Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Các tội phạm về hối lộ trong bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

PHAN THỊ THỦY
MSSV: 1353801013212

CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2013 – 2017
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: Th.S. NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG
Giảng viên khoa Luật Hình sự
TP. HỒ CHÍ MINH - Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Các tội phạm về hối lộ trong Bộ luật Hình sự năm
2015” là cơng trình nghiên cứu được chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sỹ
Nguyễn Thị Ánh Hồng. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực,
nếu có sai phạm tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Sinh viên

Phan Thị Thủy

năm 2017



LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, ngồi sự nỗ lực của bản thân, tơi cịn nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô và bạn bè, nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
nhất tới Thạc sỹ Nguyễn Thị Ánh Hồng, người đã tận tình hướng dẫn tơi trong suốt q trình
làm khóa luận này. Ngồi ra, tơi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Trung tâm
thông tin - thư viện đã giúp đỡ tơi trong q trình tìm kiếm tài liệu nghiên cứu cần thiết và
toàn thể giảng viên trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp cho tôi kiến
thức trong những năm theo học tại trường để tơi có thể hồn thành tốt khóa luận này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Sinh viên

Phan Thị Thủy

năm 2017


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm


CPI

Chỉ số cảm nhận tham nhũng

EC

Ủy ban châu Âu

EU

Liên minh Châu Âu

LHQ

Liên Hợp quốc

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

PCTN

Phòng chống tham nhũng

TI


Tổ chức minh bạch quốc tế

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TPP

Hiệp định Đối tác xun Thái Bình Dương

UNCAC

Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

CHXHCN

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa


LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG VIẾT TẮT

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ ............................. 6
1.1. Khái niệm các tội phạm về hối lộ ................................................................................... 6
1.1.1. Định nghĩa các tội phạm về hối lộ ...................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm các tội phạm về hối lộ ......................................................................... 9
1.2. Dấu hiệu đặc trưng của các tội phạm về hối lộ ............................................................ 12
1.3. So sánh các tội phạm về hối lộ với một số tội phạm tham nhũng khác và với các hành
vi hối lộ trong Luật phòng chống tham nhũng .................................................................... 18
1.3.1. So sánh các tội phạm về hối lộ với một số tội phạm tham nhũng khác ............ 18
1.3.1.1. So sánh các tội phạm về hối lộ với Tội tham ô tài sản .................................. 18
1.3.1.2. So sánh các tội phạm về hối lộ với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ ............................................................................................................... 20
1.3.2. So sánh các tội phạm hối lộ với các hành vi hối lộ trong Luật phòng chống tham
nhũng ........................................................................................................................... 22
1.4. Quy định của pháp luật quốc tế và kinh nghiệm của một số quốc gia về các tội phạm
hối lộ .................................................................................................................................... 26
1.4.1. Quy định của pháp luật quốc tế về các tội phạm hối lộ .................................... 26
1.4.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về các tội phạm hối lộ ................................ 32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG, QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ CÁC TỘI PHẠM HỐI LỘ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 VỀ CÁC TỘI PHẠM HỐI LỘ......................................................................... 39
2.1. Thực trạng tình hình tội phạm về hối lộ tại Việt Nam hiện nay................................... 39
2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm hối lộ............................... 48
2.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS)48


2.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây
ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358) ................................................ 52
2.2.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội đưa hối lộ (Điều 364 BLHS)57

2.2.4. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội mơi giới hối lộ (Điều 365 BLHS
2015) ........................................................................................................................... 59
2.2.5. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người
có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366) ............................................................. 62
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm hối lộ... 65
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hối lộ hiện nay được xem là vấn đề mà tất cả các quốc gia quan tâm. Ở Việt
Nam, tình trạng hối lộ vẫn đang diễn ra hết sức phổ biến và khó lường. Pháp luật Hình
sự chính là cơng cụ hữu hiệu nhất để đối phó với loại tội phạm này. BLHS 2015 nước
ta đã có những quy định riêng về tội phạm hối lộ, những quy định này đã góp phần răn
đe, phòng ngừa cũng như trừng trị tội phạm hối lộ. Tuy nhiên, từ quy định của pháp
luật quốc tế mà cụ thể là Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam
là thành viên, Chương trình hành động chống tham nhũng do ADB và OECD soạn thảo
cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia
trên thế giới như Thụy Điển, Singapore, Ôt-xtrây-lia, Trung Quốc,… cho thấy quy định
của BLHS 2015 vẫn còn một số điểm bất ổn cần được sửa đổi để phù hợp với tình hình
đấu tranh phịng chống lại tội phạm hối lộ.
Đảng và Nhà nước ta cũng rất chú trọng đến việc đấu tranh phịng chống tham
nhũng nói chung và hối lộ nói riêng. Nhà nước Việt Nam đã thể hiện quyết tâm đối phó
với tội phạm này: ngày 10 tháng 12 năm 2003, kí Cơng ước chống tham nhũng của
Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã ban
hành Quyết định số 30/2006/QĐ-TTg về việc ban hành Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Luật phịng, chống tham nhũng. Ngày 6/12/2012, Chính phủ đã

ban hành Nghị Quyết số 82/NQ-CP Nghị quyết về chương trình hành động thực hiện
Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tham nhũng, lãng phí” giai đoạn 2012 – 2016… Tất cả đều cho thấy
được quyết tâm của Đảng và Nhà nước mong muốn đẩy lùi tội phạm tham nhũng nói
chung và hối lộ nói riêng.


