Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Tài liệu KINH TẾ QUỐC TẾ - TOÀN CẦU HOÁ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.07 KB, 64 trang )

Toàn cầu hoá là gì? 15/12/2005 - 12:04 AM
Toàn cầu hoá là một hiện tượng không thể tránh khỏi trong lịch sử loài người. Toàn cầu hoá đem
thế giới lại gần hơn thông qua việc trao đổi hàng hoá và các sản phẩm, thông tin, kiến thức và
văn hóa.
Nhưng trong suốt vài thập kỷ qua, tốc độ hội nhập toàn cầu đã trở nên nhanh và sâu sắc hơn rất
nhiều do có những tiến bộ chưa từng thấy trong công nghệ, truyền thông, khoa học, giao thông
vận tải và công nghiệp.
Trong khi toàn cầu hoá là một chất xúc tác cho và cũng là hệ quả của tiến bộ loài người, nó cũng
là một quá trình hỗn độn cần có sự điều chỉnh, và nó cũng tạo ra những thách thức và các vấn đề
lớn.
Lịch sử của toàn cầu hoá
Làn sóng toàn cầu hoá gần đây nhất bắt đầu năm 1980 đã bùng nổ do sự kết hợp của những tiến
bộ trong ngành giao thông vận tải và công nghệ truyền thông, và do các nước đang phát triển lớn
tìm kiếm đầu tư nước ngoài bằng cách mở cửa tham gia vào thương mại quốc tế.
Đây là làn sóng toàn cầu hoá thứ 3 trở lại từ năm 1870.
Làn sóng thứ nhất kéo dài từ năm 1870 đến đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Làn sóng này
được khuấy động bởi những thành tựu đạt được trong giao thông vận tải và việc giảm những
hàng rào thương mại. Thu nhập từ hoạt động xuất khẩu của thế giới đã gấp đôi lên 8% khi
thương mại thế giới bùng nổ.
Toàn cầu hoá cũng dẫn đến sự di cư hàng loạt do mọi người muốn tìm kiếm những công việc tốt
hơn. Khoảng 10% dân số thế giới di cư sang các nước mới. 60 triệu người di cư từ Châu Âu sang
Bắc Mỹ và các khu vực khác của Thế Giới Mới. Điều tương tự cũng xảy ra ở những nước đông
dân cư như Trung Quốc và Ấn Độ. Những người ở các nước này di cư đến những nước ít dân cư
hơn như Sri Lanka, Burma, Thái Lan, Philíppin và Việt Nam.
Kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất đã mở ra một kỷ nguyên của chế độ bảo hộ. Hàng rào
thương mại như thuế quan lại được dựng lên. Tăng trưởng kinh tế thế giới chững lại và xuất khẩu
với tư cách là một phần của thu nhập thế giới đã giảm bằng mức của năm 1870.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ 2, làn sóng thứ 2 của toàn cầu hoá nổi lên, kéo dài từ khoảng
năm 1950 tới 1980. Làn sóng lần này tập trung vào sự hội nhập giữa các nước phát triển như
Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Những nước này đã lập lại các mối quan hệ thương mại qua một
loạt việc nới lỏng thương mại đa phương.


Giai đoạn này đã chứng kiến sự trỗi dậy của các nền kinh tế của các nước trong Tổ chức Hợp tác
và Phát triển, những nước này đã tham gia vào sự bùng nổ thương mại. Tuy nhiên, các nước
đang phát triển phần lớn vẫn bị cô lập khỏi làn sóng hội nhập này, không thể tham gia vào giao
thương ngoài trừ việc xuất khẩu những hàng hoá thô.
Tại sao tôi nên quan tâm?
Toàn cầu hoá đã gây ra một trong những cuộc tranh cãi mạnh mẽ trong suốt thập kỷ qua.
Khi mọi người phê phán, chỉ trích những tác động của toàn cầu hoá họ nói chung thường đề cập
đến vấn đề hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế xảy ra khi các nước hạ thấp các rào cản như thuế
nhập khẩu và mở của các nền kinh tế cho đầu tư và thương mại của các nước khác trên thế giới.
Những người chỉ trích này phàn nàn rằng những bất bình đẳng trong hệ thống thương mại toàn
cầu hiện nay sẽ ảnh hưởng xấu đến các nước đang phát triển và làm lợi cho các nước phát triển.
Những người ủng hộ quá trình toàn cầu hoá thì phát biểu rằng những nước như Trung Quốc, Việt
Nam, Ấn Độ và Uganda - những nước mà đã mở cửa cho nền kinh tế thế giới – đã giảm đáng kể
được tình trạng nghèo đói.
Những người chống lại toàn cầu hoá lại cho rằng quá trình này đã bóc lột những người ở các
nước đang phát triển, gây ra sự chia rẽ hàng loạt và đem lại rất ít lợi ích.
Nhưng để tất cả các nước có thể thu được lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá, cộng đồng quốc tế
phải tiếp tục nỗ lực để giảm những bóp méo trong thương mại quốc tế (cắt giảm trợ cấp nông
nghiệp và các hàng rào thương mại), những thứ làm lợi cho các nước phát triển, và tạo ra một hệ
thống công bằng hơn.
Một số nước đã làm lợi được từ quá trình toàn cầu hoá
- Ấn Độ: Giảm được một nửa tỉ lệ nghèo đói trong suốt hai thập kỷ qua.
- Trung Quốc: Quá trình cải cách đã dẫn đến một sự giảm nghèo đói lớn nhất trong lịch sử. Số
người nghèo ở nông thôn đã giảm từ 250 triệu năm 1978 xuống còn 34 triệu năm 1999
- Việt Nam: Những điều tra về các hộ nghèo nhất trong nước đã cho thấy 98% người dân đã cải
thiện được điều kiện sống trong những năm 90. Chính phủ đã tiến hành một cuộc đầu tra hộ gia
đình ngay khi bắt đầu các cuộc cải cách và 6 năm sau cũng đúng ở những hộ gia đình được điều
tra trước đó đã thấy một sự sút giảm ấn tượng tình trạng nghèo khổ. Người dân đã có nhiều
lương thực để ăn hơn và trẻ em đã được đi học trung học. Tự do thương mại là một trong nhiều
nhân tố đóng góp cho sự thành công của Việt Nam.

- Uganda: Nghèo đói giảm 40% trong những năm 90 và tỉ lệ đến trường đã tăng gấp đôi.
Một số khác thì không
- Nhiều nước ở Châu Phi đã thất bại trong việc thu được những lợi ích của toàn cầu hoá. Xuất
khẩu của những nước này vẫn giới hạn ở một số mặt hàng thô.
- Một số chuyên gia cho rằng cơ sở hạ tầng và các chính sách yếu kém cũng như các thể chế lỏng
lẻo và nạn tham nhũng đã gạt những nước này ra khỏi nhịp điệu phát triển.
- Các chuyên gia khác tin rằng bất lợi về mặt địa lý và khí hậu đã cản trở các nước tham gia vào
sự tăng trưởng toàn cầu. Ví dụ, những nước ở giữa đất liền sẽ khó khăn trong việc cạnh tranh
trên thị trường sản xuất và dịch vụ toàn cầu.
Trong vài năm qua cũng có những phản đối chống lại các tác động của toàn cầu hoá ở Mỹ và
Châu Âu. Tuy nhiên theo một điều tra gần đây do Trung tâm The Pew tiến hành thì ở rất nhiều
nước đang phát triển có sự ủng hộ mạnh mẽ cho các lĩnh vực khác nhau của sự hội nhập - đặc
biệt là thương mại và đầu tư trực tiếp. Ở vùng Châu Phi hạ Sa-ha-ra, 75% hộ gia đình nói rằng
họ nghĩ việc các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước họ là một điều tốt.
Toàn C ầ u Hóa là gì ?
Dec 16, '08 9:07 PM
for everyone
Hệ thống toàn cầu hoá thay thế hệ thống chiến tranh lạnh hiện nay là 1 hệ thống quốc tế với rất
nhiều những biểu hiện đặc trưng. Đầu tiên, không giống như hệ thống chiến tranh lạnh, toàn
cầu hoá không phải là một hệ thống tĩnh mà là một quá trình luôn biến đổi. Toàn cầu hóa liên
quan tới việc hội nhập tất yếu vào các thị trường, các thể chế và công nghệ ở mức độ chưa
từng có trước đây - theo đó mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, mỗi thể chế quốc gia có thể tiếp cận với
thế giới sâu rộng hơn, nhanh hơn và ít tốn kém hơn so với trước đây đồng thời cũng tạo ra
phản ứng dữ dội từ những thế lực hung tàn hoặc dễ bị tụt hậu. Tư tưởng chủ đạo đằng sau
toàn cầu hoá là chủ nghĩa tư bản thị trường tự do - bạn càng để cho các thế lực thị trường điều
chỉnh nền kinh tế của bạn càng mở cửa, tự do hoá thương mại và cạnh tranh đồng thời nền
kinh tế sẽ hoạt động hiệu quả hơn, thịnh vượng hơn. Toàn cầu hoá có nghĩa là chủ nghĩa tư
bản tự do thị trường sẽ lan rộng ra mọi quốc gia trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá cũng đặt ra
những quy tắc kinh tế riêng : những quy tắc liên quan tới vấn đề mở cửa, bãi bỏ các quy định
khắt khe và tư hữu hoá nền kinh tế. Không giống hệ thống chiến tranh lạnh, toàn cầu hoá có

