TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
NGUYỄN THỊ ÁI NỮ
MSSV: 1253801010253
CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐƢA NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGỒI
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2012 – 2016
Giảng viên hƣớng dẫn: Th.S Đồn Cơng n
TP.HCM – Năm 2016
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bảo hiểm xã hội
BHXH
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
BLĐTBXH
Người lao động
NLĐ
Người sử dụng lao động
NSDLĐ
Thu nhập cá nhân
TNCN
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT
ĐỘNG ĐƢA NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC
NGOÀI ....................................................................................................................... 5
1.1 Cơ sở lý luận của chế độ tài chính trong hoạt động đƣa ngƣời lao động Việt Nam
đi làm việc ở nƣớc ngoài ............................................................................................................... 5
1.2 Các nguyên tắc xây dựng và hồn thiện chế độ tài chính trong hoạt động đƣa
ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài ................................................................. 11
1.2.1 Tính khả thi của chế độ tài chính ................................................................................ 12
1.2.2 Tính cơng khai, minh bạch trong chế độ tài chính ..................................................... 13
1.2.3 Tính kế hoạch trong chế độ tài chính .......................................................................... 14
1.3 Quy định của pháp luật về các chế độ tài chính trong hoạt động đƣa ngƣời lao
động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài .................................................................................. 15
1.3.1 Quy định về chế độ tài chính trong hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài đối với người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ......................................... 16
1.3.2 Quy định về chế độ tài chính trong hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài đối với tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ..................................... 35
1.4
Sự cần thiết phải hồn thiện chế độ tài chính trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng......... 41
1.4.1 Sự cần thiết phải thay đổi nội dung của một số nghĩa vụ tài chính trong chế độ
tài chính của hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ................ 41
1.4.2 Sự cần thiết phải tăng cường hiệu quả áp dụng chế độ tài chính trong hoạt động
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ........................................................ 42
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐƢA NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở
NƢỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................... 45
2.1 Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hoạt động đƣa ngƣời lao động
Việt Nam đi làm việc tại nƣớc ngoài.......................................................................................... 45
2.1.1 Thực trạng áp dụng chế độ tài chính trong hoạt động đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài ................................................................................................. 45
2.1.2 Nguyên nhân của hành vi vi phạm chế độ tài chính trong hoạt động đưa người
lao độngViệt Nam đi làm việc ở nước ngoài ........................................................................... 50
2.1.3 Hậu quả của hành vi vi phạm chế độ tài chính trong hoạt động đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ................................................................................ 54
2.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của chế độ tài chính trong hoạt động
đƣa ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc tại nƣớc ngoài........................................................ 56
2.2.1 Kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về chế độ tài chính
trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ............................ 57
2.2.2 Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng chế độ tài chính trong hoạt động đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ............................................................... 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nước ta đã xây dựng
được nhiều mối quan hệ hợp tác quốc tế, một trong số đó là quan hệ hợp tác đưa
người lao động (sau đây viết tắt là NLĐ) đi làm việc ở nước ngồi. Với tính chất
là một hoạt động kinh tế - hoạt động này đã và đang phát triển theo cơ chế kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, pháp luật điều chỉnh
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi khơng được tách rời hai yếu tố: sự
phát triển kinh tế và lợi ích xã hội. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, tác giả nhận thấy một số quy định về
nghĩa vụ tài chính hiện nay khơng cịn phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị
trường. Sự khơng phù hợp này vơ hình chung đã khiến hệ thống quy phạm pháp
luật trở thành rào cản, làm cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài khó
phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường. Đây là một trong những nguyên nhân
quan trọng dẫn đến tình trạng vi phạm quy định về chế độ tài chính trong thời
gian qua. Các tổ chức thường tìm cách nâng mức thu đối với NLĐ có nhu cầu đi
làm việc ở nước ngoài để bù đắp những thiệt hại kinh tế phát sinh. Hành vi vi
phạm của các tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài đã làm tăng thêm rủi
ro, gánh nặng tài chính lên những NLĐ. Do đó, việc nghiên cứu một cách tồn
diện về chế độ tài chính trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay là hết sức cần
thiết, góp phần đảm bảo cân bằng lợi ích của cả NLĐ và tổ chức đưaNLĐ đi làm
việc ở nước ngồi. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Chế độ tài chính trong
hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khảo sát tình hình nghiên cứu hiện nay liên quan đến đề tài tác giả nhận
thấy: Mặc dù chế độ tài chính là một vấn đề pháp lý quan trọng trong hoạt động
2
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, tuy nhiên đề tài này chưa có nhiều nghiên
cứu mang tính chun sâu. Vấn đề pháp lý về chế độ tài chính thường được đề
cập trong các tài liệu nghiên cứu về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngồi. Có thể kể đến một số bài viết, khóa luận và luận văn như: Bài nghiên cứu
“Hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam: Thực trạng” của tác giả Nguyễn Thị
Phượng trên tạp chí Nghiên cứu pháp luật số tháng 11/2009, bài nghiên cứu
“Pháp luật về xuất khẩu lao động và hướng hoàn thiện” của tác giả Đào Mộng
Điệp trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số tháng 5/2012, khóa luận tốt nghiệp
“Xuất khẩu lao động trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh – thực trạng và một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động” của tác giả Đinh Anh Tú (2006), luận
văn “Pháp luật về xuất khẩu lao động - thực trạng và phương hướng hoàn thiện”
của tác giả Nguyễn Thị Hoa Tâm (2004), luận văn thạc sĩ “Cơ chế hoạt động của
doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Hạnh
(2008). Các bài nghiên cứu trên đều là những đề tài nghiên cứu về hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, vấn đề pháp lý về chế độ tài chính chỉ là một khía
cạnh trong rất nhiều nội dung được đề cập trong các đề tài này. Vì vậy, những
nghiên cứu được đưa ra mới chỉ dừng lại ở những nội dung mang tính khái quát,
cũng như các giải pháp được kiến nghị chỉ tập trung chủ yếu ở nhóm giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng của chế độ tài chính chứ khơng đi sâu vào giải pháp
hồn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
Tính đến thời điểm hiện nay, luận văn Thạc sĩ: “Chế độ pháp lý về tài
chính đối với người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngồi”
của tác giả Nguyễn Thị Phấn do TS. Trần Hoàng Hải hướng dẫn năm 2013 là tài
liệu đầu tiên nghiên cứu tập trung vào chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngoài. Luận văn đã này làm rõ quy định về các chế độ tài
chính, đưa ra thực trạng áp dụng cùng một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật về chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Tuy
nhiên, từ thời điểm tác giả viết (năm 2013) đến nay, một số chế định tài chính đã
được sửa đổi và bổ sung như bảo hiểm xã hội (sau đây viết tắt là BHXH), tiền ký
quỹ, nội dung xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc
3
ở nước ngồi. Do đó, với đề tài “Chế độ tài chính trong hoạt động đƣa ngƣời
lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài”, tác giả hi vọng có thể đem đến
một cái nhìn tồn diện hơn về chế độ tài chính dưới góc độ của hệ thống quy
phạm pháp luật hiện hành. Hi vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho
những người làm cơng tác nghiên cứu, học tập, thực thi pháp luật cũng như
những người muốn tìm hiểu về chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài.
3. Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu này hướng đến những mục đích cụ thể sau:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài; các nguyên tắc xây dựng và hồn thiện chế độ tài
chính; các quy định của pháp luật về chế độ tài chính trong hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.
Chỉ ra một số tồn tại trong quy định pháp luật và quá trình áp dụng các
quy định này trên thực tế, đưa ra nguyên nhân và hậu quả của những tồn
tại đó.
Đưa ra một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận,
nguyên tắc xây dựng và hồn thiện chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài; nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế độ tài chính
dưới góc độ của NLĐ và tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; thực trạng
áp dụng chế độ tài chính tại thị trường lao động Đài Loan và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế độ tài chính trong hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.
4
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về chế độ tài chính
trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và
việc áp dụng chế độ tài chính này trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc tại thị
trường Đài Loan (Trung Quốc).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của khóa luận, tác giả thực hiện đề tài
chủ yếu dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu các quy phạm pháp luật trước
đây và các quy phạm pháp luật hiện hành để thấy những định hướng phát
triển của nhà nước đối với chế độ tài chính nói riêng, hoạt động đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngồi nói chung.
Phương pháp liệt kê và phân tích các số liệu về chế độ tài chính trong hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, từ đó chỉ ra những hạn chế và
đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài các nội dung trong phần Danh mục từ viết tắt, Mục lục, Danh mục
tài liệu tham khảo, khóa luận này được chia làm hai chương:
Chương 1: Khái quát về chế độ tài chính trong hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài
Chương 2: Thực trạng áp dụng chế độ tài chính trong hoạt động đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài và một số kiến nghị
Khóa luận là cơng trình nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên, do thời gian
nghiên cứu có hạn cùng một số khó khăn nhất định trong q trình tìm kiếm tài
liệu liên quan, cũng như khả năng của bản thân cịn hạn chế, do vậy khóa luận
này sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, tác giả hi vọng sẽ nhận được sự góp ý
chân thành từ q thầy cơ và bạn đọc.
5
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT
ĐỘNG ĐƢA NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở
NƢỚC NGOÀI
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi là một trong những nội dung
quan trọng trong chính sách việc làm của nước ta. Thời gian qua, hoạt động này
đã phát huy hiệu quả khi giải quyết đáng kể tình trạng thiếu việc làm cho NLĐ
Việt Nam. Trong những giai đoạn tiếp theo, đây vẫn được xác định là biện pháp
tích cực giúp NLĐ có được việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống. Chỉ tiêu
của nước ta giai đoạn 2016 – 2020 là tăng 15% tổng số người đi làm việc ở nước
ngoài so với giai đoạn 2011 – 2015, trong đó có khoảng 95% lao động thuộc hộ
nghèo, hộ dân tộc thiểu số, góp phần giảm 19% số hộ nghèo thuộc 61 huyện
nghèo.1 Để có thể đạt được những mục tiêu đề ra, cần phải có sự nỗ lực từ nhiều
phía để thực hiện tổng hợp nhiều giải pháp khác nhau. Một trong những giải
pháp cơ bản được nhà nước hướng đến là việc xây dựng chế độ tài chính hợp lý
và có nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích NLĐ tham gia vào quan hệ lao động
ở nước ngoài.
1.1
Cơ sở lý luận của chế độ tài chính trong hoạt động đƣa ngƣời lao động
Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
Trước đây, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài do nhà nước trực
tiếp tổ chức dưới các hình thức hợp tác quốc tế về lao động. Hiện nay, hoạt động
này đã được chuyển giao cho các tổ chức kinh tế thực hiện, nhà nước chỉ còn tác
động vào hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi chủ yếu dưới góc độ
quản lý. Thông qua hệ thống quy phạm pháp luật, đặc biệt là nhóm quy định về
chế độ tài chính, nhà nước có thể trực tiếp quản lý tình hình đưa NLĐ đi làm việc
ở nước ngoài và định hướng phát triển hoạt động này trong tương lai.
Có thể thấy, chế độ tài chính là thuật ngữ khơng chỉ mang tính pháp lý mà
cịn mang tính kinh tế - xã hội, do đó việc nghiên cứu chế độ tài chính cần phải
1
Quyết định 71/2009/QĐ-Ttg về Phê duyệt đề án hỗ trợ huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp
phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 – 2020.
6
đặt trong mối quan hệ tác động qua lại giữa góc độ kinh tế, pháp lý và xã hội để
có cái nhìn tồn diện.
Thứ nhất, cơ sở lý luận về kinh tế. Sở dĩ hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngồi có một mảng pháp lý quy định về chế độ tài chính vì hoạt động này
thực chất là hoạt động kinh tế. Một hoạt động được coi là hoạt động kinh tế khi
các chủ thể tham gia quan hệ đó ln phải đưa ra các lựa chọn mang tính kinh tế,
tức là đưa ra những lựa chọn mang lại nhiều lợi ích nhất. Khi xem xét hoạt động
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi dưới góc độ kinh tế, có thể thấy: Tổ chức đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngồi – với vai trị “người sản xuất” được quyền lựa
chọn hình thức kinh doanh và đối tượng kinh doanh. Các tổ chức có thể lựa chọn
hình thức kinh doanh là cung cấp dịch vụ cho đối tượng là NLĐ có nhu cầu làm
việc ở nước ngồi hoặc bất kì hình thức kinh doanh hợp pháp khác. NLĐ – với
vai trò “người tiêu dùng” cũng được quyền lựa chọn sử dụng hay không sử dụng
dịch vụ do tổ chức cung cấp. Yếu tố tác động đến quá trình đưa ra quyết định,
khiến NLĐ và tổ chức lựa chọn hình thức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi là
những lợi ích kinh tế mà hoạt động này mang lại. Đối với NLĐ, động lực khiến
NLĐ lựa chọn hình thức đi làm việc ở nước ngồi là mong muốn có thu nhập
cao, cải thiện chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình. Có đến 90% những
người được phỏng vấn trong cuộc điều tra tác động của di dân quốc tế đối với
Việt Nam trả lời họ di dân nhằm “kiếm tiền”, “tiết kiệm” hoặc “gửi về”.2 Đối với
tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, nhóm chủ thể này thực hiện hoạt
động dịch vụ nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận thông qua việc cung cấp dịch
vụ cho NLĐ và nhận thù lao. Như vậy, lợi ích kinh tế là lợi ích được đặt lên hàng
đầu và chi phối các bên tham gia. Nhà nước không phải là chủ thể kinh tế tham
gia vào hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi nhưng thơng qua việc hỗ
trợ hoạt động này, nhà nước nhận được nguồn thu bổ sung vào ngân sách từ thuế
thu nhập cá nhân (sau đây viết tắt là TNCN) và ngoại tệ mà NLĐ gửi về nước.