2

Hối lộ hiện nay là một vấn đề “nóng”, nó đã và đang gây ra những hậu quả khôn
lường cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, về lâu
dài, ảnh hưởng đến chức năng quản lý Nhà nước, hối lộ làm hư hỏng đội ngũ cán bộ
cơng chức Nhà nước, làm méo mó hoạt động công quyền, bẻ cong pháp luật và chà đạp
lên công bằng xã hội. Không những thế, hối lộ làm cho cơ quan hành chính trở thành
nơi sách nhiễu người dân, làm tê liệt hoạt động của các chính quyền, biến chính quyền
thành nơi làm ăn trục lợi, hối lộ còn xâm phạm các giá trị xã hội, suy đồi giá trị đạo
đức con người, thất thoát ngân sách của nhà nước, mất niềm tin ở nhân dân vào chế
độ… Những hậu quả mà tội phạm hối lộ mang lại là khơng thể bàn cãi, do vậy, địi hỏi
cần có các giải pháp để phịng chống loại tội phạm này. Trong thời gian gần đây, các
hành vi hối lộ diễn ra với nhiều thủ đoạn khác nhau gây ra nhiều tác hại, đồng thời dẫn
đến việc thực hiện các loại tội phạm khác trong một bộ phận các cán bộ, cơng chức gây
sự bất bình và mất niềm tin của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thực tế đó yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải có những hành động kiên quyết và kịp
thời. Cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đòi hỏi phải loại bỏ triệt để tội phạm
nói chung và tội phạm về hối lộ nói riêng ra khỏi đời sống xã hội. Do đó, cần tìm ra các
vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật để kịp thời có những biện pháp
phù hợp đấu tranh với loại tội phạm này.
Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật quốc tế cũng như kinh nghiệm lập

pháp của một số quốc gia, đồng thời phân tích những quy định của BLHS 2015 về các
tội phạm hối lộ, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện BLHS 2015 về các tội
phạm hối lộ.
Đó cũng chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Các tội phạm về hối lộ trong Bộ
luật Hình sự năm 2015” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Có khá nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu khoa học về nhóm tội phạm này,
được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Một số đề tài điển hình về các tội phạm


3

này như: Đào Lệ Thu, Các tội phạm về hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam trong so
sánh với Luật Hình sự Thụy Điển và Australia, Luận án tiến sĩ năm 2011; Trịnh Tiến
Việt, Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ trong
luật Hình sự Việt Nam và Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng; Đinh Văn
Minh, Hối lộ và những sửa đổi cần thiết để chống hối lộ; Trần Hữu Tráng, Hoàn thiện
quy định về các tội nhận và đưa hối lộ; Đào Lệ Thu, Hoàn thiện quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam về các tội hối lộ; Triệu Là Pham, Hoàn thiện pháp luật về tội nhận
hối lộ trong Bộ luật hình sự; Đoàn Thị Thu Nga, Các tội phạm về hối lộ trong Luật
Hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận tốt nghiệp; Nguyễn
Xuân Yêm, Đoàn Kỉnh, Tội phạm hối lộ và một số biện pháp phòng ngừa xã hội; Trịnh
Tiến Việt, Tội đưa hối lộ trong Bộ luật Hình sự năm 1999; Đinh Văn Quế, Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, tập V, Các tội phạm về chức vụ,… Ngoài ra, cịn
có nhiều bài báo, bình luận khoa học BLHS, giáo trình, các tạp chí chun ngành như:
tạp chí luật học, tạp chí Nghề luật, tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp,…
Trong khóa luận này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu các quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015 về các tội phạm hối lộ, so sánh những điểm mới của Bộ luật hình sự
năm 2015 với Bộ luật hình sự năm 1999, rút ra một số kinh nghiệm và nêu một số kiến

nghị nhằm củng cố, hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
3.1.

Phạm vi nghiên cứu

Trong khóa luận này, tác giả tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề cụ thể sau đây:
-

Xác định những vấn đề lý luận về các tội phạm hối lộ, qua đó, xác định phạm vi

các tội phạm hối lộ bao gồm các tội: Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358), Tội lợi dụng ảnh


4

hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366), Tội đưa hối lộ
(Điều 364), Tội mơi giới hối lộ (Điều 365).
-

Phân tích các quy định của BLHS 2015 về các tội phạm hối lộ và thực tiễn áp

dụng các tội phạm này.
-

Đề xuất kiến nghị nhằm hồn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

các tội phạm hối lộ.

3.2.

Mục đích nghiên cứu

-

Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội phạm hối lộ.

-

Nghiên cứu các quy định của BLHS 2015 về các tội phạm hối lộ có so sánh, đối

chiếu với BLHS 1999.
-

Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

các tội phạm hối lộ.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.

Cơ sở lý luận

Để đạt được mục đích của đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm
của Đảng, Nhà nước về pháp luật phải phù hợp với cuộc sống, không bỏ lọt tội phạm.
4.2.

Phƣơng pháp nghiên cứu


Trong quá trình thực hiện đề tài “Các tội phạm về hối lộ trong Bộ luật Hình sự
năm 2015”, để chuyển tải các nội dung của đề tài và đạt được mục đích nghiên cứu, tác
giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp luận, phương pháp
duy vật lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của khóa luận
Đây là đề tài nghiên cứu về “Các tội phạm hối lộ trong Bộ luật Hình sự năm
2015” nên đề tài đã cố gắng tập trung giải quyết các vấn đề sau:


5

-

Phân tích những quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội phạm về hối

-

Phân tích những điểm mới của BLHS 2015 so với BLHS năm 1999.

