhất. Tuy mỗi quyền mang ý nghĩa
khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau thể hiện đầy đủ quyền năng
của chủ sở hữu đối với tài sản của chính mình.
Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Trước khi kết hôn, giữa vợ chồng không chịu bất cứ sự ràng buộc nào, tài
sản các bên có được cũng được xem là tài sản riêng của mỗi người và tự bản thân
người đó có quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt. Nhưng sau khi bước vào
giai đoạn hôn nhân thì sự gắn kết, ràng buộc giữa vợ chồng khơng chỉ dừng lại ở
mặt tình cảm mà cịn cả về mặt tài sản. Lúc này, tài sản của vợ chồng được hình
thành kèm theo các quyền và nghĩa vụ của họ đối với tài sản ấy. Về mặt lý luận,
“chế độ tài sản của vợ chồng là các quy định của pháp luật về quan hệ tài sản giữa
vợ và chồng, phương thức tác động, cách thức xác lập quan hệ tài sản để xác định
sở hữu chung, sở hữu riêng của vợ chồng, trong mối quan hệ giữa vợ chồng với
nhau và với người thứ ba”7. Cũng có quan điểm tương tự rằng: “Chế độ tài sản
của vợ chồng gồm tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi người,
trong đó bao gồm cả quyền, nghĩa vụ gắn liền với mỗi loại tài sản theo quy định
đối với vợ chồng, thành viên trong gia đình và với người thứ ba” 8. Nói tóm lại,
“chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy định của pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng”9.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thực chất là chế độ sở hữu đối
với tài sản của vợ chồng, cũng được thể hiện qua ba quyền cơ bản đó là: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Với mỗi loại tài sản khác nhau
bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, vợ chồng có những quyền hạn và nghĩa vụ
khác nhau khi thực hiện quyền sở hữu của mình trong những khn khổ mà pháp
luật giới hạn. Đây là cơ chế pháp lý xác định được đặt ra trong trường hợp vợ
7
Lê Vĩnh Châu (2001), Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam hiện
hành, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr. 2.
8
Mai Thị Tuyết Hạnh (2013), Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr. 8.
9
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, NXB Từ điển bách khoa,
tr. 129.
3
chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận
về chế độ này song bị Tịa án tun bố là vơ hiệu.
1.1.1.2.
Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng tuy chính là chế độ sở hữu của vợ chồng đối với
tài sản thể hiện qua các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của hai
người song bởi vì chịu sự chi phối của quan hệ nhân thân, tình cảm giữa vợ chồng
nên khơng giống các quan hệ tài sản giữa các chủ thể khác. Khi thực hiện quyền
sở hữu của mình, tham gia vào các giao dịch dân sự, chế độ tài sản của vợ chồng
mang những đặc điểm riêng biệt sau:
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này,
các bên phải là vợ chồng của nhau theo quy định của pháp luật. Nghĩa là giữa họ
phải có quan hệ hơn nhân trên cơ sở tuân thủ các điều kiện về kết hôn, cấm kết
hơn theo pháp luật hơn nhân và gia đình. Việc thỏa mãn các yêu cầu của một
quan hệ sở hữu trên cơ sở những quy định của pháp luật dân sự là chưa đủ vì chỉ
khi là vợ chồng về mặt pháp lý, giữa họ mới có thể phát sinh chế độ tài sản của vợ
chồng theo luật định.
Thứ hai, căn cứ xác lập, thay đổi và chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng
phụ thuộc vào việc phát sinh và chấm dứt quan hệ hôn nhân của họ. Khi vợ chồng
đăng ký kết hôn hoặc nam nữ sống chung như vợ chồng thuộc trường hợp hôn
nhân thực tế, chế độ tài sản chung giữa hai người được hình thành, vợ chồng cùng
nhau xây dựng, quản lý và định đoạt khối tài sản ấy nhằm thực hiện các chức
năng và nhu cầu chung của gia đình. Nhưng khi hơn nhân khơng cịn nữa, về
ngun tắc, chế độ tài sản này sẽ được phân định, giữa vợ chồng chỉ còn tài sản
riêng của mỗi người mà thôi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chế độ tài sản
này vẫn tồn tại sau khi hôn nhân chấm dứt. Chẳng hạn như vợ chồng ly hôn
nhưng họ lại thỏa thuận chưa chia tài sản chung vì những lý do nhất định nào đó.