văn hoá chủ đạo riêng với xu hướng tương đồng giữa các quốc gia. Những kỷ nguyên trước
đây, sự tương đồng về văn hoá chỉ diễn ra trên quy mô một vùng, khu vực - văn hoá Hy Lạp ở
Cận Đông, văn hoá địa trung hải ở Hy Lạp, văn hoá Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Á….vv… Về phương
diện văn hoá, toàn cầu hoá là sự ảnh hưởng sâu rộng, không hẳn là văn hoá Mỹ hoàn toàn - từ
Big Macs tới iMacs hay Mickey Mouse mà có thể là bất cứ nền văn hóa nào. Toàn cầu hoá phát
triển những công nghệ riêng như : vi tính hoá, thu nhỏ, số hoá, vệ tinh, cáp và Internet. Những
công nghệ mới này tạo nên những viễn cảnh mới cho toàn cầu hoá. Nếu xu hướng của chiến
tranh lạnh là sự phân chia biệt lập giữa các quốc gia thì xu hướng của toàn cầu hoá là hội
nhập. Biểu tượng của chiến tranh lạnh là một bức tường - chia rẽ mọi người thì biểu tượng của
toàn cầu hoá là một Website - liên kết tất cả mọi người lại với nhau. Công cụ sử dụng trong thời
kỳ chiến tranh lạnh là "hiệp định chính trị" còn thời toàn cầu hoá là "Thoả thuận thương mại".
[ Tham khảo tài liệu của TL.Friedman – Chuyên gia bình luận hàng đầu của Mỹ về quan hệ
quốc tế. Ông tốt nghiệp đại học Oxford , đại học Brandeis và trường St.Anthony. Trưởng phân
xã báo “New York Times” tại Beirut và Jerusalem. Cuốn sách đầu tay của ông “Từ Beirut đến
Jerusalem” đoạt giải quốc tế National Book Award năm 1988, các sách well-known của ông mà
các bạn trẻ Việt nam đều biết là “Thế Giới Phẳng” và “Chiếc Lexus và cây Ô liu” ]
Toàn cầu hóa chưa thực sự xuất hiện trên phạm vi toàn cầu, còn lâu nữa mới đến lúc ai ai over
the world cũng lên mạng Internet được .Nhưng toàn cầu hóa đang thực sự hình thành theo
nghĩa là hầu như ai cũng cảm nhận được nó, gián tiếp hay trực tiếp .Đó là những áp lực, những
gò bó và những cơ hội để áp dụng dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin – trọng tâm
của toàn cấu hóa.
1. Dân chủ hóa trong công nghệ : là sản phẩm của 1 loạt phát kiến được tập hợp lại trong
những năm 1980, bao gồm nhiều lĩnh vực như vi tính hóa, viễn thông, thu nhỏ, kỹ thuật nén và
số hóa….Ví dụ như tiến bộ trong công nghệ vi xử lý giúp Computer tăng công suất gấp 2 lần
sau mỗi chu kỳ 18 tháng (định luật Moore). Tiến bộ trong công nghệ nén làm số lượng thông tin
lưu trữ trên máy tính tăng 60% mỗi năm, tính từ 1991. Trong khi chi phí để lưu 1 Megabite dữ
liệu giảm từ 5USD xuống còn 5cent, làm công suất computer tăng lên rõ rệt trong khi giá thành
giảm đáng kể - giúp cho nhiều người lao động có cơ hội tiếp cận máy vi tính. Những cải tiến
trong công nghệ viễn thông đã giảm dần được chi phí điện thoại hay truyền dữ liệu, đồng thời
tăng tốc độ truy cập, mở rộng vùng phủ sóng, tăng sức tải và bộ nhớ các dữ liệu mỗi lần giao

dịch qua điện thoại, cáp, radio hoặc Internet. 0 những bạn có thể gọi đt đến bất cứ đâu mà có
thể gọi từ bất cứ nơi đâu, từ Laptop, trên đỉnh núi, giữa biển khơi, trên máy bay hay từ nóc nhà
thế giới đỉnh Everest. Những ability đó xuất hiện khi technology đã thu nhỏ size của máy vi tính,
điện thoại và máy nhắn tin. Những thiết bị thông tin nhỏ gọn này có thể di chuyển tới những
vùng xa xôi hẻo lánh và cung cấp cho những người dân nông thôn có mức thu nhập thấp.
Kỹ thuật số hóa cho phép chúng ta chuyển hóa giọng nói, âm thanh, phim ảnh, tín hiệu truyền
hình, âm nhạc, màu sắc, hình ảnh, ngôn ngữ, tài liệu, thông số và bất cứ loại hình dữ liệu nào
thành …. những bit dữ liệu. Rồi truyền chúng đi qua đường điện thoại, vệ tinh hay cáp quang đi
over the world. Những ký tự máy tính là đơn vị đo đếm trong máy tính, thể hiện 1 cách đơn giản
bằng sự kết hợp khác nhau của những tập hợp gồm 2 con số 0 và 1. Số hóa có nghĩa là
chuyển đổi âm thành, picture … vv mã hóa chúng thành những tập hợp gồm 0 và 1, truyền
qua 1 điểm khác thông qua 1 số công cụ, nơi mà chúng được giải mã trở lại nguyên bản như
cũ.
Quá trình vi tính hóa, kỹ nghệ thu nhỏ equipment, viễn thông và số hóa đã tạo ra quá trình dân
chủ hóa công nghệ, ý nói là giúp hàng trăm triệu người trên thế giới liên hệ với nhau để trao đổi
thông tin, kiến thức, tiền bạc, giao dịch thương mại, âm nhạc,… và các chương trình truyền
hình bằng những cung cách trước đây chưa từng có. Nói đơn giản, công cuộc dân chủ hóa
công nghệ đã cho phép “toàn cầu hóa sản xuất”. Ngày nay ai cũng có thể trở thành 1 nhà sản
xuất, Toàn cầu hóa thời nay 0 còn cho thấy việc các nước đang phát triển vận chuyển nguyên
liệu thô sang các nước phát triển, để những nước này tinh chế thành thành phẩm, rồi chở
chúng quay trở lại. Ngày nay, nhờ có dân chủ hóa công nghệ, nhiều quốc gia khác nhau có cơ
hội tự quy tụ công nghệ mới, nguyên liệu và vốn để phát triển trở thành các nhà sản xuất hay
nhận hợp đồng gia công những sản phẩm, dịch vụ với độ phức tạp cao – 1 yếu tố gắn bó các
quốc gia lại với nhau. Có thể nói dân chủ hóa công nghệ đã giúp Thái Lan, trong vòng 15 năm,
từ 1 nước thuần túy trồng lúa, thu nhập rất thấp trở thành quốc gia đứng thứ 2 trên thế giới về
công nghệ SX xe vận tải (đối thủ cạnh tranh trực tiếp với hãng xe Detroit) và là nước đứng thứ
4 trên thế giới trong việc SX xe gắn máy.
2. Dân chủ hóa tài chính : Dân chủ hóa công nghệ dẫn tới sự thay đổi quan trọng thứ hai của
quá trình toàn cầu hóa, đó là sự thay đổi trong cung cách chúng ta đầu tư, hay cón gọi quá trình
dân chủ hóa tài chính. Ngày nay, các nhà đầu tư không chỉ mua và bán chứng khoán, trái phiếu