-

Đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình

lộ.

sự Việt Nam về các tội phạm hối lộ.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1.


Ý nghĩa lý luận

Để pháp luật hình sự thực hiện tốt vai trò đấu tranh phòng, chống tội phạm phải
kể đến nhiều yếu tố, trong đó một trong những yếu tố quan trọng nhất là việc đánh giá
đúng đắn, chính xác hành vi nguy hiểm cho xã hội và bảo đảm thường xuyên theo dõi,
bổ sung, sửa đổi kịp thời những quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội để từng
bước hoàn thiện về pháp luật về phịng chống tội phạm. Trong khóa luận này, tác giả
đưa ra quan điểm lý luận mới so với những quan điểm truyền thống về các tội phạm
hối lộ, mở rộng phạm vi các Tội phạm về hối lộ gồm 5 tội so với trước đây là 3 tội.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Ngồi mục đích đưa ra những đóng góp, kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện
pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về hối lộ, khóa luận này cũng có thể là tài
liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Lý luận chung về các tội phạm hối lộ
Chƣơng 2. Thực trạng, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
phạm hối lộ và kiến nghị hoàn thiện quy định của BLHS 2015 về các tội phạm hối
lộ


6

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ
1.1. Khái niệm các tội phạm về hối lộ
1.1.1. Định nghĩa các tội phạm về hối lộ

Hối lộ có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể là một hành vi
phạm tội, một hành vi tiêu cực trong xã hội hoặc thậm chí là một loại hành vi tham
nhũng… Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam vẫn chưa có một cách hiểu
thống nhất về hối lộ. Việc đưa ra một khái niệm chung về hối lộ khơng những có ý
nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa quan trọng về mặt thực tiễn, nó giúp ta hiểu rõ
bản chất, tiếp cận vấn đề, từ đó có những biện pháp để đấu tranh với loại tội phạm này.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về hối lộ. Theo Đại từ điển Tiếng Việt,
“hối lộ” là hành vi lén lút đưa tiền của để nhờ người có quyền làm điều trái với pháp
luật nhưng có lợi cho mình...1. Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2004, do Hoàng Phê chủ
biên, “hối lộ” là việc đưa tiền của cho người có quyền hành để làm việc gì đó có lợi
cho mình, bằng hành vi lạm dụng chức vụ hoặc làm sai pháp luật2. Theo từ điển pháp
luật của Henry Campbell Black (được sử dụng rộng rãi tại Mỹ) là các hành vi “đề
nghị” (offering), “đưa” (giving), “nhận” (receiving) hoặc “gạ gẫm” (soliciting) bất kỳ
một dạng giá trị (any item of value) làm ảnh hưởng đến hành vi của một cơng chức hay
người nào đó thực hiện công vụ hoặc chức vụ pháp lý3; hay hối lộ “là hình thức tham
nhũng thể hiện bằng cách một người đưa tiền để thuyết phục một công chức Nhà nước
chấp thuận để làm hoặc không làm một việc có lợi cho mình”;…4
Hối lộ cũng có thể được nhìn nhận từ nhiều nhiều góc độ khác nhau:

1

Nguyễn Như (chủ biên) (2013), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh, tái bản, trang 365.
2
Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà N ng, Đà N ng, trang 459.
3
Bryan A. Garner (Chủ biên), Black’s Law Dictionary (Từ điển pháp luật của Black), tái bản lần 9, bản quyền
thuộc West Group, Hoa Kỳ, Blacklawdictionaryonline.com.
4
Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Huy Hoàng (Chủ biên), Pháp luật phòng chống tham nhũng của các nước trên thế

giới, Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003, trang 71.


7

Từ góc độ xã hội, “hối lộ” là hành vi thông qua các quan hệ xã hội để tiếp cận
người có quyền lực để đưa tiền, q hoặc lợi ích vật chất khác theo yêu cầu hoặc hành
vi tự nguyện của người đưa nhằm thay đổi thái độ của người nhận để làm một hoặc
nhiều việc có lợi cho người đưa. Hối lộ có thể được xem là một hình thức biến tướng
của việc đền đáp, trả ơn. Như vậy, hối lộ có thể được xem là hiện tượng xã hội tiêu
cực, là sự lạm dụng những truyền thống tốt đẹp của xã hội loài người, như truyền thống
tặng quà, truyền thống tạ ơn, đền đáp ân nghĩa. Hối lộ làm biến dạng các hành vi xử sự
của con người, bóp méo các quan hệ tốt đẹp trong cách cư xử, ứng xử.
Tương tự, từ góc độ chính trị, “hối lộ” được coi là một trong những bổng lộc
của quyền lực, được thực hiện bởi những người nắm quyền5. Hiện tượng hối lộ làm
mất niềm tin của công chúng đối với hệ thống chính trị. Chính vì vậy mà pháp luật
hình sự là cơng cụ hữu hiệu để đối phó với tội phạm hối lộ.
Cịn dưới góc độ hành chính - nhà nước, “hối lộ” là một loại tham nhũng, xảy ra
nhiều ở nơi thiếu minh bạch về cơ chế, thông tin; làm cho bộ máy nhà nước trở nên trì
trệ và quan liêu; hủy hoại đạo đức của những người thực thi chức trách, làm mất lòng
tin của người dân vào bộ máy Nhà nước...6. Ở góc độ này, hối lộ được các học giả cũng
như hầu hết các quốc gia nhận thức chung là một loại hành vi tham nhũng. Hiện tượng
này đang có xu hướng xảy ra nhiều tại những nơi thiếu sự minh bạch và thiếu sự tôn
trọng các quy tắc đạo đức, đồng thời tác động trở lại làm cho bộ máy nhà nước trở nên
trì trệ, thối nát và quan liêu. Đặc biệt, hối lộ cũng hủy hoại đạo đức và trách nhiệm của
những người thực thi chức trách, làm mất lòng tin của cơng chúng vào hoạt động cơng
vụ...7 Ngồi ra, cịn có nhiều quan điểm khác về hối lộ như:

5


Báo Người Lao động (13/11/2013), Tham nhũng vặt tràn lan, Hà Nội, trang 36.
Đào Lệ Thu, Các tội phạm về hối lộ trong luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với luật hình sự Thụy Điển và
Australia, Luận án tiến sĩ, Hà Nội, năm 2011, trang 27.
7
Đào Lệ Thu, Các tội phạm về hối lộ trong luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với luật hình sự Thụy Điển và
Australia, Luận án tiến sĩ, Hà Nội, năm 2011, trang 18, 19.
6


8

Theo TS. Đào Lệ Thu thì : “Các tội phạm về hối lộ là những hành vi đưa hoặc
mời nhận; nhận hoặc đòi hỏi; hoặc tạo điều kiện cho việc đưa, nhận lợi ích dưới bất kì
hình thức nào cho hoặc/và bởi người có chức vụ, quyền hạn để gây ảnh hưởng nhất
định đến hoạt động thực thi chức trách của người có chức vụ, quyền hạn một cách cố ý
và trái pháp luật hình sự”8.
Hối lộ về bản chất là sự mua bán quyền lực, một hành vi vi phạm pháp luật và
đạo đức, nhất là về phía người nhận hối lộ. Người nhận hối lộ dứt khoát phải là người
nắm giữ quyền lực và đã “bán” quyền lực đó để thu lợi bất chính cho mình9.
Cho dù được nhìn nhận dưới nhiều góc độ và có nhiều quan điểm khác nhau
nhưng tựu chung lại hối lộ vẫn mang bản chất tiêu cực, là một hiện tượng xấu, mang lại
nhiều hậu quả xấu cho xã hội và cần có nhiều biện pháp để phịng chống với tội phạm
này.
Tóm lại, trên cơ sở tham khảo những nghiên cứu khác nhau về tội phạm hối lộ,
cũng như xem xét quy các định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, tham khảo Công
ước quốc tế của Liên Hiệp quốc về chống tham nhũng, theo tác giả khái niệm đang
nghiên cứu được định nghĩa như sau: “Các tội phạm về hối lộ là những hành vi đưa,
nhận hoặc trung gian tạo điều kiện cho việc đưa, nhận, địi hỏi lợi ích dưới bất kì hình
thức nào một cách cố ý và trái pháp luật hình sự, nhằm mục đích tác động để gây ảnh
hưởng nhất định đến hoạt động thực thi chức trách, nhiệm vụ của người có chức vụ,

quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ
được giao theo hướng có lợi cho các chủ thể tham gia”.
Như vậy, từ định nghĩa trên, có thể thấy rằng, mục đích của các tội phạm hối lộ
là nhằm gây ảnh hưởng đến người có chức vụ, quyền hạn, ảnh hưởng này có thể là ảnh
hưởng trực tiếp, cũng có thể là ảnh hưởng gián tiếp. Hoạt động thực thi chức trách của
8

Đào Lệ Thu, Các tội phạm về hối lộ trong luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với luật hình sự Thụy Điển và
Australia, Luận án tiến sĩ, Hà Nội, năm 2011, trang 26.
9
Đinh Văn Minh, “Hối lộ và những sửa đổi pháp luật cần thiết để chống hối lộ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
15/2012, trang 38.


9

những người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp bị tác động do chính hành vi nhận lợi ích
của họ từ người đưa hối lộ, cũng có thể bị ảnh hưởng một cách gián tiếp do hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn nhưng khơng có thẩm quyền giải quyết vụ việc hoặc do
người khơng có chức vụ, quyền hạn có hành vi nhận lợi ích từ người đưa hối lộ nhưng
tác động lên người có thẩm quyền giải quyết. Dù trực tiếp hay gián tiếp thì hoạt động
thực thi chức trách của người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền trong việc giải
quyết yêu cầu của người đưa hối lộ cũng bị ảnh hưởng, những hành vi như trên được
pháp luật hình sự đánh giá là trái pháp luật hình sự và cần được loại bỏ ra khỏi xã hội.
1.1.2. Đặc điểm các tội phạm về hối lộ
Từ định nghĩa trên, có thể thấy rằng các tội phạm về hối lộ là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật Hình sự. Hối lộ đã và đang mang lại nhiều hậu quả
khôn lường cho xã hội. Xác định được các đặc điểm của các tội phạm để góp phần
nhận diện đúng đắn hơn về loại tội phạm này, góp phần vào cơng cuộc đấu tranh phòng
chống các tội phạm về hối lộ. Các tội phạm về hối lộ có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, các tội phạm về hối lộ là những tội phạm đặc trưng cho các tội phạm
về tham nhũng. Hành vi của các chủ thể suy cho cùng cũng là để tác động lên hoạt
động thực thi chức trách của những người có chức vụ, quyền hạn. Chủ thể có chức vụ,
quyền hạn làm biến dạng xử sự của mình thông qua hành vi trực tiếp nhận của hối lộ
hay hành vi của họ cũng gián tiếp bị tác động bởi sự ảnh hưởng từ những chủ thể khác.
Người có chức vụ, quyền hạn hay khơng có chức vụ, quyền hạn đều trở thành chủ thể
nhận lợi ích từ người đưa hối lộ và đều có thể dùng ảnh hưởng của mình tác động lên
hoạt động của người có thẩm quyền. Các chủ thể tham gia trong quan hệ trên đều mong
muốn nhận được lợi ích, người nhận mong muốn có được lợi ích nào đó từ việc nhận
của hối lộ, cịn người đưa mong muốn người có chức vụ, quyền hạn làm một việc trái
pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn. Tóm lại, chủ thể của tội phạm hối lộ có
liên quan đến chức vụ, quyền hạn của người có thẩm quyền giải quyết yêu cầu theo lợi
ích của người đưa hối lộ.