Thứ ba, trong chế độ tài sản chung của vợ chồng thì tài sản chung của hai
người thuộc sở hữu chung hợp nhất. Theo đó, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt khối tài sản ấy một cách bình đẳng, ngang nhau nhằm phục vụ
4
các nhu cầu chung của gia đình dù cho cơng sức đóng góp, tạo lập của mỗi bên có
thể là khác nhau.
Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng chịu sự điều chỉnh chủ yếu của pháp luật
hôn nhân và gia đình, khác với các chế độ tài sản, các hình thức sở hữu chung
khác được điều chỉnh theo các quy định của pháp luật dân sự. Đặt trong mối quan
hệ hôn nhân, chế độ tài sản của vợ chồng sẽ phải tuân thủ những nguyên tắc mà
Luật HNGĐ đã quy định nhằm dung hịa lợi ích chung của gia đình với lợi ích
riêng của mỗi bên vợ, chồng. Nếu như theo BLDS, chủ sở hữu có tồn quyền
định đoạt đối với tài sản riêng của mình miễn khơng xâm phạm đến lợi ích Nhà
nước, lợi ích cơng cộng hay quyền, lợi ích chính đáng của người khác thì pháp
luật hơn nhân và gia đình lại giới hạn quyền định đoạt này đối với tài sản riêng
của vợ chồng trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, khi vợ chồng khơng
có tài sản chung hoặc tài sản chung khơng đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng tùy theo khả năng kinh
tế của mỗi bên; hay trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi
tức từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này
phải có sự đồng ý của người cịn lại10.
1.1.2. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
Chế độ tài sản của vợ chồng được ghi nhận từ Luật HNGĐ năm 1959, trải
qua các giai đoạn kế thừa, phát triển cho đến nay vẫn thể hiện được những ý
nghĩa sâu xa của nó trong sự tương thích phù hợp với những biến chuyển của tình
hình kinh tế - xã hội của nước ta và thời đại.
Thứ nhất, chế độ tài sản theo luật định giúp vợ chồng xác định được quyền,
nghĩa vụ của mình đối với khối tài sản chung, tài sản riêng để từ đó có cách xử sự
đúng đắn, hợp pháp trong việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản.
Khi hôn nhân được tạo lập, giữa vợ chồng bắt đầu hình thành những trách
nhiệm đặc biệt. Trong đó, để đảm bảo được các chức năng của gia đình như sinh
sản, duy trì nịi giống, ni dưỡng, giáo dục con cái và phát triển kinh tế, tài sản
10
Khoản 4 Điều 44 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
5
là yếu tố không thể thiếu. Vợ chồng phải cùng chung tay góp sức tạo lập tài sản
cho gia đình, cùng quản lý và bình đẳng trong việc định đoạt tài sản đó. Từ những
quy định của pháp luật, các bên có thể phân biệt được tài sản chung, tài sản riêng
và mỗi người có những quyền, nghĩa vụ gì. Ngay từ trong giai đoạn hôn nhân, khi
nắm rõ được chế định này, vợ chồng cũng sẽ cùng nhau san sẻ, chủ động gánh
vác vai trị của mình. Ngồi ra, sự am hiểu về luật còn tránh cho vợ chồng phát
sinh những mâu thuẫn khơng đáng có để cùng bảo vệ hạnh phúc, sự hòa thuận
giữa các thành viên trong gia đình.
Thứ hai, chế độ tài sản theo luật định là cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ chồng, của người thứ ba trong các giao dịch vợ chồng đã xác lập.
Trong xã hội phong kiến, quan hệ tài sản giữa vợ chồng thể hiện sự bất bình
đẳng sâu sắc, người phụ nữ đa phần bị lệ thuộc vào người đàn ơng, bản thân họ
khơng có quyền sở hữu hay định đoạt về tài sản. Dưới thời Pháp thuộc, chế độ tài
sản của vợ chồng trong hôn nhân tiến bộ hơn, người phụ nữ, người vợ được
hưởng nhiều quyền lợi cả về nhân thân lẫn tài sản. Đến nay, pháp luật ghi nhận và
bảo vệ nguyên tắc vợ chồng hồn tồn bình đẳng trong đời sống gia đình trong đó
có quan hệ tài sản, khơng bên nào bị áp đặt bởi bên nào.
