Câu 1: Tình hình phát triển của báo in hiện nay.
* Khái niệm: Báo chí là thuật ngữ dùng để chỉ một
loại hình truyền thông đại chúng hiện đại mang tính định
kì, thông tin thời sự các sự kiện, vấn đề đời sống xà hội,
thuật ngữ báo chí đợc hiểu ở 2 góc độ:
Theo khởi thuỷ, thuật ngữ báo chí đợc sử dụng để chỉ
loại hình báo in.
Theo sự phát triển của báo chí hiện đại thuật ngữ báo
chí còn dùng để chỉ các loại hình báo chí bao gồm: Báo in,
phát thanh, truyền hình, báo ảnh, báo mạng.
* Quá trình ra đời và phát triển.
Các ấn phẩm, tiền thân của báo chí đợc xuất hiện từ trớc công nguyên với t cách là các bản tin những kí hiệu hình
hài chép tay, khắc trên vỏ cây, đất nung hoặc trên da thú.
Từ 4000 năm trớc công nguyên khi đời sống nông nghiệp phát
triển và ổn định đà hình thành các /////// Ai Cập,
Mesopotania, sau đó là ở Trung đông Tây á, các bản thông
báo có niên đại từ thời kỳ này đà đợc phát hiện. Thế kỉ XII
khi cuộc thai nghén t sản tích cực cựa quậy trong lòng chế
độ phong kiến, hình thức bản tin, truyền tin ngày càng lộ
diện và đóng vai trò tích cực cho đến khi trở thành công cụ
t tởng quan trọng phá tan xiềng xích và ngai//////////// phong
kiến, chính sự ra đời và phát triển lâu dài phức tạp và
nhanh chóng của báo chí, các nhà lý luận báo chí đà phân
định có 4 loại hình báo chí trong lịch sử đó là: Báo chí
tăng lữ - phong kiến, báo chí t sản, báo chí vô sản xà hội chủ
nghĩa và báo chí tôn giáo.
1
Nhng những tờ báo hiện đại xuất bản định kỳ, đều
đặn số lợng lớn với hình hài hiện mạo trởng thành và nh
một công cụ chính trị đắc lực thì xuất hiện vào nửa đầu
thế kỉ XVI, nhất là trong cc chiÕn tranh §øc – Anh (1524 1526).Cã thĨ nãi rằng giai cấp t sản, xà hội t bản đà sáng tạo
ra và sử dụng báo chí hiện đại nh một vũ khí lợi hại hữu ích
trong việc giành giữ chính quyền và xây dựng xà hội phát
triển. Đáng chú ý là ở những thời khắc lịch sử, báo chí đÃ
thể hiện rõ vai trò, sứ mệnh của mình. vào đêm cách mạng
Pháp nổ ra hàng loạt tờ nhật báo ra đời để tuyên truyền lí tởng mục tiêu của cách mạng và cổ vũ hành động cách mạng
của nhân dân.
Khoa học kĩ thuật và công nghệ phát triển, trình
độ ////// hoá dân c đợc nâng cao, giao thông ngày một thông
thoáng cuộc đấu tranh chính trị t tởng và việc giành giữ
quyền lực chính trị ngày càng phức tạp, kinh tế thơng mại
và giao lu quốc tế giữa các quốc gia dân tộc ngày càng mở
mang là những điều kiện thúc đẩy kích thích sự phát triển
của báo chí.
Năm 1848 sự ra đời của bản Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản của Mác và Ăngghen, hệ t tởng mới ra đời hệ t tởng
cộng sản, xuất hiện dòng báo chí mới báo chí vô sản, báo
chí vô sản do Mác và Ăngghen khởi xớng ra đời trong lòng t
bản đà triệ để lợi dụng tự do báo chí t bản để truyền bá hệ
t tởng mới t tởng vô sản của giai cấp công nhân, là công cụ
đắc lực nhất trong việc đa giai cấp công nhân từ đấu
tranh kinh tế lên đấu tranh chính trị và từ đấu tranh chính
trị lên đấu tranh t tởng.
2
Năm 1917 với sự thắng lợi của cách mạng xà hội chủ
nghĩa tháng 10 Nga, nền báo chí vô sản xà hội chủ nghĩa
hình thành và phát triển với hệ thống các nớc xà hội chủ
nghĩa. Năm 1991 sau trận động đất chính trị, Liên Xô và
các nớc xà hội chủ nghĩa Đông Âu cũng nh hệ thống các níc x·
héi chđ nghÜa tan vì. ThÕ giíi tõ 2 cực, hai hệ thống trở thành
thế giới đa cực. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát
triển nh vũ bÃo. Trong bối cảnh đó cùng với nền kinh tế thị trờng, và toàn cầu hoá, báo chí ngày càng khởi sắc, phát triển
toàn diện, phát triển từng ngày.
Thế kỉ XVIII, XIX là thế kỉ phát triển bùng nổ của báo in
và các hÃng thông tấn, đà dẫn tới việc thành lập cá tập đoàn
báo chí, kinh doanh báo chí không chỉ đa lại những khoản
doanh thu lớn mà còn đủ sức hình thành chi phối d luận xÃ
hội trong nớc, trong khu vực và trên thế giới.