10

Thứ hai, hành vi hối lộ có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên xử sự của
những người có chức vụ, quyền hạn. Loại tội phạm này bao gồm nhiều hành vi khác
nhau. Người nhận hối lộ có thể là người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền trong
việc giải quyết các yêu cầu của người đưa hối lộ, do vậy, trong trường hợp này, hoạt
động của người có chức vụ, quyền hạn bị tác động một cách trực tiếp, gây ảnh hưởng
nhất định đến hoạt động của họ. Trường hợp người nhận hối lộ là người có chức vụ,
quyền hạn nhưng khơng có thẩm quyền trong việc giải quyết yêu cầu theo lợi ích của
người đưa nhưng người này đã dùng ảnh hưởng, quan hệ của mình đối với người có
thẩm quyền giải quyết để người này làm theo yêu cầu của người đưa thì trường hợp
này, hành vi của những những người có chức vụ, quyền hạn đã bị tác động một cách
gián tiếp gây ảnh hưởng đến hoạt động thực thi công vụ của người có chức vụ, quyền
hạn. Đối với trường hợp gây tác động gián tiếp lên hoạt động thực thi chức trách của
những người có chức vụ, quyền hạn thì cịn có trường hợp chủ thể nhận lợi ích từ

người đưa khơng phải là người có chức vụ, quyền hạn nhưng người này có ảnh hưởng
nhất định đối với người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của
người đưa lợi ích và đã lợi dụng ảnh hưởng này tác động lên xử sự của những người có
chức vụ, quyền hạn. Có thể thấy, người nhận lợi ích từ người đưa hối lộ có thể là người
có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền giải quyết, cũng có thể là người có chức vụ,
quyền hạn nhưng khơng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ hoặc
người khơng có chức vụ, quyền hạn, nhưng những hành vi này đều tác động lên hoạt
động thực thi chức trách của những người có chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ được
giao theo hướng có lợi cho người đưa hối lộ. Và các hành vi này có thể được trực tiếp
hoặc có thể qua trung gian để tạo điều kiện cho việc đưa và nhận hối lộ. Chính vì vậy,
phạm vi của các tội phạm hối lộ với những hành vi trên bao gồm các tội: Tội nhận hối
lộ (Điều 354), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi (Điều 358), Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để
trục lợi (Điều 366), Tội đưa hối lộ (Điều 364) và Tội môi giới hối lộ (Điều 365).


11

Thứ ba, định nghĩa trên đã bao hàm cả hành vi hối lộ trong lĩnh vực công và hối
lộ trong lĩnh vực tư. Phạm vi nơi xảy ra các tội phạm về hối lộ không chỉ giới hạn trong
lĩnh vực cơng như trước đây mà cịn mở rộng ra cả lĩnh vực tư, và được giới hạn trong
phạm vi các hoạt động kinh tế, tài chính, kinh doanh, thương mại. Hiện nay, các quan
hệ xã hội tư đang ngày càng phát triển và các cơ quan, tổ chức thuộc lĩnh vực tư đang
là nguồn động lực cho sự phát triển của đất nước, các hành vi hối lộ trong lĩnh vực tư
diễn ra ngày càng phổ biến và đe dọa sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức, doanh
nghiệp, do vậy mà BLHS 2015 nước ta đã có quy định về các tội phạm hối lộ trong
lĩnh vực tư, cụ thể trong 3 tội danh: Tội nhận hối lộ, Tội đưa hối lộ và Tội môi giới hối
lộ. Phạm vi nơi xảy ra 3 tội này có thể là lĩnh vực cơng, cũng có thể là lĩnh vực tư, xảy
ra tại các cơ quan, tổ chức thuộc lĩnh vực tư nhân. Riêng đối với Tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi và Tội lợi dụng ảnh hưởng đối

với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì phạm vi nơi xảy ra chỉ là trong lĩnh vực
công, tại các cơ quan công quyền, các tổ chức nhà nước. Định nghĩa trên về tội phạm
hối lộ đã thể hiện được phạm vi nơi xảy ra tội phạm về hối lộ cả ở lĩnh vực công và
lĩnh vực tư.
Thứ tư, tội phạm hối lộ có khả năng liên quan đến nhiều tội phạm khác. Người
đưa hối lộ đưa lợi ích nhằm tác động lên xử sự của người có chức vụ, quyền hạn, thơng
qua đó, người có chức vụ, quyền hạn làm hay khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo
yêu cầu của người đưa hối lộ. Việc làm hay khơng làm một việc này của người có chức
vụ, quyền hạn có thể cấu thành tội phạm khác nếu như có đủ các yếu tố cấu thành tội
đó. Chẳng hạn như việc Thẩm phán nhận tiền từ người thân bị cáo để người này được
hưởng án treo, thẩm phán trong quá trình xét xử đã tuyên người này hưởng án treo theo
yêu cầu của người đưa mặc dù hành vi của bị cáo là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi này của thẩm phán cấu thành thêm một tội khác là Tội ra bản án trái pháp luật.
Nếu người đưa hối lộ có hành vi thúc đẩy thẩm phán thực hiện hành vi trên thì khơng
những người này bị truy cứu TNHS về Tội đưa hối lộ mà còn bị truy cứu thêm về Tội