Song trên thực tế, trong một số trường hợp, người vợ hay người chồng lại tự
ý thực hiện một giao dịch dân sự bằng khối tài sản chung mà chưa có sự chấp
thuận của bên chồng, bên vợ còn lại. Nếu việc tiến hành giao dịch ấy vì lợi ích
chung, nhằm phục vụ những nhu cầu chi tiêu thiết yếu của gia đình thì khơng
đáng nói. Nhưng nếu nhằm mục đích thỏa mãn những ham muốn cá nhân như lấy
tiền để cờ bạc, bia rượu, phá tán tài sản thì giao dịch đó có thể bị tuyên là vô hiệu.
Pháp luật quy định như vậy khơng chỉ để bảo vệ lợi ích của vợ chồng, duy trì sự
ổn định bền vững của gia đình mà cịn bảo vệ lợi ích hợp pháp của người thứ ba
trong những giao dịch mà vợ chồng đã xác lập. Khi người thứ ba thực hiện một
giao dịch với một bên vợ, chồng đúng với khuôn khổ của pháp luật thì họ có
quyền u cầu người cịn lại chịu trách nhiệm liên đới. Thậm chí, ngay cả khi
giao dịch dân sự vô hiệu hay khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong
6
thời kỳ hơn nhân nhằm trốn tránh nghĩa vụ thì người thứ ba vẫn được pháp luật
bảo vệ nếu họ ngay tình. Có thể nói, những quy định như vậy có ý nghĩa rất quan
trọng, khơng chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên mà cịn góp phần ổn định các
giao lưu dân sự, tránh những tác động xấu ảnh hưởng đến sự bền vững của gia
đình cũng như xã hội.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là cơ sở pháp lý quan
trọng để Tòa án giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và
giữa vợ chồng với người khác.
Quan hệ tài sản giữa vợ chồng vốn khơng rạch rịi, sịng phẳng hay mang
tính đền bù ngang giá như các quan hệ dân sự khác. Bởi có sự gắn kết trên nền
tảng của tình u, tình thân nên đó là một loại quan hệ rất đặc thù và khá phức
tạp. Khi hơn nhân cịn đang ổn định, đời sống vợ chồng an hịa thì vấn đề tài sản
chẳng có gì khó giải quyết, ranh giới giữa tài sản chung, tài sản riêng cũng từ đó
mà trở nên mờ nhạt. Việc phân công quản lý, sử dụng tài sản rất dễ dàng, của
chồng thì cũng coi như cơng vợ, của vợ đồng nghĩa là của chồng. Nhưng khi hôn
nhân lâm vào bế tắc, tình cảm đơi bên rạn nứt thì tài sản lại là nguyên nhân gây ra
nhiều tranh cãi nhất. Lúc này, việc phân định các loại tài sản đóng vai trị rất quan
trọng. Nó tạo cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền có thể giải quyết nhanh
chóng các mâu thuẫn về tài sản giữa vợ chồng, giữa các thành viên gia đình với
nhau.
Bên cạnh đó, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định còn góp phần đảm
bảo sự bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình khi hơn nhân cịn tồn tại và ngay
cả khi hơn nhân chấm dứt. Tịa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải
quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng vừa tránh được sự cảm tính, chủ
quan vừa đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của cho vợ chồng, bên thứ
ba và Nhà nước.
1.2.
Pháp luật một số quốc gia về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định
7
Trong bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế mở rộng, mối quan hệ giữa con
người với con người không chỉ giới hạn ở phạm vi một vùng hay một quốc gia
nữa. Khi khơng cịn chịu sự kiểm sốt khắt khe của vấn đề biên giới, quốc tịch,
việc kết hôn giữa công dân các nước cũng dần trở nên phổ biến hơn. Điều đó vừa
khẳng định quyền tự do của các chủ thể vừa thể hiện tính nhân văn vì con người
của Nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu về pháp luật nước
ngồi sẽ giúp chúng ta am hiểu hơn cũng như bảo vệ được quyền, lợi ích chính
đáng của cơng dân Việt Nam trong các vụ việc kết hơn có yếu tố nước ngồi đồng
thời từ q trình tìm hiểu, đánh giá rút ra được những điểm tiến bộ của pháp luật
các quốc gia để góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật nước nhà.