ra toàn thế giới mà còn có thể thực hiện việc mua và bán này thông qua máy tính ở nhà. Những
trang web môi giới trên Internet có thể cung cấp cho họ thông tin và các công cụ phân tích để
thực hiện các giao dịch mà không cần phải trả phí hay gọi điện cho một nhà môi giới (brocker)
nào. Chủ tịch của NASDAQ International, John T.Wall ước tính trong vòng 10 năm 70% giao
dịch chứng khoán của công ty sẽ được thực hiện bằng máy tính ở nhà có nối mạng Internet.
Càng nhiều người làm như vậy, họ càng cần nhiều thông tin và công cụ phân tích về các nền
kinh tế và các công ty khác nhau và càng dễ kiếm tiền, thua lỗ thuộc về những người kém và
phần thưởng giành cho những người tài giỏi Bất kỳ ai dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể truy cập
vào những thông tin mới nhất của công ty mà bạn muốn đầu tư. Các báo cáo ngành, báo cáo
tài chính, thông tin về quản lý, dự báo sẽ giúp bạn cách đánh giá các loại chứng khoán trên
toàn thế giới. Chỉ khoảng vài năm nữa thôi, thậm chí bạn không cần ngồi ở nhà trên bàn máy
computer nữa vì bước tiến triển tiếp theo sẽ giải phóng mọi người khỏi máy tính để bàn, chúng
ta có thể nối mạng bằng những chiếc máy điện thoại di động thông minh không dây và những
chiếc máy tính cầm tay. Những trang Web của NASDAQ và những trang khác giống như vậy
thực sự giúp cho dân chủ hoá tài chính, công nghệ và thông tin gắn kết với nhau, thể hiện mức
độ toàn cầu hoá trong lĩnh vực tài chính
3. Dân chủ hóa thông tin : Sự thay đổi trong cung cách chúng ta quan sát thế giới. Nhờ các vệ
tinh, Internet và truyền hình, chúng ta ngày nay có thể nhìn và lắng nghe, xuyên qua hầu như
tất cả các tấm màn chắn.Nhờ quá trình Dân chủ hóa công nghệ đặc biệt khả năng thu nhỏ thiết
bị, hàng triệu người trên world có thể tiếp nhận các tín hiệu thông qua loại angten nhỏ như cái
chảo, lắp trên ban công nhà. Công nghệ “nén thông tin” xuất hiện các loại đĩa video kỹ thuật số
như đĩa DVD có khả năng chứa nhiều bộ phim, với âm thanh và phụ đề…. Với các loại máy
ảnh, máy quay phim và máy đèn chiếu Kỹ thuật số, ai ai cũng có thể trở thành nhà làm phim.
Không những làm được phim, bạn còn có thể truyền bá phim của bạn đi khắp thế giới thông
qua Internet với chi phí thấp nhất .Video clip nhan nhản trên trang web Youtube là 1 ví dụ rõ
nét.
Trụ cột của quá trình dân chủ hóa thông tin là Internet, song song với công nghệ truyền hình
cáp và viễn thông qua vệ tinh. Mạng Internet được phi tập trung hóa, 0 ai sở hữu Internet cả và
cũng 0 ai có thể xóa bỏ nó cả. Sự tiến bộ của Internet chính là sự phối hợp giữa các cá nhân –
nhiều người trong số họ chả bao jờ gặp nhau, nhưng họ cooperate on work trên mạng, đóng

góp sáng kiến, ý tưởng với nhau nhiều khi miễn phí. Internet quan trọng 0 khác jì cuộc sống
của chính chúng ta hiện nay, dẫu 0 nhiều người hiểu ngọn ngành của Internet.
Nguồn gốc sâu xa, Internet được phát minh khi Hoa Kỳ phản ứng lại sự kiện chạy đua vũ trang
4/10/1957 Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik của họ vào quỹ đạo. Sự kiện này đặc biệt quan trọng,
đánh dấu sự khởi đầu 0 chỉ kỷ nguyên 0 gian mà còn kỷ nguyên 0 gian ảo nữa. Sau buổi họp
báo phản ứng lại sự kiện đó ngày 9/10/1957, tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đã
thuyết phục Quốc hội cho phép lập cơ quan nghiên cứu các dự án Kỹ thuật cao – ARPA. Từ đó
các dự án tên lửa và hàng không tách ra thành NASA, phần còn lại ARPA sau này do Lầu 5 góc
phụ trách và trở thành cơ quan nc cải tiến công nghệ thông tin và vi tính. Chính “Phòng xử lý
công nghệ thông tin” của ARPA là cơ quan đầu tiên xây dựng ngyuên mẫu và đặt nền tảng đẩu
tiên cho Internet thời nay. Chính ARPAnet – 1 mạng nội bộ thô sơ nối giữa Bộ quốc phòng và 1
số trường đại học và phòng thí nghiệm của chính phủ là nguyên mẫu Internet đầu tiên được
trình làng năm 1969. Tuy vậy, để phát triển thành phương tiện đại chúng cho nghiên cứu ,
thương mại và liên lạc, Internet phải có thêm 3 phát minh nữa – phần mềm trình duyệt (Web
browser), công cụ tìm kiếm (search engine) và công nghệ mã hóa bảo mật cao (high-grade
encryption technology)…………
Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới, con người lại hiểu biết nhiều như ngày nay, về số phận
đồng loại của mình, về các loại sản phẩm và tri thức.Internet cho phép download phim, âm
nhạc, đi chợ thương mại điện tử trong 0 gian ba chiều. Từ Laptop đi trên đường bạn có thể hội
họp, giao dịch với đồng nghiệp và khách hàng nhiều nơi trên thế giới. Nhờ dân chủ hóa thông
tin, các chính phủ ngày nay 0 thể bưng bít thông tin xảy ra bên ngoài lũy tre làng hay ngoài biên
giới đất nước nữa. Thông tin về cuộc sống ở nước ngoài 0 còn bị bóp méo hay bôi xấu, thông
tin trong nước cũng 0 còn bị tô vẽ theo lối tuyên truyền. Chính vì vậy, Internet trở nên nguy
hiểm với các nhà nước độc tài vì họ 0 thể kiểm soát thông tin như trước kia được
Ba quá trình dân chủ hóa giúp tháo gỡ các rào cản khi tham gia thương mại toàn cầu ví như
hiện nay chỉ cần 1 cái computer, 1 thẻ tín dụng Visa Card, 1 đường truyền Internet, 1 Modem,
máy in màu, 1 đường điện thoại, 1 trang Web và 1 tài khoản chuyển tiền nhanh qua bưu điện,
bất cứ ai cũng ngồi nhà mà khởi sự doanh nghiệp của mình được. Cách mạng thông tin sẽ đưa
các doanh nghiệp tới gần khách hàng hơn, tạo cho khách hàng 1 thứ quyền năng để nhanh
chóng phản hồi về chất lượng hàng hóa và nhu cầu mới nảy sinh của họ. Chỉ qua 1 đêm sau