12

ra bản án trái pháp luật với vai trò là đồng phạm. Như vậy, có thể thấy rằng, tội phạm
hối lộ có sự liên quan đến nhiều tội phạm khác.
Thứ năm, các tội phạm về hối lộ là những tội phạm có độ ẩn cao. Đây là loại tội
phạm khơng có nạn nhân cụ thể. Trong mối quan hệ này, cả người nhận và người đưa
hối lộ đều được lợi, người nhận mong muốn nhận được lợi ích, cịn người đưa đổi lại
từ việc đưa lợi ích chính là việc được người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc khơng
làm một việc có lợi cho họ. Hơn nữa, tội phạm về hối lộ có độ ẩn cao là do thủ đoạn
thực hiện các hành vi này ngày càng tinh vi, xảo quyệt được thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau. Nhiều vụ án có sự tiếp tay của nhiều cán bộ gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử. Tâm lý muốn giải quyết nhanh gọn vụ việc, không muốn phiền
hà đã thành thông lệ cũng như việc ngại tố cáo sợ rắc rối, ảnh hưởng đến bản thân cũng

khiến cho độ ẩn của tội phạm này này càng gia tăng. Những hành vi hối lộ trên thực tế
vẫn xảy ra rất phổ biến nhưng số vụ án bị phát hiện vẫn chưa phản ánh được tính nguy
hiểm cũng như chưa nói lên được tình hình hối lộ đang phổ biến hiện nay.
1.2. Dấu hiệu đặc trƣng của các tội phạm về hối lộ
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm
hại của tội phạm10. Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính
chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm tội
phạm11. Khách thể của các loại tội phạm về hối lộ là những quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ, bảo đảm cho hoạt động đúng đắn và uy tín của các cơ quan, tổ
chức. Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức năng,
nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm thực hiện
chức năng và mục đích đã đề ra, là việc tuân thủ đúng các quy định của Hiến pháp và
10

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb. Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2012, trang 104.
11
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb. Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2012, trang 104.


13

pháp luật, phù hợp với lợi ích chung của tồn xã hội. Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định:
“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận
tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám
sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Chính vì thế mà trong các cơ quan, tổ chức, nếu có
những hành vi lợi dụng chức vụ, nhiệm vụ để trục lợi làm trái với các quy định của

pháp luật thì sẽ ảnh hưởng đến cả cơ quan, tổ chức và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng
đến cả bộ máy nhà nước. Hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức chỉ có thể được
bảo đảm bằng việc duy trì sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội nhất định.
Sự phát triển bình thường của các quan hệ này bảo đảm cho nhiệm vụ của các cơ quan,
tổ chức được thực hiện một cách đồng bộ, có hiệu quả và hợp pháp. Chính vì vậy mà
Luật Hình sự Việt Nam đã ghi nhận việc bảo vệ các quan hệ xã hội này, đó chính là
việc quy định các tội phạm về hối lộ gây ra bởi những chủ thể có liên quan đến chức
vụ, quyền hạn. Đối tượng tác động của các tội phạm về hối lộ chính là “của hối lộ”.
Của hối lộ có thể là những lợi ích vật chất như tiền bạc, tài sản,… cũng có thể là những
lợi ích tinh thần như quan hệ tình cảm, địa vị xã hội,… Các hành vi hối lộ khi tác động
vào của hối lộ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, đó
chính là các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm hối
lộ.
Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan của các tội phạm về hối lộ là các hành vi nhận, đưa hoặc
trung gian tạo điều kiện cho việc đưa nhận hối lộ.
Các hành vi đưa hối lộ là hành vi của người đưa trực tiếp hoặc qua trung gian
tạo điều kiện cho việc đưa nhằm tác động đến xử sự của những người có chức vụ,
quyền hạn để người đó làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu hoặc vì lợi ích của
người đưa hối lộ. Người đưa trực tiếp hoặc qua trung gian đưa cho người có chức vụ,
quyền hạn có thẩm quyền giải quyết, cũng có thể đưa cho người khác là người có chức