ở Việt Nam báo in ra đời cùng với đội quân xâm lợc
Pháp đặt chân lên Nam bộ tiến hành cuộc xâm lợc trên dải
đất hình chữ S này. Báo in tiếng Việt ở nớc ta ra đời muộn
đợc đánh dấu bằng từ Gia Định báo, xuất bản số đầu ngày
15 4 1856. Vai trò của báo chí tiếng Việt cuối thế kỉ XIX
những năm đầu thế kỉ XX gắn liền với tên tuổi nhà báo,
nhà văn hoá, nhà bác học Trơng Vĩnh Kí. Ngày 21 6 1925
tờ Thanh niên do Nguyễn ái Quốc sáng lập có vai trò và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của
cách mạng Việt Nam. Tờ báo này chuẩn bị về t tởng chính trị
và tổ chức tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, là tờ
báo đầu tiên khơi nguồn và đặt nền móng cho t tởng và lí
luận cách mạng Việt Nam bằng sự kết hợp già chủ nghÜa yªu
3
nớc và lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tuyên truyền cho đội
ngũ cán bộ cốt cán chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản, tiến tới
vận động và tổ chức quần chúng tiến hành thắng lợi của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập
dân tộc, khai sinh ra nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2
9 1945. Nh vậy, Nguyễn ái Quốc là ngời khai sinh nền báo
chí cách mạng Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam, số nhật báo chí chỉ có hơn 20 tê,
b¸o bi chiỊu chÝ cã 2 tê trong tỉng số gần 680 tờ cơ
quan báo in. Hiện nay số dầu báo bà ấn phẩm nhiều nhng
thông tin trùng lặp, chủ yếu là báo chí cả phát thanh truyền
hình đợc bao cấp nhờ nguồn tài chính trợ cấp của nhà nớc.
Một thực tế nữa ở nớc ta số công chúng báo chí tăng chậm,
còn tốc độ tăng đầu báo, ấn phẩm nhanh hơn. Do đó, công
chúng bị chia sẻ chỉ số phát hành của báo ngày càng tăng có
nghĩa là số bản in của báo kia giảm.
Nớc ta là một níc ®i theo con ®êng x· héi chđ nghÜa,
®ang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xà hội, vì vậy nớc
ta phải xây dựng một đất nớc giàu mạnh và phát triển có uy
tín trên trờng quốc tế, các nớc trên thế giới đều biết đến. Để
làm đợc điều đó vai trò của báo chí không nhỏ đà góp phần
nâng cao uy thế và địa vị của Việt Nam và ngày càng đợc
nớc biết đến. Vậy tình hình báo chí của Việt Nam phát
triển nh thế nào? xu hớng của nó ra sao?
Trớc hết phải nói đến tình hình phát triển của báo chí
Việt Nam phải nói đến toàn cầu hoá báo chí.
Toàn cầu hoá báo chí là khái niệm dùng để miêu tả các
thay đổi trong xà hội và nền kinh tế thế giới tạo ra bởi mỗi
4
liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia và các
tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá kinh tế trên
quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu
hoá đợc dùng để chỉ các tác động thơng mại nói chung và tự
do hoá thơng mại hay tự do thơng mại nói riêng.
Lịch sử của toàn cầu hoá: toàn cầu hoá theo nghĩa cổ
điển, bắt đầu vào khoảng thế kỉ thứ 15. Do có hai khía
cạnh kĩ thuật và quân sự chính trị, toàn cầu hoá sẽ có nhiều
lịch sử khác nhau. Thông thờng trong phạm vi của môn kinh
tế học và kinh tế chính trị học, toàn cầu hoá chỉ lf lịch sử
của việc trao đổi thơng mại không ngừng giữa các nớc dựa
trên cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao
đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru hơn.
Nói đến toàn cầu hoá là nói tới tác động 2 mặt đối với
mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xà hội. Trên lĩnh vực báo chí
có thể nhận thấy những tác động của toàn cầu hoá một cách
rõ rệt.
Về mặt tích cực: Toàn cầu hoá đà đem lại cho báo chí
Việt Nam một diện mạo mới với sự phát triển vợt bậc, về cả số
lợng, loại hình, chất lợng nội dung và hình thức, công nghệ
về sản xuất, phát hành Báo chí Việt Nam có thể đáp ứng
đợc nhu cầu đa dạng của công chúng. Nó tham gia tích cực
và hiệu quả vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của xà hội.
Về những tác động tiêu cực: cùng với quá trình toàn cầu
hoá, nhiều nớc nhỏ bị lệ thuộc vào sức mạnh kinh tế của các
tập đoàn t bản, kéo theo đó là những ảnh hởng tiêu cực tới
đời sống văn hoá xà hội thậm chí cả chính trị và luật pháp.
Lĩnh vực thông tin, báo chí là lĩnh vực rất nhạy cảm nên
5
cũng không tránh khỏi những thông tin thiếu nhạy bén phát
triển cục bộ, mất cân đối và lÃng phí trong hệ thống báo
chí ngành, địa phơng, tình trạng thiếu đồng bộ trong hệ
thống pháp luật. Chỉ đáng lo ngại nhiều nhất là xu hớng thơng mại hoá báo chí.