2
Đặng Nguyên Anh, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Trần Thị Bích, Đào Thế Sơn (2011), Nghiên cứu đánh giá tác
động kinh tế - xã hội của di dân quốc tế tại Việt Nam, Lao động di trú trong pháp luật quốc tế và Việt
Nam, NXB Lao động – Xã hội, tr 98.
7
Một trong những nguyên lý quan trọng của kinh tế học là “con người đối
mặt với sự đánh đổi”. Theo nguyên lý này, để đạt được một lợi ích kinh tế nhất
định con người cần phải “đánh đổi” bằng một lợi ích khác có giá trị tương đương.
Như đã phân tích, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi là một hoạt động
kinh tế, vì vậy hoạt động này cũng tuân theo nguyên tắc “con người đối mặt với
sự đánh đổi”. NLĐ có thể tự tìm kiếm và ký kết hợp đồng với người sử dụng lao
động (sau đây viết tắt là NSDLĐ) nước ngồi, tuy nhiên cơng việc này thường
mất nhiều chi phí và cơng sức. Trong khi đó, phần lớn NLĐ Việt Nam lựa chọn
hình thức đi làm việc ở nước ngoài là lao động nghèo, việc tiếp cận những thơng
tin cần thiết cịn hạn chế, vì vậy quá trình NLĐ trực tiếp tìm kiếm NSDLĐ nước
ngồi càng trở nên khó khăn. Để đáp ứng nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài của
NLĐ, nhiều doanh nghiệp dịch vụ được thành lập và tiến hành giúp NLĐ tìm
kiếm thị trường lao động cũng như tiến hành một số thủ tục cần thiết khác để
NLĐ được xuất cảnh. Thực tế cho thấy, hoạt động của các doanh nghiệp này
trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả, đa số NLĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài thông qua sự hỗ trợ của doanh nghiệp dịch vụ. Để được sử dụng dịch
vụ do doanh nghiệp cung cấp, NLĐ phải “đánh đổi” bằng một khoản chi phí hợp
lý. Tương tự như vậy, khi NLĐ và tổ chức tiến hành hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài sử dụng cơ sở vật chất và các hỗ trợ phi vật chất khác từ phía
nhà nước cũng phải “đánh đổi” bằng một khoản chi phí hợp lý khác.
Thứ hai, cơ sở lý luận về xã hội. Không phải nghĩa vụ tài chính nào trong
chế độ tài chính cũng chỉ đơn thuần mang tính kinh tế. Những nghĩa vụ tài chính
như BHXH, quỹ hỗ trợ việc làm ngồi nước, thuế TNCN là những nghĩa vụ tài
chính mang tính xã hội, là trách nhiệm của NLĐ và tổ chức đưa NLĐ đi làm việc
ở nước ngồi đối với xã hội. Tính xã hội được thể hiện qua nguyên tắc chi trả và
mục đích xã hội của các nghĩa vụ tài chính này. Một là, nguyên tắc chi trả “lấy số
đông bù số ít” của quỹ hỗ trợ việc làm ngồi nước và quỹ BHXH. Hằng năm,
quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước và quỹ bảo hiểm xã hội đều dự toán những khoản
chi mang tính chất chia sẻ rủi ro. Chỉ NLĐ hoặc tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài gặp những rủi ro được pháp luật quy định mới được nhận hỗ trợ từ
8
quỹ. Như vậy, nếu chủ thể đóng góp vào quỹ mà không rơi vào những trường
hợp luật định đồng nghĩa với việc khơng được nhận hỗ trợ. Khoản đóng góp của
những chủ thể này sẽ được sử dụng để hỗ trợ cho những chủ thể khác gặp rủi ro,
thông thường khoản hỗ trợ này lớn hơn nhiều so với số tiền mà các chủ thể đã
đóng góp. Vì vậy, để có nguồn kinh phí chi hỗ trợ, quỹ BHXH và quỹ hỗ trợ việc
làm ngoài nước phải lấy số tiền đóng góp của số đơng người tham gia để bù cho
số ít người được nhận hỗ trợ. Hai là, mục đích xã hội của nghĩa vụ tài chính. Nhà
nước sử dụng nguồn thu từ các nghĩa vụ tài chính để phục vụ cho những lợi ích
cộng đồng. Thuế TNCN là khoản thu thể hiện rõ nét đặc điểm này, với tính chất
là khoản thu khơng mang tính hồn trả trực tiếp nên nhà nước thu số tiền này mà
khơng có nghĩa vụ hoàn trả cho người nộp. Khoản thu này sẽ được nhà nước sử
dụng vào những mục đích cơng cộng như đầu tư cho cơ sở hạ tầng, triển khai các
chính sách xã hội vì cộng đồng, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong
xã hội, trợ giúp trực tiếp cho những người có thu nhập thấp hoặc hoàn cảnh đặc
biệt như chi về trợ cấp xã hội hay trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các
mặt hàng thiết yếu, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng…Người nộp suy cho cùng
cũng sẽ nhận được các lợi ích gián tiếp từ nguồn đóng góp của mình thơng qua
việc sử dụng các dịch vụ cơng cộng, cũng như việc thụ hưởng các chính sách
kinh tế xã hội chung dành cho cộng đồng.