14

vụ, quyền hạn hoặc khơng có chức vụ, quyền hạn nhưng có ảnh hưởng và khả năng tác
động tới hoạt động thực thi chức trách của người có thẩm quyền giải quyết. Hành vi
này được quy định cụ thể tại Điều 364. Tội đưa hối lộ.
Hành vi nhận của hối lộ có thể được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
qua trung gian. Người nhận lợi ích có thể là những người có thẩm quyền trực tiếp trong

việc giải quyết yêu cầu của người đưa (Điều 354. Tội nhận hối lộ) hoặc cũng có thể là
người có chức vụ, quyền hạn nhưng khơng có thẩm quyền trực tiếp giải quyết yêu cầu
của người đưa hối lộ (Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối
với người khác để trục lợi), hoặc người nhận cũng có thể là người khơng có chức vụ,
quyền hạn nhưng có ảnh hưởng đến người có thẩm quyền trực tiếp giải quyết yêu cầu
từ người đưa (Điều 366. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn
để trục lợi).
Hành vi trung gian tạo điều kiện cho việc nhận và đưa hối lộ. Hành vi đưa và
nhận có thể thể được thực hiện qua người mơi giới tạo điều kiện cho việc hối lộ diễn ra
nhanh chóng và hỗ trợ cho các bên đạt được mục đích mong muốn. Hành vi này được
quy định tại Điều 365. Tội môi giới hối lộ.
- Hậu quả
Hậu quả của các tội phạm hối lộ là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho
xã hội. Thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể định lượng được. Đó chính là sự hao hụt
về tiền bạc, ngân sách nhà nước, cơ quan, tổ chức, tài sản của nhân dân. Ví dụ, trường
hợp các nhân viên hải quan nhận hối lộ để kẻ bn lậu đưa hàng hóa qua biên giới mà
không phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế xuất – nhập khẩu làm ngân sách Nhà nước bị
thất thu. Thiệt hại về tinh thần có thể kể đến như hối lộ đã và đang gây ra những hậu
quả khôn lường cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, về lâu dài, ảnh hưởng đến chức năng quản lý Nhà nước, hối lộ làm hư hỏng đội
ngũ cán bộ công chức Nhà nước, mất niềm tin ở nhân dân vào chế độ…


15

Các tội phạm về hối lộ là các tội phạm có cấu thành hình thức, do vậy mà hậu
quả đối với các hành vi này là không bắt buộc. Bởi các tội phạm về hối lộ xâm phạm
đến khách thể là hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Vấn đề này trên thực tế
rất khó chứng minh, do vậy mà các hậu quả đối với các hành vi hối lộ là không bắt
buộc, nghĩa là chỉ cần thực hiện các hành vi như trên thì cũng có thể bị truy cứu TNHS

về các tội hối lộ. Chính vì vậy mà việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
nguy hiểm và hậu quả không bắt buộc đối với nhóm tội phạm về hối lộ.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm về hối lộ được thực hiện với lỗi cố ý.
Động cơ của các tội phạm về hối lộ chính là động cơ vụ lợi. Động cơ vụ lợi
được hiểu là ham muốn thu lợi bất chính bằng mọi cách và dưới bất kỳ dạng lợi ích vật
chất nào. Ngồi ra thì động cơ cịn có thể là động cơ cá nhân. Thực tiễn truy cứu TNHS
cho thấy động cơ cá nhân thường được hiểu là nhận hoặc ham muốn nhận những lợi
ích phi vật chất như thăng chức, giữ trọng trách, vì thành tích của cơ quan, tổ chức mà
người phạm tội đang công tác,…12. Người thực hiện hành vi hối lộ đặt lợi ích của bản
thân, lợi ích của người mà mình quan tâm như bạn bè, người thân… lên trên lợi ích của
cơ quan, tổ chức, lợi ích của cộng đồng, vì lợi ích trước mắt mà không quan tâm đến
hậu quả khôn lường của các hành vi hối lộ gây ra. Đó chính là động lực thúc đẩy họ
thực hiện hành vi phạm tội mặc dù biết đó là hành vi trái pháp luật làm xâm phạm đến
hoạt động của các cơ quan, tổ chức.
Mục đích của các tội phạm hối lộ là đạt được những lợi ích nhất định, có thể là
lợi ích vật chất như tài sản, tiền của,… cũng có thể là lợi ích phi vật chất như quan hệ
tình cảm, địa vị xã hội…
Chủ thể của tội phạm

12

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb. Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2012, trang 220.


16

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi nhất
định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể13. Tội nhận hối lộ và Tội lợi dụng chức

vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi đòi hỏi chủ thể phải là chủ
thể đặc biệt, tức ngoài các điều kiện như trên thì cịn phải thỏa mãn điều kiện là người
có chức vụ, quyền hạn. Theo khoản 2 Điều 352 BLHS 2015 thì: “Người có chức vụ là
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ”. Bên cạnh BLHS 2015 thì
Luật phịng chống tham nhũng 2005 cũng đã liệt kê ra những trường hợp người có
chức vụ, quyền hạn, cụ thể, tại khoản 3 Điều 1 Luật này quy định:
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ có quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó.
Người có chức vụ, quyền hạn trong Luật hình sự có những đặc điểm như sau:
 Người có chức vụ, quyền hạn được các cơ quan, tổ chức giao thực hiện một
công vụ, nhiệm vụ và công vụ, nhiệm vụ được giao phải thể hiện được tính chất, chức
năng của người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Chức vụ, quyền hạn đó có thể được
xác lập hình thức bầu cử, do hợp đồng hoặc một hình thức khác. Tuy nhiên, cơng vụ,
nhiệm vụ được giao phải chính thức và đúng thẩm quyền. Họ có thể được hưởng lương
13

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb. Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2012, trang 130.