Pháp luật Cộng hòa Pháp
Khác với nước ta, pháp luật Cộng hịa Pháp khơng quy định chế độ tài sản
của vợ chồng trong một văn bản luật hôn nhân gia đình cụ thể mà điều chỉnh
thống nhất chế độ này trong Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự Pháp ra đời từ rất
sớm, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã trở thành bộ luật kinh điển và là mẫu mực
cho Bộ luật dân sự của nhiều nước trên thế giới.
Về chế định tài sản của vợ chồng trong hơn nhân, pháp luật Cộng hịa Pháp
ghi nhận hai loại chế độ tài sản của vợ chồng đó là tài sản theo luật định và tài sản
theo thỏa thuận. Nếu như các bên đã có thỏa thuận riêng về tài sản thì luật sẽ
khơng điều chỉnh nữa song thỏa thuận ấy phải phù hợp với khuôn khổ của pháp
luật và không trái với thuần phong mỹ tục hay trái đạo đức xã hội11. Sau khi kết
hôn, tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản chung của cả hai người
hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hơn nhân và có nguồn gốc từ
cơng việc của họ cũng như những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ
tài sản riêng của họ12. Như vậy, hoa lợi, lợi tức có được trong thời kỳ hôn nhân,
dù phát sinh từ tài sản chung hay riêng cũng đều coi là sở hữu chung của vợ
chồng. Khơng chỉ vậy, dựa theo ngun tắc suy đốn pháp lý, khi một bên không
thể chứng minh được một tài sản thuộc sở hữu riêng của mình thì sẽ được xem
11
12
Điều 1387 Bộ luật dân sự Pháp.
Điều 1401 Bộ luật dân sự Pháp.
8
như tài sản chung13. Trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, vợ chồng đều có quyền
quản lý, sử dụng tài sản chung và có thể tự do thỏa thuận về vấn đề này. Mỗi bên
đều có thể một mình ký kết hợp đồng nhằm mục đích duy trì đời sống gia đình
hoặc giáo dục con cái và bên kia sẽ có trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ phát
sinh từ việc ký kết hợp đồng ấy. Tuy nhiên, bên không tham gia ký kết sẽ không
phải chịu trách nhiệm liên đới với những chi tiêu rõ ràng vượt quá mức sinh hoạt
của gia đình, giao dịch vơ ích hoặc giao dịch ký kết với người thứ ba khơng ngay
tình14. Tương tự, việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng phải có sự đồng ý của
cả hai người, khơng được tặng cho hay chuyển nhượng tài sản đó nếu một bên vợ
hoặc chồng không chấp thuận15.
BLDS Pháp cũng quy định rất rõ về các loại tài sản riêng của vợ chồng như:
quần áo, đồ dùng cá nhân; yêu cầu về bồi thường thiệt hại; các loại trợ cấp; các tài
sản được tặng cho hay thừa kế riếng,… Theo đó, các bên có tồn quyền quản lý,
sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, kể cả việc nhập tài sản ấy
vào khối tài sản chung của vợ chồng16. Ngồi ra, trong thời kỳ hơn nhân, nếu do
sự xáo trộn trong công việc làm ăn của vợ hoặc chồng, do vợ hoặc chồng quản lý
kém hay thiếu đạo đức mà việc duy trì chế độ tài sản chung gây phương hại đến
lợi ích của người kia thì người đó có thể u cầu Tịa án cho tách riêng tài sản.
Mọi trường hợp tự ý tách riêng tài sản đều bị coi là vô hiệu. Như vậy, pháp luật
Pháp không cho phép vợ chồng được tự thỏa thuận phân chia tài sản nhằm tránh
trường hợp vợ chồng trốn tránh nghĩa vụ hay do bị cưỡng ép, lừa dối mà đồng ý
chia tài sản.
