Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Tiểu luận môn tác phẩm báo chí NGÔN NGỮ TRONG tác PHẨM báo CHÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 44 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra an cách mạnh mẹ trên Thế giới
như hiện Trong xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế
giới như hiệnnay, hoạt động thơng tin nói chung và báo chí nói private ngày
cang closing vai trò quan trong nay, hoạt động thơng tin nói chung và báo chí
nói riêng ngày càng đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội.trong đời
sống xã hội. Báo chí Truyền thơng đang thực sự có the Step conficts biến vào
theBáo chí truyền thơng đang thực sự có những bước đột biến vào những năm
đầu thực hiện chính sách mở cửa từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX (từ Đại hội VI)
mới thực sự đi vào width depth về cả lượng và chất.sự đi vào chiều sâu về cả
lượng và chất.
Trong hơn 20 năm thực hiện chính sách and route lỗi đổi mới Đăng ta
lạnh Đạo,Với hơn 20 năm thực hiện chính sách và đường lối đổi mới do Đảng
ta lãnh đạo, the Phương Tiến transfer message max them closing vai trò hết
sức quan trong trên the linh vuc:các phương tiện truyền thông đại chúng đóng
vai trị hết sức quan trọng trên các lĩnh vực:Thực hiện Nhiệm vụ quan tuyến
transfer point, route Lợi, chủ trương của Đăng, chính sách, Thực hiện nhiệm
vụ tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách,Pháp
Luật của Nhà nước, phát hiện và phản ảnh tâm tư, nguyên vọng của quần
them the pháp luật của Nhà nước; phát hiện và phản ánh tâm tư, nguyện vọng
của quần chúng; những vấn đề Bức xúc trong đời sống xã hội; Kiên quyết đấu
tranh chống tham những, tiêu cựcvấn đề bức xúc trong đời sống xã hội; kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,liệu quan lãng phí và suy thoai
Đạo Đức, lỗi sống ... Báo chí cũng đã góp phần educational quan liêu lãng phí
và suy thối đạo đức, lối sống… Báo chí cũng đã góp phần giáo dụctransfer
system tốt đẹp của dân tộc, transport network system cách, góp phần nang cao
dân trí, đáp truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách mạng, góp
phần nâng cao dân trí, đápứng nhu cầu ngày cang cao, phong phú và đa as về
1



đời sống tinh thần của nhân dân ... ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và
đa dạng về đời sống tinh thần của nhân dân…
Thiên đường vắng canh the vấn đề trên, báo chí nước ta trong q trình
đổi mới và hội nhập đãThực hiện the Nhiệm vụ quan trong đó có sự closing
góp của tất cả các loại hình báo

Tìm hiểu về Ngơncủa báo ở Việt

Nam thời kỳ đổi mới trong quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa
ngữ của báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới trong quá trình giao lưu, tiếp nhận
và hội nhập văn hóaQuốc tế chính là góp phần tìm hiểu vai trị của báo chí nói
private and the Phương Tiến thơng tin quốc tế chính là góp phần tìm hiểu vai
trị của báo chí nói riêng và các phương tiện thơng tin2max them nói chung
trong q trình Đất Nước hội nhập mạnh tơi, also, qua đó nhận ra đại chúng
nói chung trong q trình đất nước hội nhập mạnh mẽ; qua đó nhận raand the
limit Khắc phục chế của q trình thơng tin trên báo tại Việt Nam trong giai
đoạn và khắc phục những hạn chế của quá trình sử dụng ngơn ngữ trên báo
chí Việt Nam trong giai đoạntiếp theo của quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội
nhập văn hóa Quốc Tế. tiếp theo của q trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập
văn hóa quốc tế.Độ cũng chính là the nội dung chủ elements is đề cập trong
tham luận này. Đồng thời tiểu luận cũng góp phần vào việc giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt.
Đó cũng chính là những nội dung chủ yếu được đề cập trong tiểu luận
này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu, nghiên cứu, làm rõ vai trị của ngơn ngữ báo chí trong thời
kỳ hiện nay.
- Qua việc tìm hiểu những thành tựu và hạn chế của việc sử dụng ngơn

ngữ trong tác phẩm báo chí sao cho hiệu quả, phục vụ cho môn học cũng như
công việc làm báo sau này của bản thân.

2


- Trang bị những kiến thức cơ bản về báo chí của nước ta hiện nay, có
cái nhìn nhìn tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của báo chí việt
nam, đặc biệt là ngơn ngữ báo in và báo mạng điện tử.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên tiểu luận thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
-

Đi vào phân tích vai trị của ngơn ngữ.

-

Cách thức sử dụng như thế nào cho hiệu quả.
- Đưa ra những dẫn chứng cụ thể làm nổi bật vai trò của ngơn

ngữ trong tác phẩm báo chí.
- Rút ra ưu, nhược điểm của việc sử dụng ngôn ngữ trong tác
phẩm báo chí hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm báo chí. Chủ yếu là báo in và báo
mạng điện tử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài này, tập trung đánh giá, phân tích vai trị, thành
tựu của việc sử dụng ngơn ngữ trong tác phẩm báo chí hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp thu thập và tìm kiếm thơng tin: Tập hợp, tìm kiếm

những thơng tin phục vụ cho bài tiểu luận trên các phương tiện thông tin đại
chúng như sách, báo, tạp chí…để thực hiện quá trình nghiên cứu đề tài.