Ngoài những vấn đề nổi cộm thuộc lĩnh vực quản lí
hệ thống báo chí truyền thông, tính cạnh tranh về nhiều
mặt của nó, cần phải thấy rằng chúng ta đà lÃng phí rất lớn
từ việc phát triển rộng rÃi mà không tính đến đầu t chiều
sâu làm kìm hÃm sự phát triển của cả hệ thống truyền
thông theo yêu cầu phát triển của xà hội.
Sự phát triển của kinh tế và công nghệ thông tin trong
nền kinh tế toàn cầu đà tác động đến sự phát triển của báo
chí các nớc. Vai trò báo chí truyền thông đà trở thành yếu
tố năng động nhất của nền kinh tế toàn cầu hoá. Nhng một
thực tế do ảnh hởng của các tập đoàn báo chí xuyên quốc
gia đà làm các sản phẩm báo chí truyền thông của các nớc
này có phần bị lai giống rõ rệt. Tại Việt Nam các chơng
trình giải trí truyền hình mua bản quyền của Mĩ và các nớc
phơng Tây đà làm tăng doanh thu cho một số đài truyền
hình. Chiến lợc phát triển của báo chí Việt Nam cần phải
nhìn nhận xà hội với các cộng đồng là các nhóm ngời với
những mối quan tâm và sự cần thiết khác nhau chứ không
phải chỉ đơn thuần là một thị trờng thông tin. Tuy nhiên,
báo chí Việt Nam cũng có những thành công và tồn tại.
Về mặt thành công: đầu tiên phải kể đến là mức độ
xà hội hoá thông tin ở Việt Nam ở mức khá cao. Báo in Việt
Nam đà làm đợc việc ở Pháp, cho đến nay chỉ có tờ Đông
6
Pháp làm và duy trì đợc, đó là giá bản báo rất thấp. Đây là
điều kiện kiên quyết cho việc phổ cập thông tin và bình
đẳng hoá xà hội trên phơng diện thông tin. Thành công thứ
hai là trình độ đồng đều của các báo địa phơng. Tất
nhiên không kể đến số lợng đầu báo và tờ báo tại các thành
phố nh Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Báo in tại các địa phơng do đợc đầu t của chính quyền đà đáp ứng khá tốt nhu
cầu thông tin của ngời dân địa phơng một cách đầy đủ và
bình đẳng.
Tuy nhiên, sự tồn tại những mặt hạn chế của báo in Việt
Nam là không thể phủ nhận. Về phong cách báo chí, đa
phần các tin bài trên báo in Việt Nam dài thậm chí quá dài so
với dung lợng thông tin. Một phần là do cha có hạn ngạch chuẩn
về dung lợng, ngôn từ cho một thông tin đợc truyền tải. Hạn
chế thứ hai thể hiện ở tính lọc chọn thông tin. Nhiều tờ báo
có chung một cách đa tin và đa nhiều vè một dạng tin.
Những thách thức đặt ra đối với Báo chí Việt Nam. ĐÃ
xuất hiện tại Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là trong
những năm đổi mới, những tờ báo tồn tại nh một đơn vị
kinh doanh độc lập. Nghĩa là thay vì báo cao cấp trong
suốt một thời gian dài, tờ báo tự hạch toán thu chi và tự chịu
trách nhiệm về sự sống còn của mình. Đây là điều kiện
kiên quyết cho sự hình thành một thị trờng thông tin sôi
động tại Việt Nam. Và cũng xuất phát từ thực tế điều này,
tính cạnh tranh của một tờ báo trở thành tiêu chí quan trọng
trong các lĩnh vực phát triển của tờ báo. Vấn đề chất lợng
thông tin một yếu tố đợc coi là quyết định khả năng cạnh
tranh trên thị trờng thông tin. Đặc biệt trong thời gian toàn
7
cầu hoá, nghĩa là bất cứ ai cũng có thể tham gia vào xa lộ
thông tin, toàn cầu chỉ bằng một cách nhấp chuột, thì ban
biên tập và phóng viên của các tờ báo in càng phải đặt lên
hàng đầu câu hỏi: Làm thế nào để giữ đợc độc giả của
mình, đồng thời lại vợt trội trên bình diện tối đa của khả
năng truy cập thông tin trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Độc giả báo in Việt Nam dị ứng với quảng cáo trên tờ báo
quen thuộc của họ. Và một số tờ báo lâu đời mất dần độc
giả vì quảng cáo. Bởi lẽ ngay cả trên một nhật báo lớn có
truyền thống ở Việt Nam quảng cáo vẫn chiếm 95% thu
nhập. Vậy báo in Việt Nam phải làm gì để cân đối giữa
độc giả và nhà quảng cáo của mình? Câu trả lời là mở rộng
đối tợng độc giả và dung hoà cho việc thoả mÃn tâm lí của
độc giả trung thành và thu hút sự chú ý của thành phần độc
giả tiềm năng. Điều nay thờng đòi hỏi một cách tận quy mô
và đồng bộ trong cơ quan báo đặc biệt là ở bộ phận biên
tập. Ngời ta nói đến ngôn ngữ toàn cầu hoá với rất nhiều
nghĩa của từ này. Theo đó, tờ báo cần xây dựng một tín
hiệu ngôn ngữ đợc đón nhận bởi một tình yêu độc giả và
hội tụ đợc những yếu tố tích cực của quá trình hiện đại hoá
dân chúng hoá và thậm chí tây phơng hoá của tiếng Việt.