khi thành lập, các dịch vụ mà DN bạn cung cấp với chi phí thành lập rất rẻ có thể canh tranh
trên toàn cầu at once. Ví dụ như trang www.amazon.com được hình thành trong bối cảnh dân
chủ hóa ông nghệ (máy vi tính tại gia), dân chủ hóa tài chính (thẻ tín dụng cho mọi người) và
dân chủ hóa thông tin (Internet cho mọi ngườ). Nó 0 chỉ là 1 tiệm sách phục vụ thói quen mua
sách mà còn là dịch vụ mở cửa 24/24h, ai ai ở over the global các múi giờ đều có thể vào mua.
Tất nhiên, sau đó bạn phải duy trí và đảm bảo dịch vụ của bạn rẻ nhất, bán được nhanh nhất,
bán liên tục nế 0 bạn sẽ bị tiêu diệt.
Tuy nhiên, toàn cấu hóa cũng mang đến bệnh tật, đó là 1 chứng bệnh mang tính chính trị, đó là
hội chứng suy giảm hệ miễn nhiễm Microchip (Microchip Immune Deficiency Syndrome –
MIDS) Bệnh này thường lây nhiễm vào những nhà nước và công ty 0 được tiiêm chủng miễn
dịch trước các làn sóng do công nghệ vi mạch (microchip) tạo nên, cũng như những làn sóng
dân chủ trong thông tin, tài chính và công nghệ đã tạo nên 1 thị trường nhanh hơn, cởi mở hơn
nhưng phức tạp hơn, có những hệ giá trị mới. MIDS xuất hiện khi 1 country hay 1 firm tỏ ra
ngày càng thiếu khả năng tăng năng suất, lương, điều kiện sống, tri thức và tính cạnh tranh
cũng như trì trệ trong việc áp dụng những thách thức đến từ thế giới hiện đại. Liều thuốc duy
nhất có thể chữa chứng bệnh này được gọi là “quá trình dân chủ hóa thứ tư”. Đây là sự dân
chủ hóa trong hoạch định chính sách và đáp ứng các thông tin, phi tập trung hóa quyền lực,
giúp cho dân trong 1 nước hay nhân viên tron 1 cty chia sẻ kiến thức và thông tin để thay đổi và
cải cách nhanh chóng hơn. Điều này khiến họ theo kịp những đòi hỏi ngày càng tăng của người
tiêu dùng, thường đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ rẻ và hợp sở thích của mình. MIDS có thể dẫn
tới sự diệt vong đất nước hay công ty nếu 0 được chữa trị thích hợp.
4. Quá trình dân chủ hóa thứ tư – dân chủ hóa trong hoạch định chính sách, phi tập trung hóa
quyền lực đồng thời chia sẻ thông tin hay còn gọi là dân chủ hóa chính trị. Bạn có thể liên
tưởng đến trường hợp liên bang Xô Viết (Liên Xô) trước đây.Chính quyền tập trung toàn bộ
chức năng lãnh đạo vào 1 bộ phận nhỏ ở trung ương, toàn bộ chính sách là do trung ương
quyết định. Trung ương truyền đạt cho bạn những jì bạn dân chủ phép nghĩ, hành động, tuân
thủ và chỉ đạo ý thích của bạn. Trung ương quy tụ toàn bộ các đầu mối thông tin, và chỉ 1 nhóm
nhỏ đầu não mới biết dân chủ bức tranh toàn cảnh của đất nước.
Các nghiên cứu chính trị đánh giá rằng trong thời Chiến tranh Lạnh, thời của những bức tường,
các nhà lãnh đạo thường khuyến khích dân chúng hãy so sánh đời họ so với đời cha ông họ là

thấy sướng hơn rồi. Ngày nay, dân chúng có nhiều thông tin hơn thông qua truyền hình, vệ tinh,
DVD và Internet, họ so sánh với đời sống dân nước láng giềng, dân nước khác. Ngày trước
lãnh đạo 1 cty thường dựa vào kinh nghiệm và kỹ năng lỗi thời của bản thân để vạch quyết
định. Vì lãnh đạo nắm được nhiều thông tin nhất, vì thế có tầm nhìn xa mà 0 ai trong cty có
được, vì thế tôi vạch quyết định ai cũng phải nghe. Nhưng cái thế giới đó nay 0 còn nữa .
Toàn cầu hóa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế
giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá
nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn
cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương
mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn
hoá.
Lịch sử của toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những cuộc
thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do
Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao đổi
thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây.
Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí
hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử khác nhau. Thông
thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị học, toàn cầu hoá chỉ là lịch sử
của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước dựa trên những cơ sở ổn định cho phép
các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru nhất.
Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị trường tự do
tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Điều này dẫn tới sự chuyên
môn hoá không ngừng của các nước trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng như tạo ra áp lực chấm dứt
hàng rào thuế quan bảo hộ và các rào cản khác. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm tiêu chuẩn của hệ

thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ 19 thường được chính thức gọi là "thời
kỳ đầu của toàn cầu hoá". Cùng với thời kỳ bành trướng của đế quốc Anh (Pax Britannica) và
việc trao đổi hàng hoá bằng các loại tiền tệ có sử dụng tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn
công nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và luật
cân bằng chung của Jean-Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi thương mại một
cách hiệu quả, và bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng sẽ tự động được điều
chỉnh. Việc thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công nghiệp hoá chính khoảng giữa năm
1850 và năm 1880, mặc dù chính xác khi nào các nước này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài
gây nhiều tranh cãi.
"Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và
đầu những năm 1930.
Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng đột
ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn
đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương
mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới
hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương
khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương
mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực
lẫn tiêu cực.
[s ử a ] Ý nghĩa của toàn cầu hóa
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải
có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những
năm 1990 của thế kỷ thứ 20.
"Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là:
• Sự hình thành nên một ngôi làng toàn c ầ u — dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực
tin h ọ c và vi ễ n thông , quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với
sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như

tình hữu nghị giữa các "công dân th ế gi ớ i ", dẫn tới một n ề n văn minh toàn c ầ u ,
• Toàn cầu hoá kinh tế — "th ươ ng m ạ i t ự do " và sự gia tăng về quan hệ giữa các thành viên của
một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế)
ảnh hưởng đến ch ủ quy ề n qu ố c gia trong phạm vi kinh tế.
Xem bài nói riêng về toàn c ầ u hoá kinh t ế
• Tác động tiêu cực của các t ậ p toàn đa qu ố c gia tìm ki ế m l ợ i nhu ậ n — việc sử dụng các phương
tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chu ẩ n và lu ậ t
pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều
lẫn nhau.
• Sự lan rộng của ch ủ nghĩa t ư b ả n từ các qu ố c gia phát tri ể n sang các qu ố c gia đang phát tri ể n .
Khái niệm này cũng chia sẻ một số tính chất với khái niệm quốc tế hoá và có thể dùng thay cho
nhau được, mặc dù có một số người thích dùng "toàn cầu hoá" để nhấn mạnh sự mờ nhạt của ý
niệm nhà nước hay biên giới quốc gia.
Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc qua lại không ngừng
giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công
nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội Rõ ràng cần phân biệt toàn cầu hoá kinh tế với khái
niệm rộng hơn là toàn cầu hoá nói chung.
Khái niệm chủ nghĩa toàn cầu, nếu chỉ được sử dụng trong phạm vi kinh tế, có thể được xem là
trái ngược hẳn với khái niệm chủ nghỉa kinh tế quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ. Nó có liên quan
đến khái niệm chủ nghĩa tư bản không can thiệp và chủ nghĩa tân tự do.
[s ử a ] Các dấu hiệu của toàn cầu hoá
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ
Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng
hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ
và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh sự tồn
tại của một số xu hướng.
• Gia tăng th ươ ng m ạ i qu ố c t ế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
• Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đ ầ u t ư tr ự c ti ế p t ừ n ướ c ngoài
• Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ như Internet, các
v ệ tinh liên l ạ c và đi ệ n tho ạ i

• Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá ph ẩ m như phim
ảnh hay sách báo.
• Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến những vấn
đề có ảnh hưởng toàn cầu như v ấ n đ ề nóng lên c ủ a khí h ậ u , kh ủ ng b ố , buôn l ậ u ma tuý và v ấ n
đ ề nâng cao m ứ c s ố ng ở các nước nghèo.
• Sự tràn lan của ch ủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng hướng đến đa
d ạ ng văn hoá , mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đ ồ ng hoá , lai t ạ p hoá ,
Tây hoá, M ỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá.
• Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hi ệ p ướ c qu ố c t ế
dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC
• Gia tăng việc đi l ạ i và du l ị ch quốc tế
• Gia tăng di c ư , bao gồm cả nh ậ p c ư trái phép
• Phát triển h ạ t ầ ng vi ễ n thông toàn c ầ u
• Phát triển các h ệ th ố ng tài chính qu ố c t ế
• Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia
• Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các giao dịch quốc
tế
• Gia tăng số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. lu ậ t b ả n quy ề n
Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ
hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất
của GATT cũng như WTO bao gồm:
• Thúc đẩy thương mại tự do
o Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thu ế quan ; xây dựng các khu m ậ u d ị ch t ự do
với thuế quan thấp hoặc không có
o Về t ư b ả n : giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức ki ể m soát t ư b ả n
o Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc tr ợ c ấ p cho các doanh nghiệp địa phương
• Thắt chặt vấn đề s ở h ữ u trí tu ệ
o Hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia (nói chung là thắt chặt hơn)
o Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước (v.d. b ằ ng sáng ch ế do Vi ệ t Nam cấp
có thể được M ỹ thừa nhận)