Phương pháp khảo sát: Đây là phương pháp được sử dụng chủ

yếu để khảo sát các thông tin trên báo, các nguồn tin liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, những tác phẩm sử dụng ngôn ngữ hiệu quả.


Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê bảng số liệu, nội dung

liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm báo chí.


Phương pháp phân tích và tổng hợp: Dựa trên các tài liệu tham

khảo (sách, báo có liên quan đến đề tài), tiến hành phân tích, chọn lọc, những
3


thơng tin có liên quan để bổ sung cho nghiên cứu, đảm bảo cho tiểu luận có
cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn.



Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đối với các tài liệu thu thập

được, cần so sánh, đối chiếu, rút ra thơng tin chính xác và cần thiết.
5. Kết cấu
Gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục và hai
chương.

4


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƠN NGỮ BÁO CHÍ
I. Ngơn ngữ báo chí và một số khái niệm
1. Khái niệm ngôn ngữ
Theo từ điển Tiếng Việt giải nghĩa: “Ngôn ngữ là hệ thống những âm,
những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một
cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau.
2. Khái niệm ngơn ngữ báo chí
Trong các loại từ điển chưa có khái niệm riêng về “ngơn ngữ báo chí”.
Dựa vào phần giải nghĩa của Từ điển tiếng Việt vè ngôn ngữ, kết hợp với việc
trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ ứng dụng trên các tác phẩm báo chí cụ thể,
chúng tôi đưa ra một khái niệm ngôn ngữ báo chí như sau: “Ngơn ngữ báo chí
là tồn bộ các tín hiệu và các quy tắc kết hợp chúng mà nhà báo dùng để
chuyển tải thông tin trong tác phẩm báo chí.
3. Ngơn ngữ báo chí chuẩn mực
Để chuyển tải một nội dung thông tin đa dạng, trên một diện tích mặt
báo nhất định, chúng ta chỉ có một phương tiện gần như duy nhất đó là “ngơn
ngữ”. Ngơn ngữ báo chí có tác dụng trực tiếp và quyết định nhất tới hiệu quả
của thơng tin báo chí, do vậy ngơn ngữ báo chí trước hết phải là thứ ngơn ngữ
văn hóa chuẩn mực.
Chuẩn ở đây được xét trên hai phương diện: chuẩn phải mang tính chất

quy uwics xã hội, tức là phải được xã hội chấp nhận và sử dụng. Mặt khác,
chuẩn phải phù hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng
giai đoạn lịch sử.

5


II. Đặc tính cơ bản của ngơn ngữ báo chí
Như chúng ta dều biết, chức năng cơ bản của báo chí, có vai trị quan
trọng hàng đầu của báo chí là thơng tin. Báo chí phản ánh hiện thực thơng qua
việc đề cập các sự kiện. Khơng có sự kiện thì khơng thể có tin tức báo chí. Do
vậy, nét đặc trưng bao trùm của ngơn ngữ báo chí là có tính sự kiện.
Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngơn ngữ báo chí một loạt các tính
chất cụ thể sau:
1.

Tính chính xác

Ngơn ngữ của bất kì phong cách nào cũng phải đảm bảo tính chính xác.
Nhưng với ngơn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì
báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ
nhất về ngơn ngữ cũng có thể làm độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thơng tin,
nghĩa là có thể gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước
được.
Muốn sử dụng ngơn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ it
nhất 2 yêu cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là nắm
vững ngữ pháp; có vốn từ vựng rộng, chắc và không ngừng được trau dồi;
thành thạo về ngữ âm, hiểu biết về phong cách. Thứ hai phải bám sát các sự
kiện có thực và nguyên dạng để phản ánh, khơng tưởng tượng, thêm bớt. Hai
u cầu này có quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà rời xa

hiện thực thì ngơng ngữ có thể “kêu” nhưng rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm
nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ với độc giả.
Ngược lại, biết rõ về hiện thực, nhưng kém về ngơn ngữ thì cũng khơng thể
chuyển tải thơng tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đơi khi cịn
mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
Sử dụng ngơn từ một cách chính xác trong tác phẩm, nhà báo không chỉ
đạt hiệu quả giao tiếp cao mà cịn góp phần khơng nhỏ vào việc gìn giữ sự
trong sáng của Tiếng Việt.

6


Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm báo chí chỉ đơng tới mức
khơng xác định được họ (nhất là trẻ em) lại luôn xem các cơ quan báo chí là
“ngọn đèn chỉ dẫn” trong việc dùng ngơn từ, cho nên ngơn ngữ báo chí càng
hồn thiện thì Tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
2.

Tính cụ thể

Tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện
thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi
tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình đang là
người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới
trong tác phẩm của mình.
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí cịn nằm ở việc tạo ra sự
xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện
được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn với một khoảng khơng gian,
thời gian xác định; với những con người cũng xác định (có tên tuổi, nghề
nghiệp, chức vụ, giới tính...cụ thể). Đây là nguồn cội của sự thuyết phục, vì

nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thơng tin một cách dễ
dàng. Do đó, ngơn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu
trúc khơng xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như: “một người nào đó”, “ở
một nơi nào đó”, “vào khoảng”, “hình như”,.v..v..
3.