Thách thức lớn nhất đối với báo chí Việt Nam vẫn là vấn
đề đào tạo, một bộ phận rất lớn những ngời làm báo chí
hiện nay ở Việt Nam là những ngời đợc đào tạo trong hệ
thống giáo dục cũ, đóng cửa và khuôn phạm. Họ có thể tạo
nên những chuẩn mực về ngôn ngữ tri thức, nhng họ tỏ ra
khó thích nghi trong xu hớng du nhập những yếu tố ngôn
8
ngữ và biểu đạt bên ngoài. Với đội ngũ nhà báo này chúng ta
cần có những khoá đào tạo bồi dỡng và chuyên sâu.
Bên cạnh đó một đội ngũ những nhà báo trẻ đợc đào tạo
cơ bản đà đáp ứng phần nào yêu cầu đối với báo chí. Tuy
nhiên, đào tạo báo chí Việt Nam mới chỉ đặt những viên
gạch đầu tiên cho những việc xây dựng một hệ thống hiệu
quả và đạt đẳng cấp quốc tế hoặc khu vực thông qua việc
trao đổi, giao lu và nghiên cứu thực tế với các trung tâm
đào tạo báo chí trong khu vực và châu Âu. Nếu quá trình
này đợc đẩy mạnh chắc chắn đội ngũ những ngời làm báo
Việt Nam sẽ vợt qua đợc những thách thức mà toàn cầu hoá
đặt ra để trở thành một tác nhân quan trọng cho công
cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực tại Việt Nam.
ý nghĩa của toàn cầu hoá toàn cầu hoá có thể có
nghĩa là:
Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu dới tác
động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn
thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần
gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở
mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng nghi tình
hữu nghị giữa các công dân thế giới dẫn tới một nền văn
minh toàn cầu.
Toàn cầu hoá kinh tế thơng mại tự do và sự gia tăng
về quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp
ở các khu vực khác nhau trên thế giới ảnh hởng đến chủ
quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế.
Tác động tiêu cực của ác tập đoàn đa quốc gia tìm
kiếm lợi nhuận, việc sử dụng các phơng tiện luật lƯ vµ tµi
9
chính mạnh mẽ và tinh vi để vợt qua giới hạn của các tiêu
chuẩn và luật pháp địa phơng nhằm lợi dụng nhân công và
dịch vụ của các vùng phát triĨn cha ®ång ®Ịu lÉn nhau.
Sù lan réng cđa chđ nghĩa t bản từ các quốc gia phát
triển sang các quốc gia đang phát triển.
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một xu hớng,
hầu hết các xu hớng đó bắt đầu từ chiến tranh thế giới thứ
hai. Trong đó lu thông quốc tế ngày càng tăng /////// hàng
hoá, th«ng tin tiỊn tƯ, tỉ chøc hƯ thèng lt lƯ và cơ sở hạ
tầng cho việc lu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh
luận xung quanh sự tồn tại của một xu hớng.
Toàn cầu hoá tác động lên nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, là về khía cạnh kinh tế: Các tỉ chøc qc gia
sÏ mÊt dÇn qun lùc, qun lùc này sẽ chuyển về tay các tổ
chức đa phơng nh WTO, các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự
do đối với các giao dịch thơng mại, và thông qua các hiệp ớc
đa phơng hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để
điều chỉnh thơng mại quốc tế. Toàn cầu hoá cũng mang
hiện tợng chảy máu chất xám diễn ra nhiều và dễ dàng
hơn, kéo theo hiện tợng là nạn săn đầu ngời. Hai hiện tợng
này đà góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các
quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực
riêng biệt trong mỗi đất nớc.
Thứ hai, là về khía cạnh văn hoá - xà hội và ngôn ngữ:
toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu ủa trái ngợc ở mức độ cá
nhân hay dân tộc mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn
cha ngà ngũ, toàn cầu hoá sẽ tạo ra.
10
Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ đợc tiếp xúc với
các nền văn hoá và văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp
con ngời hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô
toàn cầu hoá hoạt động du lịch, đợc tiếp cận dễ dàng hơn
với giáo dục và văn hoá.
Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hởng của
các dòng chảy thơng mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế thông
tin tạo ra chính kiến và vị thế một vài tập đoàn truyền
thông lớn chủ yếu là phơng tây, có thể tạo ra thông tin đa
đến dẫn chứng sự độc quyền trong lĩnh vực văn hoá và
thông tin này đợc xem nh là một sự Mỹ hoá thế giới.
Nỗ lực che dấu những khác biệt về bản sắc thay vì để
lộ ra.
Cảm giác toàn cầu hoá sẽ mang lại sự tự do cá nhân,
ngay cả khi điều đó đi cùng với một sự đồng nhất hoá toàn
cầu một cách tơng đối.
ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hớng rõ ràng
hớng tới đồng nhất hoá việc dùng tiếng anh toàn cầu một
thứ tiếng anh nghèo nàn do những ngời không phải là Ănglo
Saxon dùng khi họ ở những ngoài. Sự phổ cập của tiếng anh
toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở cấp độ
thế giới thay vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối
hợp để có thể dẫn đến việc chọn một thứ tiếng có quy luật
rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng. Phần lớn các nớc đều chọn
tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nớc khác. Do sự
bắt trớc một cách máy móc và sự trơ ì chính trị tiếng anh
trở thành một ngôn ngữ thế giới và đợc gọi là tiếng Anh toàn
cầu.
11
Thứ ba là về khía cạnh chính trị: toàn cầu hoá sẽ làm
tăng thêm nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên
thế giới và cũng nh các cơ hội cho từng ngời. Tuy nhiên nó
đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ
thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên các khái niệm
nhà nớc quốc gia. Các thực thể này đà từng gây ra tác động
tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo
của nó. ảnh hởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá,
và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn
cầu ngày nay. Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một
toàn cầu hoá dân chủ thế chế nào đó. Kiện toàn cầu hoá
này dựa trên khái niệm công dân thế giới bằng cách kêu gọi
mọi ngời sống trên hành tinh này tham gia vào các quá trình
quyết định những việc liên quan đến họ mà không thông
qua một bức màn quốc tế. Các tổ chức phi chính phủ muốn
thay vào khoảng trống này, tuy nhiên do thiếu tính hợp pháp
và thờng thể hiện các t tởng đảng phái quá nhiều để có thể
đại diện tất cả các công dân trên thế giới.
* Thơng mại hoá báo chí cũng cần phải nói đến trong
tình hình phát triển của báo chí hiện nay.
Thơng mại hoá báo chí ý muốn nói đến xu hớng câu
khách lôi kéo độc giả về phía mình bằng cách săn tin, viết
những tin giật gân gợi tính tò mò. ở ngời đọc, hay những
bài báo khai thác chuyện đời t của các ngôi sao, những ngời
nổi tiếng, hoặc cảnh đời ngang trái chỉ nhằm mục đích
bán báo.
Giới báo chí chân chính đồng tình với những phê phán
xu hớng chiều theo thị hiếu tầm thờng cã ë mét sè tê b¸o, hä
12
lên án những tờ báo xa rời tôn chỉ mục đích, chỉ lo đăng
những cảnh nóng hay quảng cáo trá hình những bài viết
ca ngợi, thế nhng cụm từ thơng mại hoá không phản ánh đợc xu hớng này, ngợc lại nó có nguy cơ gây ra sự hiểu nhầm.
ở đây có 2 loại hình thơng mại hoá:
Một là thơng mại hoá báo chí theo hớng tích cực: ví dụ
nh một tờ báo nào đó viết các bài để thơng mại hoá tích
cực quảng cáo nhằm làm từ thiện nh xây dựng trờng học cho
trẻ em nghèo, ủng hộ đồng bào lũ lụt thì đó là những việc
nên làm. Những tờ báo đặt mục tiêu bán nhiều báo, đăng
nhiều quảng cáo để cân đối thu chi, để đầu t cho công
nghệ làm báo hiện đại thì không thể coi là thơng mại hoá
theo nghĩa xấu đợc.
Thứ hai là, thơng mại hoá báo chí theo hớng, tiêu cực:
Ví dụ nh tờ báo cố tình chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, kể
cả sử dụng kĩ thuật câu khách rẻ tiền thì đáng bị lên án,
hoặc có tính săn tin câu khách bằng những chuyện giật
gân, chuyện đời t của các ngôi sao ca nhạc hay một vị nào
đấy có tên tuổi nổi tiếng trong làng kinh doanh để gây
tính tò mò nhằm mục đích bán báo.
Qua 2 loại hình thơng mại hoá báo chí nói trên ta có thể
hiểu rõ thế nào là thơng mại hoá báo chí, một khi đà định
nghĩa thơng mại hoá báo chí bị hiểu sai thì nó sẽ ảnh hởng
rất lớn đến báo chí, nếu chỉ nhìn số lợng bán báo ra tăng vọt
mà phê phán tờ báo đang đi theo hớng thơng mại hoá thì
rõ ràng cụm từ này là một gáo nớc lạnh dội tắt lòng nhiệt
tình, sự yêu nghề, săn tin của các phóng viên nhà báo.
13
Bớc tiến lớn của Báo chí Việt Nam là tự chủ về tài chính,
có nghĩa là không phải dựa vào ngân sách nhà nớc, tiền bán
báo, tiền đăng quảng cáo dùng để bù đắp những khoản chi.
Dĩ nhiên vẫn còn những tờ báo vì nhiệm vụ con ngời hay vai
trò xà hội cần phải đợc nhà nớc cấp thêm ngân sách để hoạt
động.
Báo chí cũng giống nh các lĩnh vực khác, cần phải cạnh
tranh nhiều hơn nữa, nhng không có nghĩa là chạy theo xu
hớng thơng mại hoá báo chí. Báo chí cạnh tranh có nghĩa là
sẽ đa ra những thông tin chính xác, những bài viết sâu sắc,
điều này sẽ giúp loại trừ đợc các bài báo mang tính suy diễn,
bịa chuyện có cạnhtranh thì ngời đọc sẽ nhận đợc những
thông tin chính xác, bởi lẽ nếu báo này nói sai thì sẽ có báo
khác lên tiếng. Nếu có sự cạnh tranh lành mạnh nh vậy để
nâng cao chất lợng báo chí thì đâu phải là thơng mại hoá
chuyên nghiệp hoá cho báo chí Việt Nam.