Pháp luật Hoa kỳ
Là một quốc gia nằm trong hệ thống thông luật (common law), Hoa Kỳ trên
thực tế có rất nhiều án lệ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia
đình trong đó cơng nhận hai chế độ tài sản của vợ chồng là tài sản theo hôn ước
và tài sản theo pháp định. Tuy nhiên, bởi vì có cấu trúc là một nhà nước liên bang
13
Điều 1402 Bộ luật dân sự Pháp.
Điều 220 Bộ luật dân sự Pháp.
15
Điều 1422, Điều 1424 Bộ luật dân sự Pháp.
16
Điều 1428 Bộ luật dân sự Pháp.
14
9
với 50 hệ thống pháp luật khác nhau nên chế định tài sản của vợ chồng giữa các
bang vẫn có sự khác biệt. Hoa Kỳ có chín tiểu bang theo chế độ tài sản cộng đồng
là: Arizona, California, Louisiana, Idaho, Neveda, New Mexico, Texas,
Washington và Wisconsin. Nghĩa là, với chế độ tài sản này thì hầu hết các tài sản
có được trong hôn nhân trừ quà tặng hoặc thừa kế đều thuộc sở hữu chung của cả
hai vợ chồng17. Trước khi thành hơn, hai bên trong quan hệ có quyền lập “khế
ước tiền hôn nhân” (prenuptial agreement) để ấn định một số điều kiện về nhân
thân và tài sản cùng các trường hợp chấm dứt hôn nhân, miễn khế ước này khơng
có tính phi pháp, trái đạo đức hay do một bên bị cưỡng ép, bắt buộc. Chế độ tài
sản cộng đồng có thể chấm dứt khi ly hơn, bị hủy bỏ hay khi một bên chết. Ở một
số bang như Idaho, California, Neveda, chế độ này còn chấm dứt khi vợ chồng
thay đổi nơi cư trú. Ngược lại với thông lệ trên, pháp luật của bang Alaska lại quy
định tài sản của vợ chồng trong hôn nhân không mặc định là tài sản cộng đồng.
Tài sản của bên nào thì vẫn được coi là sở hữu riêng của bên ấy trừ khi cả hai
đồng ý nhập thành tài sản chung trên cơ sở một thỏa thuận hợp pháp 18. Trong đó,
tài sản riêng của vợ, chồng là tất cả những tài sản có được trước khi kết hơn hoặc
sau khi chấm dứt chế độ tài sản chung và tài sản có được trong thời kỳ hơn nhân
thơng qua q tặng, thừa kế, một giải thưởng hay một khoản tiền bồi thường cho
những thiệt hại, thương tích cá nhân mà người đó được hưởng.
Pháp luật Đài Loan
Ngày nay, hiện tượng công dân Việt Nam kết hôn với công dân Đài Loan
ngày càng trở nên phổ biến. Vì vậy, việc tìm hiểu pháp luật hơn nhân và gia đình
quốc gia này sẽ góp phần bảo vệ quyền, lợi ích cơng dân mỗi nước trong các quan
hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi.
Tương tự như Cộng hịa Pháp, pháp luật Đài Loan cũng ghi nhận hai chế
định tài sản của vợ chồng là tài sản theo khế ước và tài sản theo luật định. Vợ
chồng có thể thỏa thuận chọn một trong số các loại hợp đồng quy định trong phần
chế độ tài sản ước định theo quy định của BLDS để điều chỉnh về chế độ tài sản
17
18
Theo />Theo />
10
của vợ chồng19. Tài sản của vợ chồng sẽ được chia thành tài sản có được trước
khi kết hơn và tài sản có trong thời kỳ hơn nhân, do mỗi người tự sở hữu. Nếu tài
sản không chứng minh được là có trước hay sau khi kết hơn thì sẽ coi là tài sản có
sau kết hơn. Nếu tài sản không chứng minh được là thuộc sở hữu riêng của vợ
hay chồng thì sẽ coi là tài sản chung của cả hai người 20. Theo đó, vợ chồng có
quyền bình đẳng trong việc xác lập, sở hữu, định đoạt tài sản chung. Các bên
cũng có thể thỏa thuận giao cho vợ hoặc chồng quản lý tài sản ấy để cùng xây
dựng gia đình, phục vụ các nhu cầu, chi tiêu hằng ngày. Khi một bên sử dụng tài
sản chung thì phải được sự đồng ý của bên kia. Tuy nhiên, sự đồng ý này có cần
phải bằng văn bản hay khơng thì pháp luật lại khơng quy định. Về vấn đề chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu như các bên có lý do chính đáng thì vợ
chồng có thể tự thỏa thuận với nhau hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành chia tài sản
chung21.