Tính đại chúng

Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi nguwoif trong xã
hội, khơng phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa
tuổi, giớ tính…, đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp
nhận thơng tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế,
ngơn ngữ báo chí phải là thứ ngơn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có
tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi khơng có nghĩa là dễ dãi,
thấp kém. Vì nói như nhà nghiên cứu ngơn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga
V.G. Kostomarov: “Ngơn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công
chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không cảm
7


thấy chán và một em bé có trình độ non nớt nhất cũng khơng cảm thấy khó
hiểu”. Với ngơn ngữ khơng có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho đối tượng
hạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào
mọi tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lsy
do khiến cho trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng thuật ngữ chuyên ngành
hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như từ ngữ vay mượn từ tiếng
nước ngồi.
4.

Tính ngắn gọn


Ngơn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dịng có thể làm lỗng
thơng tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe.
Thêm vào đó, nó cịn làm tốn thời gian vơ ích của cả hai bên: cho người viết,
vì anh ta sẽ khơng đáp ứng được nhu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời;
cho người đọc (người nghe), vì trong thời đại bùng nổ thơng tin, người ta luôn
cố gắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt.
Đấy còn là chưa kể đến việc viết dài dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là
các lỗi về sử dụng ngơn từ.
5.

Tính định lượng

Các tác phẩm báo chiscos tính định lượng về ngơ từ vì chúng thường bị
giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc
lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kĩ lưỡng, hợp lý để phản ánh
được đầy đủ lượng sự kiện mà không được phép vượt quá một lượng chữ nhất
định. Đối với những bài “không được đặt trước” biên tập viên buộc phải
chỉnh lý, cắt xét cho phù hợp với việc công bố. Rồi ngay trong số các cơ quan
đào tạo nhà báo cũng có khơng ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối tượng dự thi
phải thử nghiệm khả năng định lượng của mìn thơng qua việc viết một hay
một số văn bản độ dài cho sẵn.
Tính định lượng cảu ngơn ngữ báo chí giúp cho nàh báo rèn luyện được
thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhớ đó, họ có thể dễ dàng

8


thích nghi với mọi điều kiện thời gian cung như khơng gian cho việc cơng bố
chúng.

6.

Tính bình giá

Các tác phẩm báo chí khơng chỉ đưa ra thơng tin về các sự kiện, mà cịn
phải thể hiện cơng khai thái độc ủa tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình
giá (có lẽ trong các thể laoij báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là khơng có tình
bình giá, tức là tác giả thể hiện sâc thái trung tính). Sự bình giá này có thể là
tích cực mà cũng có thể là tiêu cực, song trong bất kì tình huống nào nó cũng
được biểu đạt qua ngơn từ.
Chẳng hạn, nhiều bài báo đã bộc ộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay
từ tiêu đề như : “Góc tối ở thành phố cảng”, “Bông hoa thủ đô giữa rừng núi
Tây Bắc”, “Lặng lẽ quá…liên hoan phim”, “Giai điệu buồn của một đêm nhạc
trẻ”, “Đó cũng là một cách sống đẹp”…Còn trong các phần khác (cả mở đầu,
triển khai, lẫn kết thúc) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết
còn gặp thường xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận,
phóng sự, ghi chép, kí…
7.

Tính biểu cảm

Tính biểu cảm trong ngơn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ
ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động
hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ tác phẩm
“Sơng Tơ mà khơng lịch” (Văn hóa, 17/5/1999).
Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngơn ngữ báo chí là vơ cùng phong
phú và đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao…,là sự
vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ
thuật, là lối chơi chữ, nói lái, dùng ẩn dụ,v.v…hay chỉ đơn giản là việc thể
hiện sự bình giá có tính chất cá nhân.

Nếu ngơn ngữ báo chí khơng có tính biểu cảm, những thơng tin khơ khan
mà nó chuyển tải khó có thể được cơng chúng tiếp nhận như mong muốn, vì
chúng mới chỉ tác động vào lí trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân
9


của cái hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn cảu
người nghe, người đọc, làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất
định, để rồi từ đó thực hiện những hành động mà người viết vẫn chời đợi.
8.

Tính khn mẫu

Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm “khuôn mẫu”. Đó là những cơng
thức ngơn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hóa nhu cầu
thơn tin, làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ
cũng đơn nghiwax và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm
nhiều loại và cso mặt trong nhiều phong cách chức năng của ngơn ngữa.
Chẳng hạn trong văn phong báo chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường
đung các khuôn mẫu như “TTXVN, ngày…người phát ngôn Bộ ngoại giao
….cho biết…”
Giao tiếp báo chí khơng thể thiếu khn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và
cơng sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việ đưa tin, cập nhật, tức thời.
Song khác với khn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa
học, khn mẫu báo chí khơng cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt,
uyển chuyển. Chằng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải 6 câu hỏi:
“Ai? Cái gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? Nhưng thứ tự trả lời cho
các câu hỏi đó có thể được sắp xếp khác nhau tùy thuộc vào từng hồn cảnh
giao tiếp cụ thể.
Bên cạnh đó các yếu tố cấu thành ngơn ngữ báo chí lại ln kết hợp hài

hịa với các thành tố biểu cảm cho nên ngơn ngữ báo chí thường rất mềm mại,
hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn
bản hành chính, là nơi người ta sử dụng thuần nhất các thành tố mà thôi.
Theo giáo trình “Tác phẩm báo chí đại cương”, Ts. Nguyễn Thị Thoa
đưa ra hai đặc tính cơ bản của ngơn ngữ báo chí.
1.