Có khá nhiều thảo luận mang tính học thuật nghiêm túc quanh việc xem toàn cầu hoá là một hiện
tượng có thật hay chỉ là một sự đồn đại. Mặc dù thuật ngữ này đã trở nên phổ biến, nhiều học giả
lý luận rằng các tính chất của hiện tượng này đã từng được thấy ở một thời điểm trước đó trong
lịch sử. Tuy vậy, nhiều người cho rằng những dấu hiệu làm người ta tin là đang có tiến trình toàn
cầu hoá, bao gồm việc gia tăng thương mại quốc tế và vai trò ngày càng lớn của các tập đoàn gia
quốc gia, thực sự không rõ ràng như ta tưởng. Do vậy, nhiều học giả thích dùng thuật ngữ "quốc
tế hoá" hơn là "toàn cầu hoá". Để cho đơn giản, vai trò của nhà nước và tầm quan trọng của các
quốc gia lớn hơn nhiều trong khái niệm quốc tế hoá, trong khi toàn cầu hoá lại loại trừ vai trò các
nhà nước quốc gia theo bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, các học giả này xem biên giới
quốc gia, trong một nghĩa rộng, còn lâu mới mất đi, do vậy tiến trình toàn cầu hoá căn bản này
vẫn chưa thể xảy ra, và có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra vì dựa trên lịch sử thế giới người ta thấy
rằng quốc tế hoá sẽ không bao giờ biến thành toàn cầu hoá — chẳng hạn như trường hợp Liên
hiệp châu Âu và NAFTA hiện tại.
[s ử a ] Tác động của toàn cầu hoá
[sửa] Khía cạnh kinh tế
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh chính trị phía dưới),
quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng
việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc
nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế.
Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều và dễ dàng hơn, kéo
theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này đã góp phần gia tăng khoảng cách
giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong
một đất nước.
[sửa] Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ
Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết cục thế
nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra:
• Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác
nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn
cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du l ị ch , việc tiếp cận dễ
dàng hơn với giáo d ụ c và văn hoá;

• Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương mại và văn
hoá mạnh. Trên thực tế, thông tin tạo ra chính kiến và vì thế một vài tập đoàn truyền thông
lớn, chủ yếu là phương Tây có thể tạo ra (và làm giả) thông tin đưa đến dân chúng. S ự đ ộ c
quy ề n trong lĩnh vực văn hoá và thông tin này được xem như một sự " Mỹ hoá " thế giới.
Mỗi người nhìn toàn cầu hoá theo một kiểu khác nhau. Có hai xu hướng chính:
• nỗ lực che dấu những khác biệt v ề b ả n s ắ c , thay vì để lộ ra.
• cảm giác toàn cầu hoá sẽ mang lại sự tự do cá nhân, ngay cả khi điều đó đi cùng với một sự
đồng nhất hoá toàn cầu một cách tương đối.
Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng nhất hoá việc dùng
"tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của global English), một thứ tiếng Anh nghèo nàn do
những người không phải là người Anglo-Saxon dùng khi họ ở nước ngoài. (Lưu ý là "tiếng Anh
toàn cầu" không phải là tiếng Anh cơ bản như trong phiên bản Wikipedia bằng tiếng Anh đơn
giản).
Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở cấp độ thế giới: thay
vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối hợp để có thể dẫn đến việc chọn một thứ tiếng có
quy luật rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng, phần lớn các nước đều chọn dạy tiếng Anh cho giới trẻ
dựa trên lựa chọn của các nước khác! Do sự bắt chước một cách máy móc và sự trơ ì chính trị,
tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ của thế giới và được gọi là "tiếng Anh toàn cầu"
("globish") vì các yếu tố cơ bản của tiếng Anh Oxford đã bị biến dạng về phát âm, ngữ pháp, từ
vựng, v.v.). Đối với một số những người nói tiếng Anh, "tiếng Anh toàn cầu" là kết quả của chủ
nghĩa đế quốc về ngôn ngữ của nước họ. Vấn đề là liệu có thể dễ dàng cho rằng các nỗ lực
hướng đến việc dạy tiếng Anh thay vì giảng dạy các thứ tiếng khác sẽ làm giảm chất lượng của
các ngôn ngữ khác hay không (như tiếng Pháp lai Anh - franglais).
[sửa] Khía cạnh chính trị
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng
như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế
cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể
này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo
của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều
thách thức mang tính toàn cầu ngày nay.

Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn
cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành
tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua
một bức màn "quốc tế".
Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và
thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới.
[s ử a ] Phản ứng xung quanh toàn cầu hoá
[sửa] Chống toàn cầu hoá
Bài chính: "Chống toàn cầu hoá".
Các nhà hoạt động xã hội vì lợi ích cộng đồng coi một số khía cạnh của toàn cầu hoá là nguy hại.
Phong trào này không có tên gọi thống nhất. "Chống toàn cầu hoá" là thuật ngữ mà báo chí hay
dùng nhất. Ngay chính các nhà hoạt động xã hội như Noam Chomsky đã cho rằng tên này không
có ý nghĩa gì cả vì mục tiêu của phong trào là toàn cầu hoá sự công bằng. Trên thực tế, có một
tên phổ biến là "phong trào đòi công bằng toàn cầu". Nhiều nhà hoạt động xã hội cũng tập hợp
dưới khẩu hiệu "có thể có một thế giới khác", từ đó ra đời những tên gọi như altermondisme hay
altermondialisation, đến từ tiếng Pháp.
Có rất nhiều kiểu "chống toàn cầu hoá" khác nhau. Nói chung, những phê phán cho rằng kết quả
của toàn cầu hoá hiện không phải là những gì đã được hình dung khi bắt đầu quá trình tăng
cường thương mại tự do, cũng như nhiều tổ chức tham gia trong hệ thống toàn cầu hoá đã không
xét đến lợi ích cho các nước nghèo cũng như giới lao động.
Các lý luận kinh tế của các nhà kinh tế theo học thuyết thương mại công bằng thì cho rằng
thương mại tự do không giới hạn chỉ đem lại lợi ích cho những ai có tỷ lệ vốn lớn (v.d. người
giàu) mà không hề đếm xỉa đến người nghèo.
Nhiều nhà hoạt động xã hội "chống toàn cầu hoá" coi toàn cầu hoá là việc thúc đẩy chương trình
nghị sự của những người theo chủ nghĩa tập đoàn, một chương trình này nhằm mục tiêu giới hạn
các quyền tự do cá nhân dưới danh nghĩa lợi nhuận. Họ cũng cho rằng sự tự chủ và sức mạnh
ngày càng tăng của các tập đoàn dần dần hình thành nên các chính sách chính trị của nhà nước
quốc gia.
Một số nhóm "chống toàn cầu hoá" lý luận rằng toàn cầu hoá chỉ đơn thuần là hình thức đế quốc,
là một trong những lý do căn bản dẫn đến chiến tranh Irac và là cơ hội kiếm tiền của Mỹ hơn là