Câu 2: Thực tế ở một toà soạn.
Toà soạn báo Hà Nội mới trụ sở 2
Địa chỉ trụ sở của Báo Hà Nội mới:
- Trụ sở 1: 44 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Néi
- Trơ së 2: 178 Quang Trung – Thµnh phè Hà Đông
- Văn phòng đại diện: 143 Nguyễn Thông, phờng 9,
quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
- Địa chỉ báo điện tử: www.hanoimoi.com.vn
1. Lịch sử ra đời và phát triển của báo Hà Nội
mới
14
- Tên đầu tiên của báo là: Báo Đảng Địa phơng ban
đầu có tên Tia sáng
- Một lần Bác đến thăm toà soạn và không đồng ý với cái
tên tia sáng (đâu là tia tối).
- Báo Hà Nội mới gồm 3 tờ báo gộp lại:
+ Báo Thời mới
+ Tin tức Hà Nội
+ 1 tờ chính thức của Thủ đô Hà Nội
- Sau 10 năm tờ Hà Nội nhập vào làm 1 (Thủ đô Hà Nội,
tin tức Hà Nội, thời mới).
- Năm 1969 Bác lấy tên là Hà Nội mới đây là lần đổi
tên cuối cùng. Cũng là tờ báo lấy tên tỉnh thành phố duy nhất
có 3 chữ.
- Cạnh tranh của báo Hà Nội mới.
+ Thờng xuyên đợc đài truyền hình Hà Nội, truyền
hình trung ơng điểm báo, điểm thông tin.
+ Có vai trò, uy tín ở thủ đô, thông tin sớm, khẳng
định tính thông tin chính thống của mình.
+ Cơn bÃo số 4 chỉ sau 2 ngày báo Hà Nội mới đà đi
tuyên truyền quyên góp đợc 2 tỉ 6 để chia cho bà con.
+ Khi cơn bÃo số 6 vừa xuất hiện phóng viên báo Hà Nội
mới đà đến đón bÃo rớc 2 ngày để lấy đợc thông tin nhanh
nhất.
2. Cơ cấu tổ chức của toà soạn báo Hà Nội mới
- Tổ chức toà soạn bao gồm:
Tổng biên tập báo hiện nay là: Đại tá Hồ Quang Lợi
nguyên phó tổng biên tập Báo Quân đội Nhân dân Việt
Nam.
15
Phó Tổng biên tập:
- Số lợng phóng viên 300 ngời.
3. Mô hình toà soạn:
Báo Hà Nội mới
Tổng biên tập
Phó TBT nội
dung
Phón
g viên
Bạn
đọc
CTV
In ấn, phát hành
Ban
th kí
Quản
g cáo
Phó TBT trị sự
Tổ
chức
nhân
sự
- Bộ phận chức năng:
+ Báo Hà Nội Mới gồm có : 17 phòng ban
+ Th ký toà soạn
+ Kinh tế
+ Nội dung xây dựng Đảng
+ Văn hoá - xà hội
+ Công tác xây dựng Đảng
+ Quốc tế
+ Bạn đọc
16
Kế
toán
tài vụ
+ Hµ Néi míi chđ nhËt
+ Hµ Néi Míi ci tuần
+ Hà Nội ngàn năm
+ Nông nghiệp nông thôn
+ Hà Nội mới điện tử
+ Văn phòng
+ Phòng Quảng cáo
+ Phòng phát hành
+ Phòng tài chính
+ Văn phòng đại diện thành phố Hồ Chí Minh
- Những điểm mạnh yếu của toà soạn báo Hà Nội mới.
Ngày 1/8/2008 khi địa phơng Hà Tây sát nhập vào Hà
Nội, báo Hà Tây cũng sát nhập với báo Hà Nội mới (Trụ sở của
báo Hà Tây cũ trở thành trụ sở 2 của Báo Hà Nội mới).
* Điểm mạnh:+ Là tờ báo thủ đô
+ Có đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất
+ Có nhà in
+ Là chính quyền ngôn luận, là cầu nối
Đảngvới nhân dân
* Điểm yếu: Báo Hà Nội mới có những thời gian khó khăn
đa tin cha chính xác.
4. Quy trình ra đời tờ báo:
Báo Hà Nội mới cũng nh các tờ báo khác, quy trình ra
báo cũng gồm 4 công đoạn.
Một là: Tạo tác phẩm
Công đoạn này do đội ngũ phóng viên, cộng tác viên
thông tin viên thực hiện. Đối với tờ báo phóng viên là lực lợng
17
chính yếu tạo nên các tác phẩm bài viết cho tờ báo, cộng tác
viên là lực lợng tham góp vào nội dung tờ báo. ở công đoạn
này các tác phẩm báo chí hay văn học nghệ thuật cha hoàn
thiện (cha qua biên tập, duyệt, lên trang). ở toà soạn đều cơ
cấu bộ phận phóng viên hay bộ phận tiếp nhận đơn th, tác
phẩm của bạn đọc, cộng tác viên. Ngời phụ trách bộ phận này
chịu trách nhiệm biên tập lần thứ nhất tác phẩm của phóng
viên và cộng tác viên sau đó chuyển bộ phận tổ chức xuất
bản (th kí toà soạn) tổ chức nội dung theo kế hoạch xuất bản
biên tập, thiết kế trình bày trang.