Thứ ba, cơ sở lý luận về pháp lý. Ngay từ khi xuất hiện, pháp luật đã được
coi là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của nhà nước. Thông qua quy định của
pháp luật, nhà nước có thể điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng việc tác động đến
yếu tố kinh tế hay các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng. Do vậy, quy định
về chế độ tài chính cũng là một công cụ được nhà nước sử dụng để quản lý hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Sự quản lý của nhà nước được thể hiện
dưới hai góc độ. Một là, nhà nước sử dụng quy định về chế độ tài chính để quản
lý trực tiếp hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi. Trong chế độ tài chính,
quyền lợi của chủ thể này đồng thời sẽ là nghĩa vụ của chủ thể khác. Hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc nghĩa vụ của chủ thể này sẽ
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể khác. Chính vì vậy, hệ thống quy phạm
9
pháp luật về chế độ tài chính là cơng cụ cụ pháp lý được nhà nước sử dụng để
đảm bảo hoạt động này diễn ra theo một trật tự ổn định và không xâm phạm
quyền lợi của các chủ thể tham gia. Cùng với đó, thơng qua những số liệu báo
cáo, thống kê tài chính của hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, cơ
quan chức năng có thể kiểm sốt được tình hình triển khai hoạt động này trong
từng thời kỳ, tại từng khu vực; từ đó mà có sự điều chỉnh chính sách cho phù
hợp. Hai là, nhà nước sử dụng quy định về chế độ tài chính để điều tiết hoạt động
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi. Như đã phân tích, NLĐ và tổ chức đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngoài trước khi quyết định tham gia vào quan hệ đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngồi đều có q trình đưa ra các lựa chọn mang tính kinh tế.
Các chủ thể này ln xem xét giữa chi phí đầu tư và lợi ích nhận được, vì vậy
một khi yếu tố chi phí đầu tư thay đổi chắc chắn tác động đến yếu tố lợi ích và tất
yếu dẫn tới sự cân nhắc để thay đổi hành vi. Trên cơ sở đó, nhà nước có thể sử
dụng chế độ tài chính để tác động vào hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài bằng việc tác động vào yếu tố chi phí đầu tư – tức các nghĩa vụ tài chính.
Để khuyến khích hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, nhà nước có thể
sử dụng biện pháp: Điều chỉnh giảm mức đóng các nghĩa vụ tài chính, đưa ra các
chính sách ưu đãi, khuyến khích, miễn giảm nghĩa vụ tài chính… Để hạn chế
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, nhà nước có thể sử dụng biện
pháp: Điều chỉnh tăng mức đóng các nghĩa vụ tài chính, mở rộng phạm vi chủ thể
có nghĩa vụ tài chính... Như vậy, với cơng cụ là chế độ tài chính, nhà nước có thể
điều tiết hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài cho phù hợp với chính
sách của nhà nước trong từng thời kỳ.
Có thể thấy, việc thừa nhận và quy định về chế độ tài chính trong hoạt động
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam là địi hỏi
tất yếu của q trình phát triển kinh tế thị trường. Thông qua các quy định về chế
độ tài chính, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi được đưa vào khn
khổ pháp lý, đảm bảo quyền lợi của các bên.
Từ khi hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi chính thức chịu sự
điều chỉnh của pháp luật, thuật ngữ “chế độ tài chính” được sử dụng lần đầu tiên
10
và duy nhất tại Thông tư liên tịch số 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTXH ngày 07
tháng 11 năm 2003 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (sau đây viết tắt
là BLĐTBXH) và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ tài chính đối với
NLĐ và doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi có
thời hạn ở nước ngồi. Tuy nhiên, Thơng tư này cũng chỉ đưa ra quy định về các
khoản tài chính mà khơng định nghĩa thế nào là chế độ tài chính. Hiện nay, văn
bản này đã chấm dứt hiệu lực, các quy định về nghĩa vụ tài chính vẫn tiếp tục
được ghi nhận trong các văn bản hiện hành, tuy nhiên các quy định này không
được tập hơp thành một văn bản riêng như Thơng tư liên tịch 107/2003/TTLTBTC-BLĐTBXH, vì vậy cũng khơng có khái niệm chính thức nào về chế độ tài
chính. Trên cơ sở lý luận trên, cùng quá trình nghiên cứu về chế độ tài chính, tác
giả cho rằng, thuật ngữ chế độ tài chính nên được hiểu như sau:
Chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài là các
khoản nộp bắt buộc mà NLĐ và tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi có
nghĩa vụ phải thực hiện để có thể tiến hành hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngồi. Chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài
là tổng hợp các nghĩa vụ tài chính bao gồm: Tiền mơi giới, tiền dịch vụ, tiền kỹ
quỹ, quỹ hỗ trợ việc làm ngồi nước, BHXH, thuế TNCN và các chi phí khác.
Như vậy, chế độ tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài thực chất là những khoản tiền mà các chủ thể phải đóng góp để có thể tiến
hành hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Xét về mặt chủ thể, đây là
những nghĩa vụ tài chính của NLĐ và tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài. Hiện nay, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ghi nhận ba
loại hình tổ chức có chức năng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài bao gồm:
doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài; doanh nghiệp trúng thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài và
doanh nghiệp đưa NLĐ đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề.
Ba nhóm tổ chức này cùng với NLĐ là chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
tài chính trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Xét về loại nghĩa
11
vụ tài chính, các chủ thể tham gia vào quan hệ đi làm việc ở nước ngồi có trách
nhiệm tham gia bảy nhóm nghĩa vụ lớn, bao gồm: Tiền mơi giới, tiền dịch vụ,
tiền ký quỹ, quỹ hỗ trợ việc làm ngồi nước, BHXH, thuế TNCN, các chi phí
khác. Các chi phí khác bao gồm: Lệ phí cấp phiếu lý lịch tư pháp, chi phí khám
sức khỏe, lệ phí làm visa và hộ chiếu, học phí đào tạo ngoại ngữ, đào tạo nghề và
kiến thức cần thiết, tiền vé máy bay. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào tham gia
vào quan hệ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài cũng đều phải thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ tài chính nêu trên. Sự khác nhau này xuất phát từ hình thức đi làm
việc ở nước ngồi và tư cách của chủ thể tham gia vào quan hệ này. Về cơ bản,
NLĐ đi làm việc ở nước ngồi có nghĩa vụ tham gia thuế TNCN, BHXH, quỹ hỗ
trợ việc làm ngồi nước và các chi phí khác, riêng với NLĐ đi làm việc ở nước
ngồi thơng qua doanh nghiệp dịch vụ có thêm nghĩa vụ về tiền mơi giới, tiền
dịch vụ và tiền ký quỹ. Trong nhóm tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài,
doanh nghiệp dịch vụ có trách nhiệm thực hiện ba nhóm nghĩa vụ tài chính gồm:
Tiền mơi giới, tiền ký quỹ và quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước. Riêng doanh
nghiệp đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi thơng qua hình thức thực tập nâng cao
tay nghề chỉ có trách nhiệm thực hiện ký quỹ.