các nước đang phát triển.
Một số khác cho rằng toàn cầu hoá áp đặt một hình thức kinh tế dựa trên tín dụng, kết quả là dẫn
tới các nợ nần và khủng hoảng nợ nần chồng chất không tránh khỏi.
Sự phản đối chủ yếu nhắm vào sự toàn cầu hoá không kiểm soát (như trong các chủ nghĩa tân tự
do và tư bản tự do tuyệt đối) do các chính phủ hay các tổ chức gần như chính phủ (như Quỹ tiền
tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) chỉ đạo và không chịu trách nhiệm đối với quần chúng mà họ
lãnh đạo mà thay vào đó gần như chỉ đáp ứng lợi ích của các tập đoàn. Rất nhiều các cuộc hội
thảo giữa các vị bộ trưởng tài chính và thương mại các nước trong trục toàn cầu hoá đã gặp phải
những phản kháng rầm rộ, đôi khi cũng có bạo lực từ các đối tượng chống đối "chủ nghĩa toàn
cầu tập đoàn".
Phong trào này quy tụ nhiều thành phần, bao gồm các nhóm tín ngưỡng, các đảng phái tự do dân
tộc, các đảng phái cánh tả, các nhà hoạt động vì môi trường, các hiệp hội nông dân, các nhóm
chống phân biệt chủng tộc, các nhà chủ nghĩa xã hội tự do và các thành phần khác. Đa số theo
chủ nghĩa cải cách (hay ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng mang tính nhân bản hơn) và một thiểu số
tương đối thuộc thành phần cách mạng (ủng hộ một hệ thống nhân bản hơn chủ nghĩa tư bản).
Nhiều người đã chê trách sự thiếu thống nhất và định hướng của phong trào, tuy nhiên một số
khác như Noam Chomsky thì cho rằng sự thiếu tập trung hoá kiểu này trên thực tế có thể lại là
một sức mạnh.
Những người phản đối bằng phong trào công bằng toàn cầu đã tổ chức các cuộc gặp mặt quốc tế
lớn ở những thành phố nhỏ thay vì những trung tâm đô thị lớn như trước đây.
[sửa] Ủng hộ toàn cầu hoá (chủ nghĩa toàn cầu)
Những người ủng hộ toàn cầu hoá dân chủ có thể được gọi là những người ủng hộ chủ nghĩa
toàn cầu. Họ cho rằng giai đoạn đầu của toàn cầu hoá là hướng thị trường, và sẽ được kết thúc
bởi giai đoạn xây dựng các thiết chế chính trị toàn cầu đại diện cho ý chí của toàn thể công dân
thế giới. Sự khác biệt giữa họ với những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu khác là họ không định
nghĩa trước bất kỳ hệ tư tưởng nào để định hướng ý chí này, mà để cho các công dân được tự do
chọn lựa thông qua một tiến trình dân chủ.
Những người ủng hộ thương mại tự do dùng các học thuyết kinh tế như lợi thế so sánh để chứng
minh thương mại tự do sẽ dẫn đến một sự phân phối tài nguyên hiệu quả hơn, với tất cả những ai
tham gia vào quá trình tìm kiếm lợi ích từ thương mại. Thương mại tự do sẽ cho những nhà sản

xuất tại các nước một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn. Đồng thời tạo
ra sự cạnh tranh giữa các nguồn tư bản, từ đó đem lại lợi ích cho người lao động trên toàn thế
giới; cũng như cạnh tranh giữa nguồn nhân công trên toàn thế giới sẽ mang lại lợi ích cho các
nhà tư bản và trên hết là cho người tiêu thụ. Nói chung, họ cho rằng điều này sẽ dẫn đến giá
thành thấp hơn, nhiều việc làm hơn và phân phối tài nguyên tốt hơn. Toàn cầu hoá đối với những
người ủng hộ dường như là một yếu tố dẫn đến phát triển kinh tế cho số đông. Chính từ điều này
mà họ chỉ nhìn thấy trong sự truyền thông hoá khái niệm "toàn cầu hoá" một cố gắng biện minh
đầy cảm tính và không duy lý của chủ nghĩa bảo hộ kinh tế.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do cá nhân và những người ủng hộ chủ nghĩ tư bản tự do tuyệt
đối cho rằng mức độ tự do cao về kinh tế và chính trị dưới hình thức dân chủ và chủ nghĩa tư bản
ở phần thế giới phát triển sẽ làm ra của cải vật chất ở mức cao hơn. Do vậy họ coi toàn cầu hoá
là hình thức giúp phổ biến nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản.
Họ phê phán phong trào chống toàn cầu hoá chỉ sử dụng những bằng chứng vụn vặt để biện minh
cho quan điểm của mình, còn họ thì sử dụng những thống kê ở quy mô toàn cầu. Một trong
những dẫn chứng này là tỉ lệ phần trăm dân chúng ở các nước đang phát triển sống dưới mức 1
đôla Mỹ (điều chỉnh theo lạm phát) một ngày đã giảm một nửa chỉ trong hai mươi năm [1]. Tuổi
thọ gần như tăng gấp đôi ở các nước đang phát triển kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai và bắt
đầu thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển nơi ít có sự cải thiện hơn. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ
sinh đã giảm ở các khu vực đang phát triển trên thế giới [2]. Bất bình đẳng trong thu nhập trên
toàn thế giới nói chung đang giảm dần [3].
Nhiều người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng phản đối Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế
với lý luận rằng những tổ chức này đều tham ô, quan liêu do các nhà nước kiểm soát và cung cấp
tài chính, chứ không phải các tập đoàn kinh doanh. Nhiều khoản cho vay chỉ đến tay những lãnh
đạo độc tài không thực hiện bất kỳ một cải cách nào, rốt cuộc chỉ dân thường là những người
phải trả những khoản nợ này về sau. Một số nhóm đặc biệt như các liên đoàn thương mại của thế
giới phương Tây cũng phản kháng sự toàn cầu hoá vì mâu thuẫn quyền lợi.
Tuy nhiên, thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt qua khỏi quy mô biên
giới quốc gia, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, và như vậy phong trào được biết đến
trước đây với tên gọi phong trào chống toàn cầu hoá từ nay đã biến thành một phong trào chung
của các phong trào vì toàn cầu hoá; họ tìm kiếm, thông qua thử nghiệm, các hình thức tổ chức xã

hội vượt qua khỏi khuôn khổ nhà nước quốc gia và nền dân chủ đại diện. Do đó, cho dù các lý lẽ
của phe chống toàn cầu hoá lúc ban đầu có thể bị bác bỏ thông qua các thực tế về quốc tế hoá
như ở trên, song sự xuất hiện của một phong trào toàn cầu là không thể chối cãi và do đó chúng
ta có thể nói về một tiến trình thực sự hướng tới một xã hội nhân bản ở quy mô toàn cầu của tất
cả các xã hội
Chỉ số toàn cầu hóa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm ki ế m
Chỉ số toàn cầu hóa (tiếng Anh: Globalization Index) được công bố thường niên bởi Tạp chí
chính sách đối ngoại và Hãng tư vấn A. T. Kearney, nhằm xếp hạng và đưa ra giải thích về những
bước thăm trầm trong quá trình toàn cầu hóa của 72 quốc gia trên thế giới (chiếm 97% GDP và
88% dân số thế giới).
[s ử a ] Phương pháp luận
Chỉ số toàn cầu hoá được công bố lần đầu vào năm 2000 dựa trên đánh giá 5 nhóm thành tố. Chỉ
số toàn cầu hóa 2007 dùng dữ liệu của năm 2004 và dựa trên bốn nhóm chỉ tiêu gồm: hội nhập
kinh tế (ngoại thương & đầu tư trực tiếp từ nước ngoài), kết nối cá nhân (chuyển giao thu nhập từ
hoạt động viễn thông quốc tế, du lịch, kiều hối), kết nối công nghệ (lượng người dùng dịch vụ
mạng internet, số máy chủ phục vụ mạng, các giải pháp bảo đảm an ninh máy chủ mạng), cam
kết chính trị (tham gia các tổ chức quốc tế, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp
quốc, tham gia các thỏa ước quốc tế, chuyển giao tín dụng giữa các nhà nước).
Bảng xếp hạng 2007 bởi KOF Index of Globalization' Bảng xếp hạng 2006 bởi Hãng A.T. Kearney
Thứ
tự
Quốc gia
Chỉ số toàn
cầu hoá
1
B ỉ
91,96
Quốc

gia
2006 2005 2004 2003
Singapore
1 1 2 4
2
Áo
91,60
3
Th ụ y Đi ể n
89,89
4
V ươ ng qu ố c Liên hi ệ p
Anh và B ắ c Ireland
89,29
5
Hà Lan
89,15
6
Pháp
87,71
7
Canada
87,49
8
Th ụ y Sĩ
85,53
9
Ph ầ n Lan
84,84
10

C ộ ng hòa Séc
84,46
11
Đan M ạ ch
84,27
12
Ireland
83,09
13
B ồ Đào Nha
83,06
Th ụ y Sĩ
2 3 3 2
Hoa Kỳ
3 4 7 11
Ireland
4 2 1 1
Đan M ạ ch
5 7 10 6
Canada
6 6 6 7
Hà Lan
7 5 4 5
Úc
8 13 13 21
Áo
9 9 9 8
Th ụ y Đi ể n
10 8 11 3
New