Tính khn mẫu (chính xác và hàm súc)

 Chính xác : Ngơn ngữ phải phản ánh đúng bản chất của sự vật trong
từng thời khắc, trong từng bối cảnh nhất định. Dù dùng ngôn ngữ nào (văn
10


bản, hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, âm thanh…) thì tác phẩm báo chí được tạo
ra vẫn phải là một văn bản đơn nghĩa, dễ cho mọi tầng lớp công chúng.
 Hàm súc: Trong một tác phẩm báo chí, thơng tin phải được dồn nén
một lượng tối đa trong một đơn vị ngôn ngữ hạn hẹp để áp dụng nhu cầu
thơng tin của cơng chúng “thiếu thời gian”. Chính vì vậy, để các nhà báo
thường chọn lọc những từ ngữ thật đắt, thật trúng để gói thơng tin sao cho vừa
gọn vừa nhẹ, vừa dễ hiểu, vừa đê thực hiện được chức năng giao tiếp “lí trí”
cao nhất.
Ví dụ: Theo bài “Cuốn phim khủng bố” đã lên mạng của tác giả Thủy
Tùng, đăng trên Tuổi trẻ Tp. HCM, ngày 29/3/2008: “ Nghị sĩ cánh hữu Hà
Lan Geert Wilders đã bất ngờ đưa cuốn phim chống Hồi giáo dài 17 phút của
ông lên trang web www.liveleak.com, sau khi đã bị một số trang mạng khác
từ chối. Cuốn phim có tên Fitna, theo tiếng Ả Rập có nghĩa "Xung đột dân
sự" được phát bằng hai bản tiếng Anh và tiếng Hà Lan.
Chỉ sau bốn giờ đã có hàng triệu người lên mạng xem hai bản phim này,
thậm chí có người kịp thực hiện và phát lên LiveLeak một số clip ghi lại cảm

nhận và suy nghĩ sau khi xem Fitna. Có người nghẹn ngào vì bộ phim nhuốm
đầy mùi bạo lực cho dù được núp dưới danh nghĩa chống bạo lực, kêu gọi hịa
hợp giữa những người Hồi giáo và phương Tây...”
2.

Tính biểu cảm: Dùng ngôn ngữ để biểu đạt những trạng thái

tình cảm của con người (trạng thái tâm lý: hỷ, nộ, ái, ố, cảm xúc, xúc cảm,
thái độ yêu - ghét; quan điểm chính trị; quan điểm thẩm mỹ: đẹp - xấu,…).
Ngơn ngữ biểu cảm có thể là ngơn ngữ hình ảnh, âm thanh, ngơn ngữ đời
thường, khẩu ngữ, phương ngữ, các biện pháp tu từ (ẩn dụ, so sánh, ví von,
liên tưởng, đối, tương phản,…).
Ví dụ: “Trong ngày cuối tuần vừa qua, chúng tôi theo đơn thư cầu cứu
của bạn đọc đã lên tại Khoa Bỏng - Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình và
Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện Trung ương Huế để ghi nhận tình trạng sức
khỏe của anh Trinh.
11


Anh sức rất yếu, đơi mắt như khơng cịn sức nữa nhìn chúng tơi, anh
thều thào qua hơi thở: “Xin các anh thương em cứu em để em về còn lo cơng
việc, lo cho cha mẹ”. Những vết bỏng có khắp toàn thân anh. Lâu lâu, vết
thương lại tứa máu làm anh rên lên. Tiếng đau của anh đã làm cho chúng tơi
khơng kìm được nước mắt.
Ths.BS. Lê Đình Phong, Phó Trưởng Khoa Bỏng, Trung tâm Chấn
thương Chỉnh hình và Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện Trung ương Huế người trực tiếp điều trị bệnh nhân cho anh Trinh cho biết: "Bệnh nhân nhập
viện ngày 10/8, sau 10 ngày cấp cứu tại Khoa Hồi sức đặc biệt, anh Trinh
được chuyển xuống Khoa Bỏng để điều trị. Bệnh nhân chỉ có khn mặt là
ngun vẹn, cịn lại tất cả da thịt đều bị hoại tử. Có tổng 70% vết bỏng ở cổ,
ngực, bụng, tầng sinh môn, tứ chi với 3 cấp độ bỏng 2,3,4. Bệnh nhân này rất