1.2 Các nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện chế độ tài chính trong hoạt
động đƣa ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
Việc xây dựng bất kì nghĩa vụ nào cũng đều phải cân nhắc kĩ lưỡng, điều
này càng phải được chú ý hơn khi xây dựng nghĩa vụ tài chính. Các quy định về
nghĩa vụ tài chính sẽ tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của NLĐ và tổ chức
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, vì vậy nếu khơng có một chế độ tài chính
phù hợp sẽ khơng nhận được sự hợp tác của các chủ thể có liên quan. Một chế độ
tài chính được coi là phù hợp nếu các quy định về chế độ tài chính đảm bảo tính
khả thi, tính cơng khai minh bạch và tính kế hoạch.
12
1.2.1 Tính khả thi của chế độ tài chính
Chế độ tài chính chỉ phát huy hết vai trị và ý nghĩa nếu tương quan phù hợp
với những quyền lợi được hưởng. Nói cách khác, chế độ tài chính phải đảm bảo
tính hợp lý và cân bằng lợi ích.
Thứ nhất, chế độ tài chính phải hợp lý. Tính hợp lý của chế độ tài chính
được xem xét dưới ba góc độ. Một là, sự cần thiết của khoản thu tài chính. Như
đã đề cập, các chủ thể muốn nhận được một lợi ích nhất định phải “đánh đổi”
bằng một lợi ích khác; trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, lợi
ích được các chủ thể sử dụng để “đánh đổi” chính là lợi ích tài chính. NLĐ và tổ
chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài sẽ chỉ phải trả những khoản chi phí hợp
lý và cần thiết để nhận được lợi ích mong muốn. Để xác định khoản thu nào là
cần thiết cần căn cứ vào bối cảnh kinh tế - xã hội và chính sách nhà nước trong
từng thời kỳ. Đơn cử như nghĩa vụ ký quỹ của tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngồi, nếu như trước đây ký quỹ khơng được coi là chi phí cần thiết, thì
hiện nay tổ chức muốn tiến hành hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài bắt buộc phải thực hiện ký quỹ, đây được xác định là chi phí cần thiết để
tăng cường trách nhiệm của nhóm chủ thể này đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài. Hai là, mức thu hợp lý của chế độ tài chính. Quy định về bất
kì khoản thu tài chính nào cũng cần được xem xét dưới góc độ của cả chủ thể có
nghĩa vụ và chủ thể có quyền. Đối với chủ thể có nghĩa vụ: Khoản tiền mà họ chi
trả không nhất thiết phải thấp nhưng phải đảm bảo tính hợp lý. Chi phí mà chủ
thể đầu tư phải xứng đáng với những lợi ích mà họ nhận được, nếu yếu tố chi phí
nhiều hơn yếu tố lợi ích thì các chủ thể chắc chắn khơng ưu tiên lựa chọn hình
thức lao động này. Đối với chủ thể có quyền: Khoản tài chính mà họ nhận được
trước tiên phải bù đắp được những chi phí cùng cơng sức mà họ đã đầu tư. Tiếp
đó, khoản tài chính này phải đem đến lợi nhuận cho chủ thể có quyền, đây cũng
chính là mục đích mà nhóm chủ thể này hướng đến khi tiến hành hoạt động đưa
NLĐ đi làm ở nước ngoài. Ba là, sự phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của
chế độ tài chính. Một chế độ tài chính càng hồn thiện thì tính linh hoạt càng cao.
13
Tiêu chí này địi hỏi các quy định về chế độ tài chính phải ln được đặt trong
mối liên hệ với sự phát triển kinh tế và xã hội. Khi một trong hai yếu tố này thay
đổi thì chế độ tài chính cũng buộc phải có những thay đổi phù hợp.
Thứ hai, chế độ tài chính phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chủ thể có
quyền và chủ thể có nghĩa vụ. Trước tiên, chế độ tài chính phải được xây dựng
trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa về lợi ích của cả bên có quyền và bên có nghĩa vụ.
Nếu nhà nước chỉ quan tâm bảo vệ một bên trong mối quan hệ tài chính sẽ dẫn
đến xung đột lợi ích và làm mất đi tính ổn định của xã hội. Không những vậy,
một chế độ tài chính khơng đảm bảo cân bằng lợi ích cịn là rào cản khiến hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi khó phát triển theo quy luật của kinh tế
thị trường. Quy định về nghĩa vụ tài chính khơng chỉ cần phải phù hợp với điều
kiện kinh tế của bên có nghĩa vụ, mà cịn phải đáp ứng được nhu cầu của bên có
quyền. Thực tế, tiêu chí này chỉ mang tính tương đối, khơng thể tồn tại sự cân
bằng tuyệt đối về lợi ích giữa các chủ thể tham gia. Tuy nhiên, nhà nước - với vai
trò trung gian điều hịa mối quan hệ giữa các bên, có thể nghiên cứu để hạn chế
đến mức thấp nhất sự mất cân bằng này.
1.2.2 Tính cơng khai, minh bạch trong chế độ tài chính
Để có một chế độ tài chính hoàn thiện, bên cạnh việc xây dựng được một hệ
thống quy phạm pháp luật có tính khả thi, thì cơng tác triển khai, phổ biến thơng
tin cũng đóng vai trị vô cùng quan trọng. Cơ sở của nguyên tắc công khai, minh
bạch chính là sự kiểm sốt, hạn chế quyền lực. Yếu tố quyền lực được đề cập ở
đây là quyền của chủ thể thụ hưởng chế độ tài chính. Thực tế, các chủ thể có
quyền ln có xu hướng lạm quyền, trong chế độ tài chính biểu hiện của xu
hướng này là các hành vi thu phí với mức vượt q chi phí hợp lý, thu phí ngồi
quy định… Để hạn chế xu hướng lạm quyền, nguyên tắc công khai và minh bạch
về chế độ tài chính được đề ra. Theo từ điển tiếng Việt, “công khai” là việc
không giữ kín mà để cho mọi người đều có thể biết3, “minh bạch” là rõ ràng và
3
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam(2013), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, tr232.
14
rành mạch4. Trong chế độ tài chính, “cơng khai” có nghĩa là mọi khoản thu, chi
tài chính đều phải được cơng bố đầy đủ, kịp thời, chính xác, làm cho mọi công
dân, đặc biệt là những đối tượng chịu tác động trực tiếp từ chế độ tài chính có thể
tiếp cận được thông tin một cách dễ dàng. “Minh bạch” có nghĩa là các khoản thu
phải dễ hiểu, dễ áp dụng, khơng gây rắc rối và khó khăn cho chủ thể tiếp cận
thông tin. Các thông tin đưa ra càng rõ ràng, càng dễ hiểu, thì các chủ thể càng dễ
thực hiện. Tính cơng khai và minh bạch trong chế độ tài chính là cơ chế giúp
NLĐ nắm được thơng tin về các quyền và nghĩa vụ tài chính của mình, đồng thời
qua đó NLĐ có thể phối hợp với cơ quan có thẩm quyền giám sát việc triển khai
chế độ tài chính của tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi.