17


hoặc không hưởng lương từ nhiệm vụ được giao. Việc giao nhiệm vụ cho người có
chức vụ, quyền hạn phải xác định thời gian có thể là thường xuyên hoặc tạm thời vì
việc thực hiện tội phạm hối lộ có liên hệ về mặt thời gian với các hoạt động của người
đó14.
 Người có chức vụ, quyền hạn phải có quyền hạn nhất định trong khi thi hành
công vụ, nhiệm vụ, nghĩa là người có chức vụ, quyền hạn có quyền giải quyết hoặc
tham gia vào việc giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, có quyền đưa ra các quyết
định ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác.
 Người có chức vụ, quyền hạn chỉ có thể trở thành chủ thể của các tội hối lộ khi
hành vi phạm tội của họ được thực hiện trong khi thi hành cơng vụ, nhiệm vụ, nếu thực
hiện ngồi phạm vi thi hành cơng vụ, nhiệm vụ thì khơng phạm các tội này15.
Tuy nhiên, đối với Tội nhận hối lộ, chủ thể cịn có thể là những người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức thuộc lĩnh vực tư. Do vậy, một người được
giao một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong việc thực hiện nhiệm vụ
đó cũng có thể trở thành chủ thể của Tội nhận hối lộ. Còn Tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi thì địi hỏi người có chức vụ, quyền
hạn phải là người trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước.
Các Tội đưa hối lộ, Tội môi giới hối lộ và Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người
có chức vụ, quyền hạn để trục lợi khơng địi hỏi chủ thể phải là người có chức vụ,
quyền hạn, chỉ cần thỏa điều kiện về năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS, người phạm
tội đã có những hành vi tác động lên hoạt động của những người có chức vụ, quyền
hạn nhằm xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức nên được quy định
trong chương các tội phạm về chức vụ. Tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ, phạm vi nơi
xảy ra hai tội phạm này có thể là trong lĩnh vực cơng hoặc lĩnh vực tư. Riêng đối với
14

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Quyển 2, Nxb.
Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013, trang 221.
15

Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học phần các tội phạm, tập V, Các tội phạm về chức vụ, Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, năm 2004, trang 29.


18

Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì phạm vi
của tội phạm này chỉ xảy ra trong lĩnh vực công.
1.3. So sánh các tội phạm về hối lộ với một số tội phạm tham nhũng khác và với
các hành vi hối lộ trong Luật phòng chống tham nhũng
1.3.1. So sánh các tội phạm về hối lộ với một số tội phạm tham nhũng khác
1.3.1.1. So sánh các tội phạm về hối lộ với Tội tham ô tài sản
- Chủ thể của tội phạm
Đối với Tội tham ô tài sản, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các
dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội. Sự khác nhau giữa Tội tham ô
tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt cũng chính là sự khác nhau về
các dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm. Tội tham ơ tài sản có chủ thể giống với Tội
nhận hối lộ đó là người phạm tội phải là người có chức vụ, quyền hạn. Đặc biệt, hai tội
này đều mới bổ sung thêm loại chủ thể mới đó là người có chức vụ, quyền hạn trong
các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước tại BLHS 2015. Bên cạnh đó, Tội đưa hối
lộ và Tội môi giới hối lộ tuy không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất
thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn nhưng nếu đưa hối lộ hoặc mơi giới hối lộ
cho người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì
cũng phạm tội. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi tuy nằm chung trong mục các tội phạm tham nhũng với Tội nhận hối lộ và Tội
tham ô tài sản nhưng BLHS 2015 chưa nội luật hóa đối với tội này về chủ thể trong
lĩnh vực tư.
- Khách thể của tội phạm
Tội tham ô tài sản cũng như các tội phạm về hối lộ xâm phạm hoạt động đúng
đắn của bộ máy nhà nước và các tổ chức khu vực ngoài nhà nước, gây ảnh hưởng đến

uy tín và hiệu quả của hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động của các cơ quan tổ
chức. Tuy nhiên, khách thể của Tội tham ơ tài sản cịn xâm phạm trực tiếp đến quan hệ
sở hữu, quản lý tài sản. Tội phạm tham ô khác với các tội phạm về hối lộ ở điểm người


19

phạm tội trực tiếp chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức còn tội phạm về hối lộ nhận
lợi ích từ các chủ thể khác.
- Mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi
Người phạm tội tham ô tài sản phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để chiếm đoạt tài sản là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi chiếm
đoạt tài sản đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ khơng có
chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc chiếm đoạt tài sản; chức vụ,
quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản
một cách dễ dàng. Như vậy hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn này cũng giống với
các hành vi nhận hối lộ và hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với
người khác để trục lợi. Tuy nhiên, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng
đối với người khác để trục lợi người phạm tội không trực tiếp làm, không làm một việc
nào đó thuộc trách nhiệm của mình mà thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn khác
thực hiện. Người phạm tội trục lợi từ một hành vi của người khác chứ không trực tiếp
như Tội tham ô tài sản và Tội nhận hối lộ.
Về hành vi chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý ở Tội tham ơ là
hành vi người phạm tội đã lợi dụng trách nhiệm quản lý tài sản được giao để chiếm
đoạt tài sản. Đối với các tội phạm về hối lộ thì lợi ích mà họ nhận được là lợi ích từ chủ
thể khác để làm hoặc khơng làm một việc nào đó. Những lợi ích này khơng nhất thiết
phải do người phạm tội nắm giữ, quản lý trước khi pham tội.
Một điểm khác biệt nữa đáng chú ý là lợi ích nhận được. Với Tội tham ơ tài sản,

lợi ích là tài sản mà đã chiếm đoạt được trong khi đối với các tội phạm về hối lộ là bất
kỳ lợi ích nào cả vật chất lẫn phi vật chất.
b. Hậu quả


×