Hai là, tổ chức xuất bản.
Sau khi bộ phận tạo ra ấn phẩm hoàn thiƯn bé phËn tỉ
chøc xt b¶n sÏ tiÕp nhËn tÊt cả tác phẩm để đa nó vào số,
trang báo, tạp chí sắp xuất bản. Công đoạn này bao gồm các
phần viƯc nh tỉ chøc néi dung sè b¸o, trang b¸o, tạp chí,
biên tập thiết kế trình bày ấn phẩm. Nh vậy khâu tổ chức
nội dung nằm ở công đoạn 2 của quy trình sản xuất báo.
Các tác phẩm của phóng viên, cộng tác viên, thông tin
viên đợc xử lý hoàn thiện tạo công đoạn này của quy trình
sản xuất báo. Mỗi cơ quan báo chỉ có cách gọi khác nhau về
bộ phận tổ chức xuất bản, báo Hà Nội mới có bộ phận tổ
chức xuất bản nh: Ban (phòng) th kí biên tập, th kí toà soạn
th kí xuất bản. các bộ phận này đều làm đều làm nhiệm
vụ tổ chức xuất bản ấn phẩm báo chí.
Tác phẩm của đội ngũ viết, đợc ngời tổ chức nội dung
đa vào từng số báo, chuyên mục lên cơ sở kế hoạch xuất bản
đà định trớc. Các tác phẩm đợc biên tập hoàn chỉnh về cả
nội dung thông tin và hình thức văn bản (bao gồm thế loại,
18
văn phạm) trớc khi lên trang, công việc thiết kế trình bày trên
trang do đội ngũ hoạ sĩ đảm nhiệm. Hoạ sĩ ở toà soạn đóng
vai trò là những biên tập viên biên tập hình thức của tờ báo.
Ba là, in sản phẩm
Công đoạn này bao gồm các quy trình nh: chế bản in,
bình bản, phôi bản, in và hoàn chỉnh sản phẩm.
Thông thờng công đoạn in sản phẩm đợc thực hiện tại
các nhà in và dựa vào bản mẫu thiết kế maket mà hoạ sĩ
trình bày tạo ra. Sau khi thực hiện đúng ý đồ nội dung và
hình thức của trang báo, số báo, các bản in lần 1, 2 hoặc 3
đợc in ra đợc các bộ phận chuyên môn sửa lỗi sai trong chế
bản. Việc sửa lỗi bao nhiêu lần cho một ấn phẩm toà soạn quy
định đều khi bản chế hoặc phim không còn bất kì lỗi nội
dung kĩ thuật nào trớc khi in và phát hành.
Bình bản và phôi bản là công việc lắp ghép các trang
báo đà đợc chế bản can hay ra phim khớp với số trang và
trang in tạo ra khuôn để bộ phận máy in in ra tờ báo thành
phẩm. Đối với các tờ báo in màu, việc tạo ra bản in dựa vào sự
phân màu bằng máy tính trên cơ sở các màu in gốc thuộc hệ
màu xanh, đỏ, vàng, đen. Đây là công đoạn quan trọng
nhất quyết định một phần chất lợng in sản phẩm.
Bốn là: Phát hành báo
Đây là công đoạn cuối cùng của quy trình sản xuất báo
phát hành theo hình thức trao tay, chủ yếu chuyên gửi qua
hệ thống bu cục và các phơng tiện giao thông do vậy thông
tin thờng bị chậm thời sự so với các loại hình báo chí khác
nh: báo mạng, phát thanh Nhng ngày nay khoa học kĩ thuật
phát triển báo Hà Nội mới đà áp dụng phơng pháp truyền in
19
và phát hành tờ báo của mình cùng thời gian ở nhiều địa
điểm khác nhau do vậy báo Hà Nội mới đáp ứng khá tốt
tính thời sự của các sự kiện đối với công chúng.
* Tôn chỉ mục đích của tờ báo Hà Nội mới
- Là tiếng nói cánh tay đắc lực của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân Thủ đô.
- Xung kích trên mặt trận t tởng văn hoá
- Kiên trì trên con đờng chủ nghĩa xà hội, phấn đấu vì
mục tiêu Dân giàu, nớc mạnh, xà hội công bằng dân chủ văn
minh.
- Kiên quyết chống lại mọi hành vi chống phá của các thế
lực thù địch.
* Một số thay đổi sau khi sát nhập Báo Hà Tây và Báo
Hà Nội mới.
- Thuận lợi:
Đối với báo Hà Tây sau khi sát nhập sẽ có những điều
kiện thuận lợi nh:
+ Môi trờng làm việc chuyên nghiệp
+ Tính cạnh tranh cao
+ Yêu cầu nghiệp vụ khắt khe hơn
Đối với báo Hà Nội mới có những thuận lợi nh:
+ Có môi trờng tác nghiệp rộng lớn hơn
+ Đối tợng độc giả đông đảo
- Khó khăn:
Báo Hà Tây: Là tờ báo địa phơng
Cơ sở vật chất còn thiếu thốn
Hoạt động theo phơng thức bao cÊp cđa nhµ níc
20
Trình độ tiếp cận của đối tợng thấp. Trong khi đó
báo Hà Nội mới là tờ báo của Thủ đô hoạt động theo phơng
thức hạch toán, trình độ tiếp cận của đối tợng cao.