đáng thương khi đã trải qua 5 lần phẫu thuật, 10 lần chuyền máu. Với độ bỏng
nặng như thế này, nếu không tiếp tục chữa chạy hợp lý, bệnh nhân khó lịng
qua khỏi" (Đại Dương, Thắt lịng trước tình cảnh nguy kịch của anh công
nhân bị bỏng nặng , Dantri.com.vn, thứ Ba, 06/11/2012).
Hai nghiên cứu có những nét tương đồng với nhau. Tuy nhiên cách diễn
đạt của Ts. Nguyễn Thị Thoa ngắn gọn hơn, nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ ý
nghĩa, nội dung đặc trưng của ngơn ngữ báo chí.
III. Các thành phần ngơn ngữ trong tác phẩm báo chí
Căn cứ để phân loại:
Có nhiều góc độ đê tiếp cận khi nghiên cứu các thành phần ngơn ngữ
trong tác phẩm báo chí. Từ góc độ đơn vị lời nói của các chủ thể phát ngôn
trong một sự việc, gồm: sự kiện; nhân vật trong sự kiện; nhà báo – vừa là
nhân chứng khách quan, (đôi khi) vừa là nhân chứng trong cuộc. Như vậy
trong tác phẩm báo chí có ba thành phần ngơn ngữ chính là: ngơn ngữ sự
kiện, ngơn ngữ nhân vật, và ngơn ngữ tác giả.
-

Các thành phần ngơn ngữ chính: Nhìn chung trong tác phẩm báo chí

có 3 thành phần ngơn ngữ chính sau:
12


 Ngôn ngữ sự kiện
 Ngôn ngữ nhân vật
 Ngôn ngữ tác giả
-

Ngôn ngữ sự kiện: “phản ánh được xem là một thuộc tính phổ biến


của vật chất”.
Sự kiện khơng thể “tự kể” bằng ngôn ngữ, mà nhà báo phải sử dụng “vỏ
ngôn ngữ” của con người để “tải” sự kiện, sao cho sự kiện cịn ngun dạng,
khơng bị hiểu sai về bản chất. Có thể hiểu ngơn ngữ sự kiện chính là phát
ngơn vơ chủ thể (sự kiện khơng thể khởi phát trực tiếp được, mà tồn bộ
thơng tin của sự việc được “vỏ ngôn ngữ” chuyển tải nguyên dạng gồm: tên
đất, tên người, thời gian, không gian, con số, bảng biểu, hồ sơ, thư tịch, văn
kiện, chi tiết, tình tiết của diễn biến…).
Ví dụ: “Lễ giỗ tổ lần thứ 54 của vua Thành Thái được Hội đồng Nguyễn
Phước tộc tổ chức hôm 24/3 (1954 – 2008) tại An Lăng – khu lăng mộ ba vua
Dục Đức, thành Thái, Duy Tân – TP. Huế.
Lễ giỗ được bắt đầu bằng đám rước từ điện Long Ân sang mộ vua cách
khoảng 200m để làm lễ dâng hương. Chánh lễ lại tiếp tục diễn ra tại điện
Long Ân, nơi thờ chính của ba vua.” (Thái Lộc, Giỡ vua Thành Thái, Tuổi trẻ
cuối tuần, ngày 30/3/2008).
-

Ngơn ngữ nhân vật: là lời nói của các nhân chứng trực tiếp và gián

tiếp trong sự việc. Lời nói của nhân vật thường mang đậm phong cách vùng
miền, “khẩu khí” cá nhân và thể hiện rõ địa vị xã hội của người nói.
Ví dụ: “Ths.BS. Lê Đình Phong, Phó Trưởng Khoa Bỏng, Trung tâm
Chấn thương Chỉnh hình và Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện Trung ương Huế
- người trực tiếp điều trị bệnh nhân cho anh Trinh cho biết: "Bệnh nhân nhập
viện ngày 10/8, sau 10 ngày cấp cứu tại Khoa Hồi sức đặc biệt, anh Trinh
được chuyển xuống Khoa Bỏng để điều trị. Bệnh nhân chỉ có khn mặt là
ngun vẹn, cịn lại tất cả da thịt đều bị hoại tử. Có tổng 70% vết bỏng ở cổ,
ngực, bụng, tầng sinh môn, tứ chi với 3 cấp độ bỏng 2,3,4. Bệnh nhân này rất
13



đáng thương khi đã trải qua 5 lần phẫu thuật, 10 lần chuyền máu. Với độ bỏng
nặng như thế này, nếu không tiếp tục chữa chạy hợp lý, bệnh nhân khó lịng
qua khỏi.” (Đại Dương, Thắt lịng trước tình cảnh nguy kịch của anh công
nhân bị bỏng nặng , Dantri.com.vn, thứ Ba, 06/11/2012).
-

Ngôn ngữ tác giả: Nhà báo tái hiện sự kiện – những điều mắt thấy,

tai nghe, những lời kể - bằng trải nghiệm của mình, có thể trực tiếp, có thể
gián tiếp. Ngơn ngữ tác giả đóng vai trò tổ chức và chỉ đạo đối với các thành
phần ngôn ngữ khác.
IV. Những lỗi ngôn ngữ thường gặp trong tác phẩm báo chí
- Lỗi chính tả
- Lỗi câu
- Thiếu từ
- Từ ngữ thơ tục, nói q, khó hiểu
- Từ ngữ sáo mịn, rập khn

14


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ CÁCH KHẮC PHỤC VẤN
ĐỀ SỬ DỤNG NGƠN NGỮ TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY
1.