Zealand
11 11 8 16
UK
12 13 12 9
Ph ầ n Lan
13 10 5 10
14
Tây Ban Nha
82,52
15
Đ ứ c
82,48
16
Singapore
82,14
17
Hungary
81,15
18
Úc
80,91
19
Hoa Kỳ
80,83
20
Ý
80,61
21
Ba Lan
78,22

22
Na Uy
77,75
23
Malaysia
75,81
24
Hy L ạ p
74,94
25
Luxembourg
74,18
26
New Zealand
73,46
Na Uy
14 14 17 13
Israel
15 17 22 19
C ộ ng hòa
Séc
16 15 14 15
Slovenia
17 20 19 25
Đ ứ c
18 21 18 17
Malaysia
19 19 20 18
Hungary
20 23 26 23

Panama
21 24 27 30
Croatia
22 16 23 22
Pháp
23 18 15 12
B ồ Đào Nha
24 22 16 14
Tây Ban
Nha
25 26 24 20
27
Slovakia
72,58
28
Estonia
72,11
29
Israel
70,83
30
Các Ti ể u V ươ ng qu ố c
Ả R ậ p Th ố ng nh ấ t
70,39
31
Nga
69,91
32
Chile
69,91

33
Croatia
69,30
34
Slovenia
68,82
35
Iceland
67,75
36
Bungary
65,51
37
Trung Qu ố c
65,26
38
Hàn Qu ố c
64,82
Slovakia
26 25 21 27
Ý
27 27 25 24
Nh ậ t B ả n
28 28 29 35
Hàn Qu ố c
29 30 32 28
Romania
30 35 39 40
Philippines
31 32 33 54

Hy L ạ p
32 29 28 26
Ba Lan
33 31 31 32
Chile
34 34 37 31
Republic of
China (Taiwan)
35 36 36 34
Uganda
36 33 38 36
Tunisia
37 37 35 39
39
Jordan
64,74
40
Nh ậ t B ả n
64,22
41
Argentina
64,12
42
Malta
63,78
43
Kuwait
63,51
44
Th ổ Nhĩ Kỳ

63,45
45
Romania
63,34
46
Litva
63,30
47
Jamaica
62,87
48
Síp
62,48
49
Nam Phi
62,45
50
Ukraina
61,83
51
Uruguay
61,79
Botswana
38 38 30 33
Ukraina
39 39 43 43
Maroc
40 40 47 29
Sénégal
41 41 40 42

México
42 42 45 51
Argentina
43 47 34 50
Ả R ậ p
Saudi
44 45 41 41
Thái Lan
45 46 48 49
Sri Lanka
46 43 51 45
Nga
47 52 44 46
Nigeria
48 44 42 37
Nam Phi
49 48 49 38
52
Latvia
61,62
53
Bahrain
60,93
54
Brasil
59,60
55
Philippines
59,00
56

El Salvador
58,03
57
Panama
57,58
58
Peru
57,12
59
Thái Lan
56,87
60
Ghana
56,01
61
México
55,49
62
Costa Rica
55,00
63
Ecuador
54,50
64
Ai C ậ p
54,18
Peru
50 53 52 60
Trung Qu ố c
51 54 57 53

Brasil
52 57 53 58
Kenya
53 49 54 44
Colombia
54 51 50 56
Ai C ậ p
55 59 60 48
Pakistan
56 50 46 52
Th ổ Nhĩ Kỳ
57 56 55 47
Bangladesh
58 58 56 55
Venezuela
59 55 58 61
Indonesia
60 60 59 59
Ấ n Đ ộ
61 61 61 57
Iran
62 62 62 62
65
Honduras
53,99
66
Namibia
53,79
67
Venezuela

53,75
68
Ả R ậ p Saudi
53,69
69
Nigeria
52,97
70
Maroc
52,93
71
Pakistan
52,35
72
Colombia
52,30
73
Tunisia
51,81
74
Zambia
51,76
75
Dominica
51,76
76
Oman
51,67
77
Nicaragua

51,63
78
Indonesia
51,31
79
Trinidad & Tobago
50,79
80
Paraguay
50,33
81
Guatemala
49,98
82
Ấ n Đ ộ
49,70
83
Sri Lanka
49,67
84
Gabon
49,20
85
Kenya
49,12
86
Bolivia
49,11
87
Mauritius

48,75
88
Sénégal
48,55
89
Fiji
48,53
90
Bahamas
47,88
91
Guyana
47,38
92
Belize
47,29
93
Botswana
46,80
94
Algérie
45,50
95
Côte d'Ivoire
45,44
96
Uganda
44,49
97
Malawi

43,73
98
Barbados
43,45
99
Tanzania
43,22
100
Mali
42,40
101
Togo
42,23
102
Albania
42,01
103
Bénin
41,73
104
Papua New Guinea
41,55
105
Cameroon
41,32
106
Guiné-Bissau
40,68
107
Zimbabwe

40,06
108
Tchad
39,56
109
Syria
39,09
110
Congo
38,78
111
Madagascar
37,45
112
Bangladesh
36,01
113
C ộ ng hoà Dân ch ủ
Congo
35,49
114
Nepal
35,27
115
Iran
35,19
116
Niger
34,28
117

Sierra Leone
33,27
118
Rwanda
29,25
119
Haiti
28,61
120
Myanma
27,29
121
C ộ ng hòa Trung Phi
26,79
122
Burundi
25,75
TTCN - Một bản báo cáo gần đây của Liên Hiệp Quốc cho biết 53/100 tổ chức kinh tế lớn
nhất thế giới là các công ty đa quốc gia (ĐQG). Các công ty tư nhân này còn giàu hơn
những… 120 quốc gia. Trong quyển biên khảo Global Inc.: An Atlas of the Multinational
Corporation (tạm dịch là “Tập đoàn toàn cầu: Atlas về công ty đa quốc gia”, Nhà xuất bản The
New Press, New York, 2003), các tác giả Medard Gabel và Henry Bruner đã đưa ra nhiều con
số và nhận xét giúp xóa bỏ nhiều ngộ nhận.
Trước hết, không phải ngày nay mới có toàn cầu hóa. Từ nhiều ngàn năm qua thế giới đã ngày
càng nối kết và phụ thuộc lẫn nhau. Từ xe ngựa đến tàu buồm rồi đến tàu thủy (và cả máy bay)
chở container, tốc độ và khối lượng trao đổi đã tăng đáng kể.
Nếu không có các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công ty ĐQG đã không thể vươn xa và vươn
rộng như thế. Song, nếu không có các nguồn lực và động lực để sử dụng các kỹ thuật đó, tốc độ
toàn cầu hóa có lẽ đã chậm hơn.
Các công ty đa quốc gia ngày càng lớn mạnh

Đồ
thị về
sự
phát
triển
của
các
Multi
Natio
nal
Corp
oratio
n
Từ chỉ 3.000 công ty ĐQG vào năm 1900, nay đã tăng lên đến 63.000. Cùng với 821.000 chi
nhánh trên khắp thế giới, các công ty này tuy chỉ đang trực tiếp sử dụng 90 triệu lao động (trong
đó khoảng 20 triệu ở các nước đang phát triển) song đã tạo ra đến 25% tổng sản phẩm của thế
giới - riêng 1.000 công ty hàng đầu chiếm đến 80% sản lượng công nghiệp thế giới.
Trái với những ý nghĩ cho rằng đó là những tổ chức rất lớn, phần lớn trong số 63.000 công ty
ĐQG có số nhân viên ít hơn 250 người, một số hãng dịch vụ thậm chí có số nhân viên còn ít hơn.
Tất nhiên, những công ty giàu có nhất (93 trong số top 100) vẫn đóng ở Mỹ, Nhật và châu Âu,
nhưng giả định thường thấy cho rằng các công ty lớn phải là của Mỹ không còn đúng nữa. Năm
1962, gần 60% trong số 500 công ty ĐQG hàng đầu của thế giới là của Mỹ, đến năm 1999 tỉ lệ
này chỉ còn 36%.
Các công ty ĐQG, cho dù có bị xem là “lợi nhuận là trên hết”, vẫn mang lại lợi ích cho nước sở
tại như đóng thuế, tạo công ăn việc làm, cung cấp những hàng hóa và dịch vụ trước đó không có,
và trên hết thảy là mang đến vốn, công nghệ và kiến thức quản trị.
Nhưng danh sách các tác hại từ hoạt động của họ cũng dài không kém. Một trong những lĩnh vực
mà người ta thấy rõ sức mạnh nhất là văn hóa. Vì các công ty ĐQG thống lĩnh hoạt động sản
xuất và phân phối sản phẩm truyền thông (chỉ có sáu công ty bán 80% tổng số băng đĩa nhạc trên
toàn thế giới), họ du nhập những ý tưởng và hình ảnh khiến một số chính phủ và tổ chức tôn giáo