Đối với tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, BLDS Đài Loan
liệt kê một số loại như: tài sản vợ, chồng có trước thời kỳ hơn nhân mà khơng có
thỏa thuận coi đó là tài sản chung; tài sản đã được chứng minh là tài sản riêng của
một bên; tài sản được tặng cho, thừa kế riêng; tiền trợ cấp an ủi,…Ngồi ra, cịn
có tài sản sở hữu đặc biệt bao gồm: đồ dùng cho vợ hoặc chồng chuyên sử dụng
riêng; đồ dùng tất yếu phục vụ nghề nghiệp của vợ hay chồng; quà tặng của vợ
hoặc chồng mà có văn bản xác định đó là tài sản sở hữu đặc biệt. Các loại tài sản
này sẽ áp dụng theo quy định của chế độ tài sản tách biệt22. Pháp luật quy định
như vậy là hoàn toàn hợp lý bởi những tài sản này gắn liền với mỗi cá nhân, đóng
vai trị hỗ trợ cho cơng việc, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của mỗi người nên
không thể xem là tài sản chung được. Vì là của riêng nên vợ chồng có tồn quyền
sở hữu, quản lý, sử dụng và thu lợi từ phần tài sản đó mà khơng bị bất cứ sự can
thiệp hay ngăn cản nào từ người còn lại. Đồng nghĩa với quyền, tự bản thân vợ,
19
Điều 1004 Bộ luật dân sự Đài Loan.
Điều 1017 Bộ luật dân sự Đài Loan.
21
Điều 1010 Bộ luật dân sự Đài Loan.
22
Điều 1031-1 Bộ luật dân sự Đài Loan.
20
11
chồng cũng có nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ riêng của
mình.
Pháp luật Thái Lan
Là một nước cùng chung khu vực địa lý với các điều kiện về kinh tế - văn
hóa - xã hội khá tương đồng, pháp luật Thái Lan cũng có nhiều quy định điều
chỉnh về quan hệ hơn nhân gia đình tương tự như pháp luật nước ta. Bộ luật dân
sự - thương mại Thái Lan cũng khơng nằm ngồi thơng lệ chung, bên cạnh chế
định tài sản theo luật định còn ghi nhận cả chế định tài sản theo thỏa thuận. Theo
Điều 1465 Bộ luật này, “khi vợ chồng khơng có sự thỏa thuận đặc biệt về tài sản
của họ trước khi kết hơn, thì quan hệ giữa họ về tài sản sẽ được điều chỉnh bởi
những quy định của chương này”. Trên cơ sở chế độ “cộng đồng tạo sản”, tài sản
chung của vợ chồng gọi là “Sin Somros” chỉ được xác định đối với những tài sản
mà vợ chồng có được trong thời kỳ hơn nhân. Những tài sản khác, không phân
biệt động sản hay bất động sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hơn hay được
thừa kế riêng, tặng cho riêng khi hôn nhân đang tồn tại thì thuộc sở hữu riêng của
mỗi người gọi là “Sin Suan Tua” và “từng người vợ hoặc chồng là người quản lý
“Sin Suan Tua của mình”23. Tuy nhiên, trong trường hợp có nghi ngờ về việc một
tài sản là tài sản chung hay riêng thì nó sẽ được coi là tài sản chung của vợ
chồng24. Về vấn đề quản lý, định đoạt tài sản chung, vợ chồng có thể cùng thực
hiện hoặc phải có sự đồng ý của người kia bằng văn bản nếu chỉ do một bên định
đoạt. Nếu vợ hay chồng tự ý tiến hành bất cứ một hành vi pháp lý nào mà khơng
có sự chấp thuận của người cịn lại thì người cịn lại ấy có thể u cầu Tịa án hủy
bỏ hành vi này trừ khi nó đã được chấp nhận, hoặc người thứ ba có mặt thực hiện
hành vi đã hành động một cách hiệu quả thiện chí và đã thanh tốn đối lại25.