Trên báo mạng, phần lớn mắc lỗi sử dụng ngôn ngữ nằm ở tít

báo
Là một loại hình báo chí, một phương tiện truyền thông đại chúng, báo

mạng điện tử với những ưu thế riêng đang có xu hướng phát triển mạnh cùng
với sự bùng nổ của Internet. Trong các thành tố cấu tạo nên một tác phẩm báo
chí thì tít (title, tên bài, đầu đề) là một thành tố mà độc giả đọc trước tiên.
Nhiều khi nó quyết định số phận của bài báo rằng độc giả có tiếp tục đọc hay
không...Và việc sai lệch chuẩn ngôn ngữ phần lớn mắc ở tít báo.
Trên nhiều báo mạng gần đây, các từ "nóng", "bỏng", "nóng bỏng",
"bỏng mắt", "đốt cháy", "ngạt thở", "hoa mắt", "điếng người", "đứng tim",
"rụng rời", "khuynh đảo", "thiêu đốt con tim"… viết về các người mẫu đã
xuất hiện với tần suất rất lớn.
Về các người mẫu, diễn viên điện ảnh thế giới, sau đây là các tít bài xuất
hiện đồng thời với tần suất cao không kém trên nhiều trang báo mạng trong
tháng 8-2011: "Thân hình nồng cháy", "Thân hình bỏng cháy", "Sức hấp
dẫn trên thân hình gợi cảm", "Thôi miên những đường cong", "Mượt
mà những đường cong", "Thân hình hừng hực lửa"…
Riêng về mảng "nội y", các kiểu giật tít ở các báo trên cũng "nóng"
khơng kém. Chẳng hạn: "Siêu mẫu nội y nóng bỏng", "Nàng chúa tuyết
gợi cảm với nội y", "Sức cuốn hút khó cưỡng", "Nhìn là mê"…
Đến phần về "gị bồng đảo" thì các tít bài được "giật" không những
không kém phần bay bổng mà cịn "chát chúa" hơn, với tất cả những gì mà
người viết có thể tưởng tượng được. Đơn cử như các tít: "Hồng Oanh - cặp
tuyết lê mê hồn", "Gị bồng đảo tuyệt trần", "Nét căng trịn quyến rũ",
"Núi đơi" tuyệt mỹ", "Khn ngực trần tuyệt hảo", "Khn trăng táo
bạo", "Vịng một trong mơ"…

15


Cùng với các mỹ từ đó, các từ "chói lóa", "thiêu đốt", "thiêu cháy", "rực
lửa" cũng được bạn đọc bắt gặp thường xuyên trong các tít bài báo như "Đẹp
rạng ngời và chói lóa", “Dàn kiều nữ Paragoay thiêu đốt Copa America",

"Vẻ đẹp khuynh đảo xứ hoa anh đào", "Thiên thần tóc vàng rực lửa" …
Tít thiếu dấu câu: Trưởng giải V-League: Tôi như trút được gánh nặng"
Sửa: Trưởng giải V-League: “Tôi như trút được gánh nặng"
Vietnam Idol: Chiến thuật hông minh của Hương Giang bị chê tơi bời
Sửa: Vietnam Idol: Chiến thuật thông minh của Hương Giang bị chê tơi
bời
Các cựu binh bị thất sủng ở tuyển Việt Nam
Sửa: Các cựu binh bị thất sủng ở đội tuyển Việt Nam
Những tít mơ hồ về nghĩa:
Cơng sở: Mùa du lịch, mùa... tòm tem: phapluatxahoi.vn 10:34 AM Thứ
năm, ngày 12 tháng bảy năm 2012- Chuyên mụcĐời sống|
Chelsea 5-4 M.U: Nghẹt thở
Cảnh giác với thủ đoạn giả Cảnh sát chiếm đoạt tài sản
Không để tuổi mới lớn bơ vơ trong khủng hoảng
Corolla và Vios “nội” có thể mắc lỗi cơng tắc điện
Djokovic - Berdych: Không thể ngờ (Thượng Hải Masters)
Bồ Đào Nha bất ngờ bị Nga cho “phơi áo”
Khi Sao Việt phối khăn sến súa
Mỹ nhân Việt bị gắn mác sến sẩm

16


Lỗi chính tả: "Học phí" làm mgười (MTO 11 - 9/11/2012) trên kênh
Mực Tím Online . Sửa lại: “ Học phí làm người”.
Lỗi viết tắt:
 ĐT Việt Nam mỏi mắt đi tìm thủ lĩnh
 ĐT Việt Nam: Những nét tươi sáng xuất hiện
 Loạn học sinh đi xe máy: CS bắt, phụ huynh xin
Hàng loạt tít bài rập khn:

 Thực tập khơng lương – có nên chăng? - NDHMoney.vn
www.baomoi.com › Giáo dục › Học bổng - Du học
 Có nên chăng: Học yếu phải nộp phạt tiền?
ptdtnt-cumgar-daklak.edu.vn/index.php?... - Translate this page
Có nên chăng: Học yếu phải nộp phạt tiền? Viết bởi Administrator. PDF.
In Email. Học sinh dân tộc nội trú được tuyển chọn; Nhà nước đầu tư cơ sở
vật chất; ...
 Hóa trang cho thương hiệu - Có nên chăng? - FTUNEWS | Trang
tin ...
www.ftunews.com › ... › Kiến thức kinh doanh  Xưng “tơi” trên giảng đường - có nên chăng?
www.songtre.tv › Home › Diễn đàn trẻ - Xưng “tơi” trên giảng đường có nên chăng? Thứ năm, 21 Tháng 6 2012 23:21.
 Có nên chăng mở 1 Server mới chỉ tồn Vip 0?
forum.thuyhuonline.com/showthread.php?t=8494 - 25 Tháng Chín 2012
 Dân Làm Báo Blog: Có nên chăng? Linh mục cấm thắp nến
cầu ...
danlambaovn.blogspot.com/.../co-nen-chang-linh-... 7 Tháng Chín 2011
17


 Chế tạo “GPS nội” – có nên chăng?
www.tinmoi.vn/che-tao-gps-noi-co-nen-chang-10... 18 Tháng Sáu 2012
 Thực tập khơng lương – có nên chăng? | NDHMoney.vn
ndhmoney.vn/.../thuc-tap-khong-luong-–-co-nen-... 30 Tháng Năm 2012

Từ khóa “Cơng nghệ” hoặc “ Công nghệ lăng xê” được các báo sử dụng
rập khuôn khiến người đọc cảm thấy nhàm chán trước những thông tin giống
nhau.:
Công nghệ

“luộc” điện thoại di Thiều Gia, Thanh niên

động
ngày 4/3/2005
“luộc” xe

Xuân Toàn, thanh niên
ngày 29/7/2005

“chài giai”

Chi sơn, An ninh thế giới,
số 52 tháng 11/2005

Công nghệ
Công nghệ
Lăng xê của “sao”

Ngô Nguyệt Hữu, An
Công nghệ
ninh thế giới, ngày
3/4/2010
(tham khảo giáo trình Tác phẩm báo chí đại cương)
Cơng nghệ lăng xê của “sao”

www.cand.com.vn/vi-VN/vanhoa

Thời loạn của công nghệ lăng xê

vietbao.vn/Giai-tri/Thoi-loan-cuacong...xe

18



Sao Hàn và công nghệ lăng xê: kenh14.vn/.../sao-han-va-cong-nghelang-xe-than...
Thành công lắm, thất bại nhiều ...
Công nghệ lăng xê thổi phồng phá nld.com.vn/.../cong-nghe-lang-xe-thoiphong-pha...
sản? - Báo Người Lao Động
Việt Tú “mổ xẻ” chuyện công www.vietgiaitri.com
nghệ lăng xê
Sách ăn khách nhờ công nghệ giaitri.vnexpress.net/.../sach-an-khachlăng xê - VnExpress Giải Trí
nho-cong-n...
Cơng nghệ lăng xê ca sĩ ngày càng giaitri.vnexpress.net/...sao/.../congnghe-lang-xe-c...
khốn đốn - VnExpress Giải Trí

Thực tế cho thấy, nhiều người dùng sai từ do hiểu sai nghĩa, hoặc lười tư
duy, có thói quen dùng từ tùy tiện. Một số nhà báo, phóng viên lại lạm dụng
tiếng Anh hoặc tự ý pha trộn các ngôn ngữ khác cùng tiếng Việt trong bài viết
của mình, bỏ qua các quy tắc về ngữ pháp, ngữ nghĩa, trình bày văn bản.
Cùng với sự phát triển của Internet và vai trò ngày càng quan trọng của tiếng
Anh trong công việc và cuộc sống, tình trạng này càng phổ biến hơn trên báo
chí, đặc biệt là các tờ báo dành cho giới trẻ.
Thử truy cập vào Kenh14.vn - một trang tin điện tử nổi tiếng trong lứa
tuổi “teen”, bạn đọc có thể sẽ ngỡ ngàng và chống ngợp trước những tít bài,
tiêu mục mình đang xem: “ Lạ và fun”, “Ciné”, “Musik”, “2-tek”. Thay vì
sử dụng tiếng Việt hoặc tiếng Anh (cho những từ tiếng Việt chưa có), trang tin
này đã tùy tiện pha trộn hai ngơn ngữ Anh-Việt, thậm chí “sáng tạo” ra những
từ khơng có trong từ điển ngơn ngữ của bất cứ nước nào.
2.

Trên báo in, lỗi sử dụng ngôn ngữ khó hiểu thường gặp nhất


Những từ lóng vốn chỉ nên sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày nay lại
tràn lan trên mặt báo, kể cả trên các ấn phẩm báo in. Ngay cả Hoa học trò –
19


một ấn phẩm tên tuổi gắn bó với nhiều thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam, là
tờ báo do Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh làm cơ quan chủ quản cũng
nằm trong tình trạng tương tự. Những từ vựng “u thích” của tờ báo này là:
“tình u gà bơng” (tình u học trị), “xìkul” (style – cool: phong cách,
lịch lãm), “kut3” (cute: đáng yêu), “hạt dẻ” (giá rẻ), “chim cú” (cay cú)…
Có lẽ, ngồi các độc giả thân thuộc với tờ báo, chẳng có ai hiểu hết những từ
ngữ lạ lùng khơng có trong từ điển này!