lo ngại có thể làm xã hội mất ổn định. McDonald (với khoảng 29.000 nhà hàng tại 120 nước) bị
cáo buộc là cổ xúy cho chế độ ăn uống không có lợi cho sức khỏe.
Tuy nhiên, tác động của các công ty ĐQG không chỉ dừng ở thời trang và thực phẩm. Do họ có
ảnh hưởng trong việc tạo ra việc làm và nguồn thu thuế, chính phủ ở các nước đang phát triển
cạnh tranh nhau để giành được vốn đầu tư của họ. Trong quá trình đó thuế suất, chính sách xã
hội, quan hệ công đoàn, tập quán kế toán và nhiều điều khác được quyết định có cân nhắc đến sự
hiện diện của các công ty này.
Kỷ nguyên thứ ba của chiến lược toàn cầu
Thoạt tiên khi các công ty bước ra toàn cầu, họ bán hàng ở nước ngoài, nhưng sản xuất và kiểm
soát hoạt động của mình tại quê nhà. Theodore Levitt, trong tạp chí Harvard Business Review
năm 1983, đã đúc kết: dựa vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và cơ sở sản xuất ngay
tại nước nhà, các công ty này xuất khẩu sản phẩm đồng nhất đi khắp thế giới.
Nhưng đến đây cũng là lúc bắt đầu hình thành giai đoạn thứ hai của toàn cầu hóa. Trong giai
đoạn này, cả hoạt động kinh doanh và sản xuất được chuyển ra khắp địa cầu, nhưng tổng hành
dinh của công ty mẹ vẫn nắm chặt việc kiểm soát. Do muốn cắt giảm chi phí, các hãng lớn ở
phương Tây di chuyển phần lớn cơ sở sản xuất của họ sang các nước có mức lương thấp hơn.
Trong thập niên 1990, điều này đã góp phần tạo nên mức gia tăng nhanh chóng về đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Hiện nay chúng ta đang chứng kiến một sự dịch chuyển lớn về địa điểm của quyền kiểm soát
này. Ngày càng có nhiều công ty ĐQG chuyển hoạt động và quyền kiểm soát các chức năng kinh
doanh chủ chốt ra khỏi tổng hành dinh, theo gương của các công ty như IBM.
Mới đây, IBM đã mở một tổng hành dinh khu vực ở Singapore, với 1.000 nhân viên đảm trách
các hoạt động ngày càng phát triển trong vùng, và cho biết sẽ đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch các
chuyên gia ra khỏi Mỹ. Dự kiến trong năm 2004, hình thức này sẽ tăng tốc thành điều mà các
chuyên gia gọi là kỷ nguyên thứ ba của các công ty ĐQG, mà một số dấu hiệu có thể kể như sau:
* Ngày càng phân tán các tổng hành dinh. Các công ty lớn hiếm khi chuyển tông hành dinh
chính của họ từ nước này sang nước khác. Nhưng ngày càng có nhiều công ty thiết lập tông hành
dinh khu vực hay dời một số phòng ban sang nơi khác.
* Các qui trình kinh doanh chủ chốt ngày càng được chuyển sang các nước đang phát triển. Nhờ
các kỹ năng và mạng lưới công nghệ thông tin cho việc truyền bá thông tin kỹ thuật số ngày càng

dễ dàng, qui trình này ngày càng nhanh chóng. Một báo cáo mới đây của Hãng tư vấn Bain & Co
ước tính đến năm 2006 thị trường gia công dịch vụ cho nước ngoài (offshoring) ở Ấn Độ sẽ tăng
57% và thị trường ở Nga sẽ tăng 45%.
Hãng tư vấn Accenture dự báo sẽ có mức độ tăng trưởng rất mạnh về việc đưa các dịch vụ tài
chính kế toán ra gia công ở nước ngoài; những công việc đó từ lâu không còn thuộc về tông hành
dinh. Các công ty đang dần nhận ra rằng đưa loại công việc này ra gia công ở nước ngoài chỉ là
thay đổi quyền kiểm soát chứ không phải đánh mất quyền kiểm soát.
* Gia tăng hội nhập của các nhà quản lý có quốc tịch khác nhau. Càng lúc sẽ càng có nhiều tổng
giám đốc mang quốc tịch khác với quốc tịch của công ty mà họ làm việc. Hiện nay số này vẫn
còn rất hiếm. Tuy nhiên ở cấp kế cận - nguồn cung cấp các tổng giám đốc tương lai - ngày càng
có nhiều nhà quản lý xuất phát từ các quốc gia khác nhau.
* Gia tăng sử dụng hoạt động R&D từ các nguồn khác ngoài các phòng thí nghiệm của chính
công ty. Ví dụ, năm 2003 Hãng General Motors lắp một số xe hơi của mình với động cơ có thể
chạy xăng hoặc ethanol hay hỗn hợp của cả hai. Động cơ này được phát triển ở trung tâm công
nghệ ở Brazil của Delphi, một hãng Mỹ chuyên sản xuất linh kiện ôtô tự hào cho biết có trụ sở ở
Troy, Michigan, Paris, Tokyo và Sao Paulo.
Toàn cầu hoá và sức mạnh Mỹ
Nhiều người cho rằng quá trình toàn cầu hoá cũng tương đồng với Mỹ hoá, đây là quan
niệm phổ biến nhưng lại bị đơn giản hóa một cách thái quá.
Là siêu cường duy nhất trên thế giới, Hoa Kỳ thường được xem là lực đẩy đằng sau quá trình
toàn cầu hoá. Nhưng Joseph Nye - Hiệu trưởng Trường Hành chính Kenedy (thuộc Đại học
Harvard) - lập luận trong cuốn sách của mình, “Nghịch lý sức mạnh Mỹ”, toàn cầu hoá không
phải là một hiện tượng như người Mỹ và nhiều người nghĩ.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu với độc giả bài viết này, đăng trên tờ The Globalist.
Trước hết, nước Mỹ chính là sản phẩm của quá trình toàn cầu hoá thế kỷ 17-18, khi châu Âu tiến
hành mở rộng thuộc địa trên các châu lục khác. Nhưng cũng không sai khi nói rằng nước Mỹ
hiện đang là một người khổng lồ trong giai đoạn toàn cầu hoá đương đại.
Hình minh họa. Nguồn ảnh: interarteonline.com
Chủ quyền ẩm thực
Có thể hiểu được - và cũng có lẽ khó tránh khỏi - việc những người bất mãn với quyền lực và

văn hoá thịnh hành của Mỹ - dùng chủ nghĩa dân tộc để chống lại nó. Hãy nhớ lại rằng, hồi
những năm 40, các quan chức Pháp đã tìm cách ban hành lệnh cấm Coca-cola – và mãi đến tận
năm 1953, thứ đồ uống này mới được phép bán tại Pháp.
Hoặc, xem lại trường hợp của José Bové - một nông dân chăn cừu ở Pháp (người từng trải qua
thời thơ ấu tại Berkeley, California). Ông đã trở thành anh hùng của nước Pháp và được báo chí
trên khắp toàn cầu nhắc đến trong năm 1990 bằng việc bảo vệ “chủ quyền ẩm thực” - thông qua
việc phá huỷ một nhà hàng Mc Donald. Không một ai buộc công chúng Pháp bước vào cánh cửa
vàng đó, nhưng sự thành công của Bové với giới truyền thông rõ ràng đã nói lên sự mâu thuẫn
trong tư tưởng văn hoá đối với nhiều thứ có xuất xứ Mỹ.

×