1.2.3
Tính kế hoạch trong chế độ tài chính
Thơng thường mỗi chế độ tài chính đều có dự toán ngân sách hằng năm –
đây là bản dự trù các khoản thu, chi theo chỉ tiêu xác định trong một năm. Bản dự
toán ngân sách nhà nước thường đưa ra các số liệu “dự báo mức kinh phí sử
dụng”, “dự báo chi” thường xuyên và không thường xuyên trong năm tài chính
của từng nghĩa vụ tài chính. Trong đó, “dự báo kinh phí sử dụng” là tổng mức
“dự báo thu” và “số dư ngân sách năm trước còn lại”. Đối với hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, “dự báo thu” được tính tốn trên cơ sở phân tích
kế hoạch đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài hằng năm của nhà nước, kết hợp với
nghiên cứu về chính sách tiền lương của Việt Nam và các quốc gia tiếp nhận lao
động Việt Nam. “Dự báo chi” được tính tốn trên cơ sở báo cáo thu, chi tài chính
của những năm trước kết hợp với dự báo kinh phí sử dụng, qua đó hoạch định rõ
khoản chi mang tính chất thường xuyên và khoản chi mang tính chất dự phịng.
Mọi số liệu trong bản dự tốn ngân sách phải được xem xét lại hàng tháng, so
sánh kết quả đã thực hiện ở mỗi giai đoạn với kết quả dự báo. Trên cơ sở đó, các
tổ chức sẽ điều chỉnh thu, chi một cách khoa học và hợp lý. Tính kế hoạch trong
chế độ tài chính địi hỏi bản dự toán ngân sách đã đề ra phải được thực hiện
nghiêm túc. Nguyên tắc này hướng đến đảm bảo cân đối thu, chi thông qua cơ
4
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam(2013), [3], tr699.
15
chế kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài và cơ quan quản lý nhà nước. Tình trạng bội thu hay bội chi ngân sách đều
là biểu hiện của sự lãng phí nguồn lực, vì vậy tn thủ kế hoạch thu, chi hàng
năm là yêu cầu vô cùng quan trọng. Bên cạnh yêu cầu phải triển khai kế hoạch
thu, chi phù hợp với bản dự tốn ngân sách hằng năm, tính kế hoạch trong chế độ
tài chính cịn u cầu các khoản chi tài chính phải phân bố cho đúng đối tượng và
đúng mục đích đã đề ra. Đây là nguyên tắc đòi hỏi các chủ thể nắm giữ ngân sách
phải tuân thủ nghiêm túc, hành vi vi phạm quy định về thu, chi hay sử dụng sai
mục đích, tùy mức độ sẽ chịu những chế tài khác nhau.
1.3 Quy định của pháp luật về các chế độ tài chính trong hoạt động đƣa
ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài
Một trong những vấn đề được NLĐ quan tâm nhất khi lựa chọn hình thức đi
làm việc ở nước ngồi chính là các chế độ tài chính mà họ phải tham gia. Pháp
luật Việt Nam ghi nhận tương đối đầy đủ về các nghĩa vụ tài chính này; mỗi
khoản tài chính đều được quy định những nội dung cơ bản như chủ thể thực hiện,
mức đóng và phương thức đóng, trách nhiệm quản lý và cách thức sử dụng cũng
như trường hợp hồn trả nếu có. Hiện nay, Luật Người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài là văn bản quy định khái quát về chế độ tài chính trong hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Cùng với Luật Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài, tương ứng với mỗi khoản chi phí sẽ có một hoặc
một số văn bản hướng dẫn chi tiết. Tiền môi giới và tiền dịch vụ được hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 16/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 04 tháng 9 năm
2007 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính quy định cụ thể
về tiền môi giới và tiền dịch vụ trong hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Tiền ký quỹ được hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 17/2007/TTLT-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 04 tháng 9 năm 2007 của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định
việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp và tiền ký quỹ của NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài. BHXH được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội số
16
58/2014/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 và Nghị định số 115/2015/NĐ-CP
ngày 11 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã
hội về BHXH bắt buộc. Thuế thu nhập cá nhân được quy định tại Luật thuế thu
nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 và Luật số
26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thuế thu nhập cá nhân.
Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước được quy định tại Quyết định số 144/2007/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập, quản lý và sử dụng quỹ hỗ trợ
việc làm ngoài nước. Các khoản chi phí khác được hướng dẫn tại một số văn bản
liên quan.
Như đã phân tích tại mục 1.1 của chương, chế độ tài chính về bản chất là
các khoản tiền mà NLĐ và tổ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi đóng góp. Giữa
hai nhóm chủ thể này có những đặc điểm khác biệt về khả năng tài chính cũng
như phạm vi trách nhiệm nên quy định về chế độ tài chính của hai nhóm chủ thể
này cũng có những điểm đặc thù riêng. Vì vậy, trong nội dung này tác giả sẽ
trình bày các quy định của pháp luật về chế độ tài chính trên cơ sở xem xét đồng
thời cả nghĩa vụ và lợi ích của hai nhóm chủ thể NLĐ và tổ chức đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngồi.
1.3.1
Quy định về chế độ tài chính trong hoạt động đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài đối với người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngồi
Trong hai nhóm chủ thể tham gia vào quan hệ đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài, NLĐ là nhóm chủ thể có nghĩa vụ tham gia vào đầy đủ các chế độ tài
chính luật định bao gồm: Tiền môi giới, tiền dịch vụ, tiền ký quỹ, quỹ hỗ trợ việc
làm ngoài nước, BHXH, thuế TNCN và các khoản chi phí khác.