Ngơn ngữ sử dụng trên báo Hoa học trò

20


Ngơn ngữ trên báo Hoa học trị

“hội đầu keo” thực chất là chỉ hội con trai. Tiêu đề trên báo Hoa học trò

21


Đầu đề giật gân trên báo sinh viên việt Nam
Việc lạm dụng tiếng nước ngoài cũng diễn ra trên báo in như:
Trên báo Bóng Đá: “Khơng ai có thể chê trách Arsenal chiến đấu với
tinh thần Never-say-die như ở trận thắng Botton 3-2” (trang 12, ngày
31/3/2008). Hoặc “Giggs đã solo tạo nên những bàn thắng…” (trang 24 ngày

29/01/2008).
Bác Hồ từng phê phán bệnh sính dùng từ nước ngồi của báo chí. Ví dụ
“tên lửa” lại viết là “hỏa tiễn”, “máy bay” thì dùng “phi cơ”…Như thế là tự
làm nghèo ngơn ngữ vốn có của mình.
3.

Cách khắc phục

Nói đến bậc thầy sử dụng ngơn ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
việt đầu tiên phải kể đến Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm “Cách viết” Bác đã
căn dặn các nhà báo: “chớ ham dùng chữ” và “phải viết gọn gàng, rõ ràng,
vắn tắt. Nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đi” [21,Tr.189]. Người
cịn căn dặn nhà báo: “Phải ghi chép cẩn thận. Phải nghe rõ, , suy cho kỹ và
viết cho đúng”.
22


Nếu như phóng viên, nhà báo nào của chúng ta cũng làm được như lời
bác dạy thì chắc chắn sẽ khơng cịn hiện tượng mắc lỗi, chắc chắn sẽ có
những tác phẩm thực sự giá trị. Và việc sử dụng ngơn ngữ chuẩn mực trên
báo chí cũng góp phần to lớn vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

KẾT LUẬN
Nói đến vẻ đẹp của ngơn ngữ - một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc, ca
dao từng có câu: "Vàng thì thử lửa, thử than. Chng kêu thử tiếng, người
ngoan thử lời", hay "Người thanh tiếng nói cũng thanh". Bác Hồ cũng đã viết
rằng: "Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng q báu của dân
tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phát triển ngày một
rộng khắp".
Qua hệ thống lí thuyết và khảo sát thực tế, đã cho chúng ta thấy một

phần thực trạng sử dụng ngơn ngữ báo chí Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nghề báo khơng được phép cẩu thả dù trong hồn cảnh nào bởi chỉ một
thoáng lơ đãng, một lần cả tin, một việc vội vàng,…và đặc biệt là không thận
trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ đều dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Báo
chí tác động lớn tới tư tưởng và suy nghĩ của độc giả. Có một thời, độc giả đã
xem báo chí là chuẩn mực về ngơn ngữ. Chính vì vậy, việc sử dụng ngơn ngữ
23


một cách chính các và hiệu quả trên báo chí là yêu cầu vô cùng quan trọng đối
với những người làm báo.
Bài tiểu luận với những ví dụ cụ thể chỉ là một góc nhìn nhỏ về tình
trạng chung nhưng cũng phần nào cho thấy được ưu điểm, hạn chế của việc
sử dụng ngôn ngữ trên báo in và báo mạng điện tử hiện nay.

24


PHỤ LỤC
NHỮNG BÀI ĐĂNG BÁO TRONG THÁNG 10 VÀ THÁNG 11
1.

“Chương trình: "Định hướng của sinh viên trong bối cảnh

kinh tế tồn cầu" đã diễn ra rất thành cơng” đăng trên Web
ThaiHabooks:

/>
trinh:-Dinh-huong-cua-sinh-vien-trong-boi-canh-kinh-te-toan-cau/


Chương trình: "Định hướng của sinh viên trong bối cảnh
kinh tế tồn cầu" đã diễn ra rất thành cơng

[Thaihabooks] Chương trình Định hướng cho sinh viên trong bối cảnh
nền kinh tế toàn cầu diễn ra từ 18h00 đến 20h30 ngày 17/10/2012 tại Hội
trường 10 – 12 – Trường Đại học kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội.
Chương trình Định hướng cho sinh viên trong bối cảnh nền kinh tế toàn
cầu diễn ra từ 18h00 đến 20h30 ngày 17/10/2012 tại Hội trường 10 – 12 –
Trường Đại học kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội. Nhằm giúp các bạn sinh viên
khối ngành kinh tế có những định hướng phù hợp cho tương lai trong bối
cảnh nền kinh tế thế giới với rất nhiều những thách thức và cơ hội. Chương
trình được tài trợ bởi Công ty CP Sách Thái Hà, Cơng ty Vinabull và Các chi
hội Hội sinh viên khóa K57, ĐH Kinh Tế, ĐH Quốc gia Hà Nội .

25


×