* Các chuyên mục:
-Số lợng phát hành của báo Hà Nội mới vẫn luôn ổn
định.
- Báo Hà Nội mới có các chuyên mục
+ Thời sự
+ Kinh tế
+ Văn hoá - xà hội
+ Nông nghiệp nông thôn
+ Thể thao giải trí
+ Bạn đọc
-Trớc khi sát nhập:
Báo Hà Nội mới 4 vạn bản /ngày
Báo Hà Tây 2,5 vạn bản trên ngày
- Sau khi sát nhập số lợng phát hành của báo Hà Nội mới
đà tăng lên rõ rệt: 6,3 6,5 vạn bản/ngày.
- Báo Hà Nội mới đà ra ấn phẩm Hà Nội ngàn năm với số
lợng phát hành lên tới 1000 4000 bản.
* Hớng phát triển của báo Hà Nội mới
- Cải tiến cơ cấu toà soạn, kết cấu bài báo, hình thức
trình bày đẹp, và hấp dẫn hơn.
- Cải tiến thông tin (mở rộng thông tin ra khắp cả nớc
chứ không bó hẹp trong phạm vu Hà Nội).
- Không ngừng quảng bá hình ảnh tờ báo để cạnh tranh
với các tờ báo khác trong xu thÕ héi nhËp.
21
- Phát triển theo xu hớng xây dựng tập đoàn báo chí và
toàn cầu hoá thông tin.
- Khắc phục những khuyết điểm mà nền kinh tế thị
trờng và quá trình toàn cầu hoá thông tin mang đến sự thái
hoá, biến chất chạy theo lợi nhuận.
-Tăng cờng công tác đào tạo đội ngũ phóng viên biên tập
viên vững vàng về lập trờng chính trị và nghiệp vụ.
-Mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ phóng
viên trẻ, cộng tác viên phát huy năng lực và khả năng sáng tạo.
Câu 3: Bài học rút ra sau khi học môn này, góp ý cho bộ
môn.
Bớc vào giảng đờng Đại học còn bao bỡ ngỡ xa lạ, hơn nữa
là một sinh viên khoa báo, mọi thứ càng trở nên mới mẻ, đầy
thử thách hơn, học báo chí cần phải có một khối kiến thức
rộng lớn nắm bắt tin tức tốt, phải biết tìm tòi. Chỉ những
điều ấy thôi đà làm cho các tân sinh viên hoang mang lo sợ
không biết mình có viết đợc báo hay không? Nhng sau một
thời gian làm quen với môn báo in đà giúp tôi có thêm nhiều
kiến thức. Từ những bài giảng trên và chuyển đi thực tế ở
toà soạn đó là những nguồn kiến thức cơ bản giúp tôi có
nguồn thông tin về báo đặc biệt là chuyên ngành báo in của
mình.
Nhập môn báo in bớc đầu giúp tôi làm quen với nghề
báo, những kĩ năng để viết một bài báo hoàn chỉnh ngắn
gọn nhng cô đọng, biết đợc là một phóng viên báo phải có kĩ
năng, quan sát thấy đợc những cái mà mọi ngời không thấy,
phải nắm bắt thông tin chính xác, phải ®i nhiÒu viÕt nhiÒu
22
để trao đổi kiến thức, tránh viết lệch lạc không chính xác,
không có thực, bịa chuyện.
ý kiến đóng góp với bộ môn báo in
Nhập môn báo in là một môn học đầu tiên biết về báo
chí nói chung và báo in nói riêng của một sinh viên khoa báo
khi mới bớc vào giảng đờng đại học. Môn học này đà trang bị
bớc đầu cho sinh viên những kiến thức lí luận cơ bản về báo
in, những điều kiện hình thành và diện mạo về báo in,
những điều kiện hình thành và diện mạo của báo in hiện
nay. Những đặc điểm thế mạnh và hạn chế của báo in, quy
trình sản xuất báo im, mô hình toà soạn báo in. Môn học này
đà giúp cho sinh viên chuyên ngành báo in có thể vận dụng
những kiến thức hiểu biết về chuyên ngành để ứng dụng
vào hoạt động thực tế và cũng là môn đòi hỏi sinh viên phải
đi thực tế nhiều hơn để có nhiều kiến thức và thông tin
chính xác ®Ĩ viÕt bµi. Qua bµi tiĨu ln nµy em kÝnh mong
giáo viên bộ môn báo in cũng nh khoa báo chí sẽ tổ chức
những chuyến đi thực tế nhiều hơn để tạo ra những kĩ
năng cần thiết đối với một phóng viên cũng nh nhà báo tạo
cho sinh viên những thói quen quan sát, phát hiện đúng đề
tài, đồng thời yêu cầu sinh viên thờng xuyên viết bài để rèn
kĩ năng viết nộp cho giáo viên bộ môn sửa và đánh giá chất lợng viết bài của sinh viên.
23