Tiền mơi giới
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, hoạt động mơi giới ngày càng có vai trị
quan trọng. Thơng qua hình thức mơi giới, các bên có thể tìm được đối tác phù
hợp để thiết lập quan hệ hợp đồng. Dựa trên cơ sở tiêu chuẩn do các bên đưa ra,
17
tổ chức mơi giới sẽ đóng vai trị trung gian, tìm kiếm đối tác thỏa mãn điều kiện
và giới thiệu các bên với nhau. Nhờ có hoạt động mơi giới mà quá trình hợp tác
giữa các bên diễn ra hiệu quả hơn. Đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngồi, hoạt động mơi giới càng có vai trò quan trọng hơn khi mà “việc
NLĐ Việt Nam và người sử dụng lao động nước ngoài trực tiếp đến với nhau là
gần như không thể”.5
Hoạt động môi giới thực chất là một hoạt động dịch vụ nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận. Vì vậy, để sử dụng dịch vụ môi giới do bên môi giới cung cấp,
NLĐ phải chi trả một khoản tiền cho bên môi giới, khoản tiền đó gọi là tiền mơi
giới. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong các hình thức đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngồi, chỉ có hình thức đi làm việc ở nước ngoài với doanh
nghiệp dịch vụ mới quy định trách nhiệm về tiền môi giới. Tuy nhiên, không phải
với thị trường nào NLĐ cũng có trách nhiệm chi trả khoản tiền này, đối với
những thị trường hay hợp đồng mà bên đối tác nước ngồi khơng có u cầu về
tiền mơi giới thì doanh nghiệp dịch vụ khơng được thu khoản tiền này.6 Quy định
này xuất phát từ thực tế triển khai thực hiện chế độ tiền môi giới, trong thời gian
qua một số hiện tượng không tốt xung quanh khoản chi phí này đã xuất hiện, làm
ảnh hưởng đến hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi. Vì vậy, nhiều thị
trường lao động đã bỏ yêu cầu về chi phí này. Hiện nay, Nhật Bản là thị trường
tiếp nhận NLĐ Việt Nam mà không yêu cầu đóng tiền mơi giới. Quy định này đã
giảm đáng kể áp lực tài chính cho NLĐ, từ đó tạo tâm lý an tâm và hạn chế tình
trạng NLĐ Việt Nam lưu trú bất hợp pháp tại nước tiếp nhận lao động (vấn đề
này sẽ được nghiên cứu ở phần 2.1.3 của chương 2).
Trước đây, tại Thông tư liên tịch 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTBXH, tiền
môi giới sẽ do doanh nghiệp dịch vụ chịu trách nhiệm chi trả cho bên môi giới
trên cơ sở chi hoa hồng từ nguồn thu phí dịch vụ; NLĐ chỉ chịu một phần phí
5
Tư vấn xuất khẩu lao động, “Tại sao Xuất khẩu lao động có mơi giới mới đi được”,
[ cập ngày 27/4/2016).
6
Mục 1 phần II Thông tư liên tịch số 16/2007/ TTLT-BLĐTBXH-BTC quy định cụ thể về tiền môi giới
và tiền dịch vụ trong hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
18
môi giới để hỗ trợ doanh nghiệp tại một số thị trường nhất định. Như vậy, xét về
mặt chủ thể, cả NLĐ và doanh nghiệp dịch vụ đều có nghĩa vụ đóng tiền mơi
giới, nhưng trách nhiệm chi trả chính thuộc về doanh nghiệp dịch vụ. Hiện nay
tiền môi giới và tiền dịch vụ là hai khoản chi phí độc lập; doanh nghiệp khơng
cịn nghĩa vụ trích hoa hồng tiền dịch vụ để chi trả tiền môi giới, đồng thời trách
nhiệm chính đối với khoản tiền này thuộc về NLĐ. NLĐ có thể chịu trách nhiệm
với tồn bộ số tiền môi giới hoặc cùng với doanh nghiệp dịch vụ chia sẻ trách
nhiệm này. Trường hợp NLĐ và doanh nghiệp dịch vụ cùng chi trả tiền mơi giới,
thì khoản tiền này trước tiên sẽ do doanh nghiệp dịch vụ trả cho bên mơi giới, sau
đó NLĐ hồn trả lại một phần cho doanh nghiệp dịch vụ.
Về mức đóng và phương thức đóng tiền mơi giới. Tiền mơi giới là chi phí
khá lớn trong chế độ tài chính của NLĐ đi làm việc ở nước ngồi, vì vậy các quy
định về tiền mơi giới thường bị vi phạm với mục đích trục lợi từ khoản tài chính
này. Để bảo vệ NLĐ tránh khỏi sự “ép giá” từ phía doanh nghiệp dịch vụ, pháp
luật quy định cụ thể về mức đóng cũng như phương thức đóng tiền mơi giới. Các
thỏa thuận mức đóng và phương thức đóng tiền mơi giới phải được ghi nhận
trong hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngồi. Thứ nhất, mức phí mơi giới
sẽ do doanh nghiệp dịch vụ thỏa thuận với NLĐ nhưng không quá mức hoàn trả
tối đa được BLĐTBXH quy định tại Quyết định số 61/2008/QĐ-BLĐTBXH
ngày 12 tháng 8 năm 2008 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về mức
tiền môi giới NLĐ hoàn trả cho doanh nghiệp tại một số thị trường.7 Trên thực tế
mức tiền mơi giới hồn trả thơng thường do doanh nghiệp dịch vụ đưa ra, NLĐ
có thể chấp nhận hoặc từ chối chứ ít tồn tại khả năng đàm phán để thay đổi. Xét
về mặt pháp luật, cách ấn định mức phí mơi giới này vẫn đảm bảo quyền tự do
giao kết hợp đồng, NLĐ vẫn có thể lựa chọn chấp nhận hoặc khơng chấp nhận
giao kết hợp đồng. Xét về tính thực tiễn, hoạt động này có ưu điểm nổi bật là tiết
kiệm thời gian cho cả NLĐ và doanh nghiệp trong quá trình đàm phán giao kết
hợp đồng. Chính vì vậy, hình thức ấn định giá mơi giới hồn trả vẫn được các
doanh nghiệp dịch vụ sử dụng trong thời gian qua.
7
Phụ lục số 1.
19
Về việc hồn trả tiền mơi giới. Khoản tiền mơi giới sẽ được hoàn trả khi
NLĐ đã xuất cảnh qua nước ngồi làm việc mà phải trở về nước vì lí do bất khả
kháng (thiên tai, chiến tranh, doanh nghiệp bị phá sản…) hoặc không phải do lỗi
của NLĐ. Doanh nghiệp dịch vụ có trách nhiệm u cầu bên mơi giới hồn trả
cho NLĐ một phần tiền mơi giới theo nguyên tắc: nếu NLĐ làm việc chưa đủ
50% thời gian theo hợp đồng thì được nhận lại 50% tiền mơi giới đã nộp, còn nếu
NLĐ đã làm việc từ 50% thời gian theo hợp đồng trở lên thì khơng được nhận lại
khoản tiền này.