Có thể nói, chế độ “cộng đồng tạo sản” được thừa nhận trong pháp luật hơn
nhân và gia đình nhiều nước do chế độ này rất phù hợp với tình hình thực tế.
“Một mặt, nó khơng làm phá vỡ chế độ tài sản chung của vợ chồng - nền tảng cơ
23
Điều 1473 Bộ luật dân sự - thương mại Thái Lan.
Điều 1474 Bộ luật dân sự - thương mại Thái Lan.
25
Điều 1480 Bộ luật dân sự - thương mại Thái Lan.
24
12
bản của quan hệ hơn nhân và gia đình, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho vợ,
chồng có thể chủ động trong việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình,
ngăn chặn các trường hợp kết hơn với mục đích khơng lành mạnh, kết hơn chỉ
nhằm vào khối tài sản đã sẵn có của bên kia”26.
Qua việc tìm hiểu về chế độ tài sản của vợ chồng một số quốc gia trên, có
thể thấy, pháp luật hơn nhân và gia đình các nước ln ghi nhận và điều chỉnh tài
sản chung và tài sản riêng của vợ chồng. Hai chế độ tài sản này có mối quan hệ
mật thiết, tác động qua lại góp phần bảo vệ lợi ích của gia đình và lợi ích chính
đáng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân. Trên cơ sở đó, các nhà làm luật Việt
Nam có thể tiếp thu, học hỏi những quan điểm mang tính tiến bộ, gần gũi với văn
hóa, thuần phong mỹ tục dân tộc ta để hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật nước
nhà và có sự tương thích phù hợp với pháp luật quốc tế.
1.3.
Sơ lược về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong pháp luật
hơn nhân và gia đình Việt Nam trước ngày 01/01/2015
1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945
Nước ta trải qua hơn 4000 năm lịch sử cùng những biến chuyển khơng
ngừng của tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội. Các quan hệ xã hội thay đổi qua
mỗi giai đoạn dẫn đến sự thay đổi của các chế định pháp luật để phù hợp với tình
hình mới, trong đó bao gồm cả pháp luật về hơn nhân và gia đình.
Thời phong kiến
Pháp luật hơn nhân gia đình nước ta với cơ chế về tài sản vợ chồng đã được
hình thành từ rất sớm. Dưới thời phong kiến Bắc thuộc, chế độ tài sản này dường
như không được các văn bản pháp quy đề cập nhiều. Sở dĩ như thế vì hệ thống
pháp luật thời bấy giờ vẫn còn “non trẻ”, các quan hệ xã hội được điều chỉnh chủ
yếu bởi luật tục của người Việt và pháp luật của chính quyền phong kiến Trung
Hoa. Trong đó, khơng thể khơng đề cập đến quan hệ hơn nhân và gia đình. Với
26
Nguyễn Hồng Hải, “Khái quát tài sản của vợ chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình của một số
nước trên thế giới”, [bacvietluat.vn/khai-quat-tai-san-cua-vo-chong-trong-phap-luat-hon-nhan-va-giadinh-cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi.html].
13
quan niệm “tam tịng tứ đức”, “chồng chúa vợ tơi”, người phụ nữ Việt Nam trong
xã hội xưa hầu như bị lệ thuộc vào người đàn ơng. Họ khơng có quyền quyết định
số phận cuộc đời mình, việc được hưởng quyền định đoạt đối với tài sản lại càng
hạn chế.
Tuy nhiên, khi thốt khỏi ách đơ hộ Trung Hoa, nước ta bước vào thời quân
chủ, chế độ tài sản của vợ chồng có sự thay đổi ít nhiều với những quy định tiến
bộ hơn, bảo vệ quyền, lợi ích của người phụ nữ khi ràng buộc trong mối quan hệ
hôn nhân. Trong đó, phải kể đến hai Bộ luật tiêu biểu và quan trọng nhất là: Quốc
triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) thời Lê và Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia
Long) thời Nguyễn.
Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới thời Lê vào thế kỷ thứ XV. Mặc dù
mang bản chất phong kiến, ra đời trên nền tảng bảo vệ và củng cố nền chuyên
chính của giai cấp thống trị nhưng Bộ luật này đã thể hiện được tinh thần nhân
văn, nhân đạo sâu sắc. “Trong quốc triều hình luật, các quan hệ hơn nhân và gia
đình được điều chỉnh khá toàn diện và mang những sắc thái riêng biệt độc đáo,
phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam, đồng thời đạt được những
tiến bộ mà khơng hề có trong các văn bản pháp luật khác dưới chế độ phong
kiến”27. Tuy nhiên, bởi vì chịu sự tác động của tư tưởng Nho giáo nên quyền gia
trưởng trong gia đình được bảo vệ một cách tuyệt đối. Theo quy định, tài sản của
vợ chồng tất cả đều được coi là tài sản chung, không phân biệt do hai người làm
ra trong thời kỳ hôn nhân hay do một bên mang về và người chồng có vai trò
quản lý bên cạnh sự cộng tác của người vợ. Khi định đoạt tài sản, Bộ luật này yêu
cầu: “Trong các mẫu văn khế, bán đứt cầm cố chuyển đổi ruộng đất, đều phải có
vợ chồng cùng điểm chỉ”28.
Về việc chia tài sản, Điều 374 Quốc triều hình luật quy định: “…nếu điền
sản là của vợ chồng sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần, phần của chồng thì
chia như trước, phần của vợ sau thì nhận làm của riêng…”. Điều 375 cũng đề cập
27
Lê Thị Sơn (2004), Quốc triều hình luật – lịch sử hình thành, nội dung và giá trị, NXB Khoa học xã
hội, tr. 383.
28
Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hịa (2012), Các chế độ hơn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay,
NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr. 30.
14
tới vấn đề này như sau: “…trên đây là nói về điền sản của cha mẹ để cho con, còn
điền sản của vợ chồng làm ra thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được một
phần, phần của vợ được nhận làm của riêng…”. Như vậy, Bộ luật Hồng Đức thừa
nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng. Mặc dù được đưa vào quản lý chung
song những tài sản này chỉ tạm thời bị gộp vào trong thời gian hơn nhân mà thơi.
Khi vợ chồng ly hơn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó và họ có quyền
mang theo trừ trường hợp ly hơn do người vợ có lỗi như gian dâm.
Đến thời nhà Nguyễn, pháp luật thời kỳ này hầu như rất hiếm những quy
định điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng. Các quy định của Hoàng Việt luật
lệ đặc biệt là quyển 7 về Hộ luật hơn nhân khơng có Điều khoản nào đề cập tới
vấn đề này, việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ cũng rất hạn chế và khơng
tiến bộ như Quốc triều hình luật thời nhà Lê. Vì vậy, theo tục lệ chung thì người
vợ và các con khơng có tài sản riêng, quyền định đoạt, quản lý tài sản, tất cả đều
thuộc về người chồng trong gia đình.
Thời Pháp thuộc
Trong thời kỳ Pháp đơ hộ, ban đầu chính quyền thực dân vẫn tạm cho áp
dụng pháp luật của triều Nguyễn và các phong tục tập quán bản xứ để điều chỉnh
quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng, bao gồm cả quan hệ về tài sản. Sau khi cai trị
toàn bộ lãnh thổ nước ta, Pháp ban hành pháp luật mới với ba Bộ luật được áp
dụng lần lượt ở ba miền: Bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu ban hành năm 1883 áp
dụng tại miền Nam, Bộ Dân luật Bắc ban hành năm 1931 áp dụng ở miền Bắc và
Bộ Dân luật Trung áp dụng ở miền Trung ra đời năm 1936. Nhìn chung, pháp luật
giai đoạn này vẫn còn mang bản chất phong kiến, địa vị và quyền lợi của người
phụ nữ vẫn rất hạn hẹp. Xuất phát từ quan điểm “trọng nam khinh nữ”, cả ba Bộ
dân luật đều công nhận người chồng là trưởng gia đình và có quyền hành cao
nhất. Theo Bộ luật dân sự giản yếu, tất cả tài sản đều là của chồng, kể cả những
tài sản mà vợ đem về không phân biệt động sản hay bất động sản. Bộ Dân luật
Bắc và Dân luật Trung thì tiến bộ hơn ở chỗ ghi nhận vợ chồng có thể lập hơn
ước để quy định vấn đề tài sản của họ một cách tùy ý. Nếu không lập ước định thì
15