Nếu doanh nghiệp khơng địi được tiền từ bên mơi giới, doanh nghiệp sẽ
chịu trách nhiệm hồn trả số tiền này cho NLĐ theo nguyên tắc trên. Doanh
nghiệp có thể trích từ nguồn thu phí dịch vụ hay các nguồn thu kinh doanh khác
để hoàn trả cho NLĐ. Trước đây, trong quy định về hoàn trả tiền môi giới tại
Thông tư liên tịch 107/2003/TLLT-BTC-BLĐTBXH, trường hợp doanh nghiệp
khơng địi được bên mơi giới thì doanh nghiệp cần có biện pháp hỗ trợ cho NLĐ
trong từng trường hợp cụ thể. Quy định như vậy rất khó áp dụng trên thực tế,
hiệu quả của quy định này sẽ phụ thuộc nhiều vào thiện chí của doanh nghiệp
dịch vụ khi giải thích những trường hợp nào được coi là “ trường hợp cụ thể”,
hay “hỗ trợ” như thế nào là đủ. Với quy định hiện nay, nhà nước đã buộc doanh
nghiệp dịch vụ phải có trách nhiệm giám sát các đối tác mơi giới mà mình ký kết
hợp đồng nếu muốn hạn chế rủi ro, từ đó mà quyền lợi của NLĐ được bảo vệ tốt
hơn.
Tiền dịch vụ
Để giúp NLĐ có được việc làm ở nước ngồi, doanh nghiệp phải tiến hành
một số hoạt động như: Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng,
tổ chức tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng, tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài... Cũng tương tự như hoạt động của bên môi giới, hoạt động của các
doanh nghiệp dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài cũng là một hoạt động
cung ứng dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận. Chính vì vậy, để sử dụng những dịch
vụ do doanh nghiệp cung cấp, NLĐ cũng phải chi trả khoản tiền phù hợp gọi là
20
tiền dịch vụ. Đây là khoản lợi nhuận trực tiếp mà doanh nghiệp nhận được, hoàn
toàn thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp, vì vậy mà pháp luật
không ghi nhận chế định quản lý và sử dụng tiền dịch vụ như quy định đối với
tiền môi giới.
NLĐ có thể đóng tiền dịch vụ cho doanh nghiệp trước khi xuất cảnh hoặc
trong thời gian thực hiện hợp đồng lao động tại nước ngoài. Nếu NLĐ đã hoàn
thành hợp đồng lao động và được NSDLĐ nước ngoài gia hạn hoặc ký mới hợp
đồng lao động thì NLĐ khơng phải tiếp tục chi trả tiền dịch vụ cho doanh nghiệp
đối với khoảng thời gian này. Trước đây đối với trường hợp này, Thông tư liên
tịch 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTBXH quy định NLĐ vẫn có trách nhiệm trả tiền
dịch vụ cho doanh nghiệp đối với khoảng thời gian được gia hạn hay ký mới hợp
đồng lao động. Tác giả cho rằng, quy định hiện nay hợp lý và tiến bộ hơn. Tuy
việc NLĐ được gia hạn hợp đồng hay ký hợp đồng mới phải dựa trên cơ sở của
hợp đồng lao động đầu tiên, nhưng để được ký mới hoặc gia hạn hợp đồng, NLĐ
đã phải làm việc nghiêm túc trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng lao động.
Quy định như hiện nay được coi là một phương thức khuyến khích NLĐ hồn
thành tốt hợp đồng lao động, đồng thời thu hút nhiều NLĐ tham gia vào hoạt
động đi làm việc ở nước ngồi, từ đó mà hiện thực hóa được những chỉ tiêu về
xuất khẩu lao động đã được đề ra.
Về mức đóng và phương thức đóng. Trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo tính
cơng khai, minh bạch, các quy định mức tiền dịch vụ cũng phải được ghi rõ trong
hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài giữa doanh nghiệp và NLĐ. Mức
tiền dịch vụ NLĐ đóng cho doanh nghiệp không quá 01 tháng tiền lương (hoặc
tiền trợ cấp tu nghiệp) theo hợp đồng cho một năm làm việc, riêng sỹ quan và
thuyền viên làm việc trên tàu vận tải biển không quá một tháng rưỡi tiền lương
theo hợp đồng cho một năm làm việc. Tuy nhiên, tổng mức tiền dịch vụ tối đa
không quá ba tháng lương theo hợp đồng/người/hợp đồng. Như vậy, căn cứ để
tính tiền dịch vụ bao gồm: (i) tiền lương tháng hoặc tiền trợ cấp tu nghiệp, (ii)
thời hạn hợp động lao động của NLĐ. Như vậy, cả hai cơ sở để tính tiền dịch vụ
21
đều hoàn toàn phụ thuộc vào hợp đồng lao động của NLĐ với NSDLĐ nước
ngồi mà khơng căn cứ vào chất lượng dịch vụ do doanh nghiệp dịch vụ cung
cấp. Về bản chất, tiền dịch vụ phải được chi trả dựa trên chất lượng của hoạt
động dịch vụ, dịch vụ càng tốt thì tiền dịch vụ nhận được càng cao. Cách quy
định về mức đóng tiền dịch vụ hiện nay vơ hình chung sẽ khơng khuyến khích
doanh nghiệp nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp.
Về hoàn trả tiền dịch vụ. Tương tự như quy định về hoàn trả tiền mơi giới,
NLĐ đi làm việc ở nước ngồi cũng được hoàn trả tiền dịch vụ nếu phải về nước
trước thời hạn vì lý do bất khả kháng hoặc khơng phải do lỗi của NLĐ. Mức chi
trả tiền dịch vụ cũng phụ thuộc vào thời gian (số tháng) thực tế NLĐ làm việc ở
nước ngồi. Tuy nhiên, cách tính số tiền hồn trả của tiền dịch vụ có những điểm
khác biệt so với cách tính tiền mơi giới, cụ thể: Doanh nghiệp sẽ hoàn trả lại tiền
dịch vụ tương ứng với thời gian mà NLĐ chưa được làm việc theo hợp đồng. Vì
vậy, dù NLĐ đã làm việc hơn 50% thời hạn hợp đồng vẫn có thể được hồn trả
tiền dịch vụ. Nếu NLĐ vi phạm dẫn đến việc phải về nước trước hạn hoặc tự ý bỏ
hợp đồng lao động và ở lại bất hợp pháp tại nước tiếp nhận lao động thì doanh
nghiệp được sử dụng tiền dịch vụ NLĐ đã đóng góp mà khơng có trách nhiệm
phải hồn trả.
Tiền ký quỹ
Chế định đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự được đặt ra khá sớm với hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Trong số các hình thức bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự được nêu ra tại Bộ luật dân sự 2005, biện pháp ký quỹ là
biện pháp được pháp luật lựa chọn nhằm đảm bảo thực hiện hoạt động đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngoài. Điều 360 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “ký quỹ là
việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ
có giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ”. Trên cơ sở đó, hoạt động ký quỹ của NLĐ được hiểu là hành vi NLĐ
gửi một khoản tiền vào khoản ký quỹ của doanh nghiệp mở tại ngân hàng. Khoản
ký quỹ này được sử dụng để đảm bảo thực hiện hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở