Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Văn hóa
Văn hóa là khái niệm bao hàm rộng với rất nhiều cách bửu tả nhiều cách
khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Trong xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng
nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con
người. Văn hóa khơng chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả
vật chất.
Văn hoá cũng là một khái niệm đa nghĩa, khó xác định. Nhà nghiên cứu
người Pháp J. Derrida đã nói: “Văn hố là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn
khơng cùng đối với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó”. Đến nay,
trên thế giới đã có khoảng năm trăm định nghĩa về văn hố (trên trang Google có
9.390.000 tài liệu về văn hố). Chính vì vậy, cần phải đưa ra một quan niệm về văn
hoá làm cơ sở cho việc triển khai tiểu luận. Nếu không giới hạn nội dung của khái
niệm văn hố thì rất khó xác định vai trị của truyền thơng đối với văn hóa và chất
lượng văn hố trong sản phẩm truyền thơng.
Trong mấy trăm định nghĩa về văn hố, có một định nghĩa ngắn gọn của
Tổ chức Văn hoá - khoa học - giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) nêu ra trong
lễ phát động Thập kỷ thế giới văn hố vì phát triển, ngày 21/1/1998 tại New York:
“Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng
đồng, trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã
hình thành tạo nên hệ thống giá trị, các truyền thống, thị hiếu - đặc trưng riêng
của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này tập trung được ý kiến của nhiều nhà khoa học
và hoạt động chính trị - xã hội nổi tiếng của nhiều nước (do UNESCO là cơ
quan trực thuộc Liên hợp quốc – tổ chức quy tụ nhiều quốc gia nhất thế giới),
nên quan niệm của nó mang tính đại diện và tính khoa học cao. Ngồi ra, quan
1
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
niệm về văn hố này của UNESCO có những nội dung cơ bản phù hợp với tư
tưởng của C.Mác và Hồ Chí Minh về văn hố. Chẳng hạn, về nguồn gốc và bản
chất của văn hoá, C.Mác cho rằng: “Căn cứ vào mức độ tự nhiên được con
người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con người khai
thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hố chung của con người” (Bản
thảo kinh tế - triết học 1844). Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng cho
rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố.
Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những yêu cầu đời sống và địi
hỏi của sự sinh tồn”.
Văn hóa hiện diện và thẩm thấu vào mọi khía cạnh của cuộc sống con
người như một yếu tố không thể thiếu của xã hội tổng thể. Tuy vậy, điều đó
khơng có nghĩa là chúng ta nhận thức được rõ ràng cấu trúc của văn hóa trong
mỗi hoạt động, hoặc có thể định liệu được những liên hệ mật thiết có tính chất
văn hóa trước khi đi đến những quyết định. Nhưng ngày nay, sẽ là khơng thực tế
nếu nghĩ có một hoạt động nào đó của con người và xã hội khơng cần tới văn
hóa, hoặc đứng ngồi nền cảnh văn hóa. Trong nhận thức, vấn đề này ngày càng
trở nên rõ ràng : văn hóa là phương thức tồn tại và phát triển lịch sử nhân loại.
Trên các phương diện của đời sống, văn hóa là yếu tố nội sinh tạo nên động lực
và cũng chính là mục tiêu của sự phát triển.
1.1.1. Đặc điểm văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong
những nền văn hóa lâu đời nhất ở trong khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù vậy,
nhưng qua ảnh hưởng lớn của Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều
đặc điểm khá giống với những dân tộc của các nước Đông Á, và khác những
2
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
nước ở khu Thái Bình Dương (như là Campuchia, Lào và Thái Lan) những nơi
vốn đã chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Mặc dù ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa
ngoại lai trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, dân tộc Việt vẫn giữ gìn được rất
nhiều nét văn hóa riêng của mình, mà cho tới ngày hơm nay những phong tục
riêng đó vẫn quan trọng vơ cùng trong đời sống của người Việt. Bằng chứng lịch
sử cho thấy rằng là trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Văn hóa
Đơng Sơn có gốc ở miền bắc Việt Nam là phần đầu của lịch sử Việt Nam.
Bản sắc văn hóa Việt, thế mạnh của nó chính là tính lưỡng căn - hai gốc
rễ ( lưỡng thể vừa văn hóa biển vừa văn hóa đại lục) - Đông Á - Đông Nam Á.
Ta “gần” – “giống” Trung Hoa, Nhật Bản - Triều Tiên bao nhiêu thì cũng gần
Thái, Malaysia, Indonesia... bấy nhiêu. Vị trí địa lý đã tạo cho văn hóa Việt Nam
đặc điểm này suốt mấy ngàn năm. Và tính chất “ngã tư” này tạo cho nó sức sống
và động lực phát triển. Bốn dịng văn hóa lớn nhất Ấn - Hoa - Cận Đơng - Tây
đường đi qua, đan chéo nhau ở ngã tư này. Văn hóa Hán tràn ngập đại lục, ngấm
đẫm Đơng Bắc Á nhưng chỉ len lỏi qua những con đường mòn, những mạch
suối nhỏ xuống miền Đông Nam Á. Con đường của cơng cuộc Ấn Độ hóa đi qua
Campuchia, Trung Việt - Champa ra quần đảo Indonesia tạo nên những đỉnh cao
tuyệt vời Ăngco - Mỹ Sơn - Borobudua. Cuộc Hồi giáo hóa yếu hơn cũng để dấu
ấn ở Trung Việt mà ảnh hưởng lớn nhất đến người Chăm. Còn văn minh phương
Tây tiếp xúc vào đầu thế kỷ 16 bằng đường thương mại mà Hội An là một nhân
chứng. Đợt hai là cuộc xâm chiếm và thực dân hóa của Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 tiếp nối là các biến động lịch sử của cách mạng Mác xít - chủ
nghĩa yêu nước chống thực dân, cuộc tiếp xúc hòa nhập với CNXH hiện thực và
giờ đây là "tồn cầu hóa".
Có thể nói mọi nền văn minh lớn đều đi qua Việt Nam nhưng khác với các nơi
khác, Việt Nam vẫn chỉ là nơi để đi qua, để tiếp nối. Làn sóng đi qua nhưng sự
tích đọng không nặng nề, thấm đẫm. Việt Nam không theo Phật đậm như
3
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
Campuchia, không Khổng đậm như Hàn Quốc, không Kito đậm như Philippines
và không Hồi giáo đậm như Indonesia. Giao lưu văn hóa diễn ra và người Việt
khéo léo chắt lấy tinh hoa đấy nhưng cũng hời hợt, không triệt để. Khơng bao
giờ mất đi, ln bảo tồn cái vốn có một cách dai đẳng, khéo léo nhưng cũng
không thay đổi, phát triển tới một đỉnh cao mới.
Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam có 1 cái mà khơng 1 nơi nào có. Đó là Văn hóa
Làng; làng kiểu Việt Nam, nhất là ở Bắc Bộ không thấy ở nơi nào khác trên thế
giới. Cái làng phát triển nhất cũng không là tiền thân đô thị phong kiến hay tư
bản như ở các nước khác. Nó khơng chỉ là nơi tụ hội, cố kết các phong tục tập
quán và những thành tựu văn hóa dân gian như từ Phan Kế Bính tới các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian hiện nay quan niệm.
Về quy hoạch, làng là một cụm dân cư nông nghiệp, thủ cơng nghiệp với diện
tích khoảng một ngày đi bộ? (Nguyễn Luận). Về hành chính, nó khơng phải một
đơn vị như thơn - xã - huyện, tỉnh (khơng có chủ tịch làng, những làng). Về kinh
tế các làng nghề là đỉnh cao của kinh tế Việt Nam thời phong kiến. Từ làng,
mạng lưới thương mại quốc gia được nối kết qua một số đầu mối như Thăng
Long, Phố Hiến, Hội An. Sản xuất không tập trung về đô thị... Về tín ngưỡng
Thành Hồng làng đóng vai trị lớn hơn mọi nước khác. Ngơi đình tiếp nối các
nhà to - nhà cộng đồng Đông Nam Á và là nhà hành chính - nhà thờ và nhà văn
hóa của làng. Về văn hóa, làng cũng là địa bàn, là cái nơi sinh ra tới hầu hết di
sản văn hóa Việt. Kiến trúc, điêu khắc, ca, vũ, kịch tới múa rối, các trị chơi, thể
thao... đều là của làng, có tiếng có chất lượng thì thành của cả nước giống như
các món ăn, các sản phẩm như gạch Bát Tràng, rượu làng Vân, bún làng Mọc.
Tầng lớp trí thức khơng làm quan chỉ ở làng, cáo quan cũng về làng nên phải
nói trí tuệ Việt Nam tập trung ở làng. Chùa làng thay thế quốc tự. Tên danh nhân
cũng gọi theo làng như cụ Tiên Điền, ơng n Đổ. Các dịng họ gắn kết với
làng, tranh thế lực ở làng. Hương ước là một sản phẩm độc đáo. Lệ làng làm
nghiêng phép nước tạo ra một nền dân chủ làng và một thế tự trị lỏng lẻo nhưng
4
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
rất bền chặt. Hệ thống giá trị quyền lực theo các thang: chi tộc - học vấn - chức
sắc - tài sản đan dệt khá tinh vi, phức tạp. Lịch sử Việt Nam cho thấy ta ln
thắng ngoại xâm vì nước có mất thì làng vẫn cịn. Từ Ngun, Minh, Thanh tới
Pháp, Mỹ đều không thể chiếm được làng dù đã tạm thời chiếm cả nước. Mặt
khác làng bảo thủ hơn hết. Và sau khi văn hóa làng đạt tới đỉnh cao thì xã hội bế
tắc vì đơ thị khơng hình thành, lớp q tộc khơng phát triển. Khác với Trung
Hoa, Nhật, Hàn... và các nơi khác ta khơng có văn hóa đơ thị, tầng lớp q tộc,
trí thức quốc gia. Hay nhẹ hơn thì nói các thứ trên mờ nhạt, yếu kém so với làng.
Tóm lại khơng cực đoan, khơng triệt để, khơng đi tới cùng, khơng q khích,
khơng đồ sộ, không lấn át, không cuồng nhiệt... mà mềm dẻo, linh hoạt, bền bỉ,
xinh xắn, khơn khéo, có tình, có nghĩa... đó là văn hóa của người Việt Nam.
Kiến trúc xinh xắn, to nhất là các đình, hồng cung Huế cũng rất vừa phải. Màu
sắc không cực đoan như đen, trắng, đỏ, lam, vàng mà người Trung Hoa hay
dùng mà là các màu nhẹ như: cánh sen, nõn chuối, cổ vịt, mỡ gà... Các nhân vật
chính trị khơng quyết liệt độc tài độc đốn... được tơn vinh phần lớn là vua hiền
lành, nhân đức. Trong tơn giáo thì sự hịa trộn là rất khéo léo, ít tính cuồng tín
mà tin theo vừa phải và lỏng lẻo. Xung đột tôn giáo khơng bao giờ quyết liệt.
Chất tâm linh thần bí khơng sâu như Ấn Độ, tính thực dụng duy lợi, ý chí, mưu
mơ khơng cương hoạnh như Trung Hoa. Trong tư duy khoa học cơng nghệ ít
trừu tượng hóa. Triết học khoa học tự nhiên, công nghệ không nhiều phát kiến,
các phát minh chỉ bắt chước, cải tiến, ứng dụng vừa phải vào từng hoàn cảnh. Sự
học chỉ vừa phải và sự ứng dụng - hành cũng vừa phải không đi tới cùng.
Là lưỡng căn vừa Đông Á vừa Đông Nam Á, là ngã tư Đông - Tây - Nam Bắc người Việt chịu nhiều áp lực bên ngoài, biết né tránh đối đầu cực đoan có
tính sinh tử, rất bền bỉ, khơn khéo, luồn lách thích ứng; nương theo tình thế mà
ứng phó, phát triển; cương nhu hài hịa mà lấy nhu là chính, tự né tránh bảo tồn
mình với phương Bắc rộng lớn mà phát triển mãi về phía Nam. Ngay cuộc Nam
Tiến cũng diễn ra chậm chạp, đồng hóa, chuyển hóa, hịa nhập từ từ cả ngàn năm
chứ khơng huỷ diệt, thơn tính kiểu nhà Ngun hay Ba Tư, La Mã. Trong giao
5
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
tích văn hóa thu nhận những ảnh hưởng bên ngồi người Việt cũng rất vừa phải,
từ từ, có khi rụt rè và không triệt để như các dân tộc khác. Đạo Phật Việt Nam
rất nhu hòa gần gũi một cách mơ hồ với dân làng, đạo Lão thâm thúy hay Phật
giáo Nam Tông chặt chẽ ảnh hưởng không lớn. Với phương Tây cũng vậy: chỉ
học cái lịch lãm,lãng mạn, khoan hịa của người Pháp chứ ít học cái duy lý Đức
hay thực dụng mạnh mẽ của Anh mà sự học này cũng chỉ vừa phải, giống như
khi xưa các nhà Nho khơng học hồn tồn tư tưởng “trung qn” mà “trung
quân thì phải ái quốc”.
Từ những đặc điểm trên, ta nhận thấy rằng văn hóa Việt Nam là là 1 quá
trình trung dung- vừa phải để tồn tại và phát triển.
1.1.2 Văn hóa Việt Nam ra nước ngồi
Quảng bá Văn hóa Việt Nam ra nước ngồi dể cho người nước ngoài hiểu và
yêu đất nước chúng ta. Muốn vậy chúng ta phải có 1 chiến lược tun truyền
hình ảnh Việt nam ra thế giới bằng văn hóa thơng qua con đường ngoại giao, du
lịch, truyền hình, âm nhạc, điện ảnh,....
Có lẽ bài học tốt nhất cho chung ta là “Làn sóng Hàn Quốc”. Ngay từ thế kỷ
trước, Hàn Quốc đã lập ra một lộ trình kỹ lưỡng cho việc tuyên truyền văn hóa
Hàn Quốc ra thế giới trong thế kỷ 21. Và họ đã thực hiện rất thành công chiến
lược này ngay từ một việc rất, rất nhỏ là dùng món Kim chi truyền thống của họ.
Rồi sau đó mới sử dụng đến âm nhạc, điện ảnh. Chúng ta có thể thấy ngay rằng
nếu so sánh giữa Trung Quốc và Hàn Quốc thì sẽ là 1 sự khập khiễng rất lớn.
Trung Quốc là nước có hơn 5000 năm lịch sử, đất rộng người đông, sản vật
nhiều nhưng lại không tạo được 1 làn sóng văn hóa có sức lan tỏa mạnh bằng
Hàn Quốc .
Theo thống kê năm 2008 có khoảng 4.253.700 lượt khách du lịch đến Việt
Nam. Đấy là chưa kể những người nước ngoài đến học tập làm, việc ở Việt
Nam. Và ít nhất mỗi người khách sẽ phải lưu lại trên đất nước ta trung bình là 5
6
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
ngày. Trong 5 ngày đó, những người nước ngồi sẽ tiếp xúc với rất nhiều nét đẹp
và nhiều khía cạnh của văn hóa Việt Nam. Chính vì lý do đó cơng tác ngoại giao
văn hóa phải được thực hiện cơ bản ở chính trong nước chứ khơng phải ở nước
ngồi.
Đương nhiên, việc giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngồi đã được tiến
hành ngày một bài bản hơn thơng qua các Sứ qn Việt Nam ở nước ngồi và
thơng qua các chương trình trao đổi, giao lưu văn hóa. Nhưng số lượng người
nước ngồi tiếp xúc với văn hóa Việt Nam ở chính nước họ ít hơn nhiều lần so
với những người nước ngồi tiếp xúc với văn hóa Việt Nam ở trong chính đất
nước Việt Nam.
Những người nước ngoài đến Việt Nam sẽ quan sát đất nước và con người
Việt Nam qua nhiều góc nhìn. Đó là văn hóa ẩm thực, đó là văn hóa ứng xử với
con người và thiên nhiên, đó là những di sản thiên nhiên, văn hóa và lịch sử, đó
là giáo dục, đó là đời sống văn học nghệ thuật...Chính trong đời sống thường
nhật, những người nước ngoài sẽ hiểu đúng nhất về đất nước Việt Nam. Nhìn
cách ứng xử của con người đối với con người, nhìn cách con người ứng xử với
mơi trường, nhìn hiện thực của nền giáo dục, của y tế...người nước ngoài sẽ hiểu
chúng ta đang là một dân tộc như thế nào.
Những di sản văn hóa là vô giá nhưng cũng chỉ chứng minh được nền tảng
văn hóa của đất nước đó. Cịn muốn thấy được chân dung văn hóa hiện tại của
đất nước đó thì chỉ có đời sống hiện tại mới có thể chứng minh được. Có những
dân tộc trên thế giới có một nền tảng văn hóa kỳ vĩ nhưng đời sống hiện tại của
họ đang làm lu mờ và tàn phá nền văn hóa đó.
Những du khách đến thăm Việt Nam họ trở về đất nước họ và bắt đầu nói
chuyện với người thân, bè bạn và đồng nghiệp về những gì họ mắt thấy tai nghe.
Nếu chúng ta làm tốt việc ngoại giao văn hóa ở trong chính ngơi nhà đất nước
mình thì hàng triệu người nước ngồi đến với Việt Nam sẽ vơ tình trở thành
hàng triệu nhân viên ngoại giao, hàng triệu những người làm văn hóa hay có thể
nói là hàng triệu sứ giả của văn hóa, một cách tin cậy nhất trong việc truyền bá
hình ảnh đẹp của Việt Nam ra thế giới.Cịn nếu chúng ta khơng sống một cuộc
7
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
sống có văn hóa và có pháp luật thì hàng triệu sứ giả kia sẽ trở thành những
người xóa cái tên Việt Nam mờ đi trên tấm bản đồ văn hóa thế giới.
1.2. Truyền thơng
Truyền thơng là q trình chia sẻ thơng tin và tương tác xã hội, trong đó có ít
nhất hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các quy tắc và tín hiệu chung. Ở
dạng mơ hình truyền thơng đơn giản, thơng tin được truyền từ người gửi tới
người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, quá trình truyền đạt thơng tin cũng là q
trình tạo nên sự trao đổi liên kết giữa người gửi và người nhận. Theo từ điển
Wikipedia, “truyền thông phần nào là một loại tương tác xã hội có ít nhất hai tác
nhân tương tác cùng chia sẻ chung một bộ các ký hiệu và chung một quy tắc tín
hiệu học”
Trong cuốn “Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính
trị ở các nước tư bản phát triển”, các tác giả đã nêu lên một cách hiểu về khái
niệm truyền thơng là: “một q trình trao đổi thơng điệp giữa các thành viên
trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết, qua đó liên kết với nhau”
Trong khi đó, các tac giả cuốn “Truyền thông, lý thuyết và kỹ năng cơ bản,
đưa ra định nghĩa về truyền thông như sau: “Truyền thơng là q trình liên tục
trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai
hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến
tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá
nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội’
Như vậy, khái quát lại, truyền thông là sự trao đổi thông tin, giao tiếp, chia sẻ
kỹ năng, kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người một cách tương đối bình đẳng,
nhiều chiều để từ đó phát triển nhận thức, thay đổi thái độ và điều chỉnh hành vi
theo hướng tích cực hóa hoạt động thực tiễn.
Xét về góc độ văn hóa, trong cuốn “Understanding Media Culture’ (2002)
của Jostenim Gripsrud, giáo sư truyền thông người Na Uy, tác giả gắn liền cấu
trúc và quá trình của họat động truyền thơng đại chúng như tổng thể một q
trình văn hóa, một hiện tượng văn hóa. “Hiện tượng văn hóa này vừa là sản
phẩm của mơi trường văn hóa có tính lịch sử cụ thể vừa có sự liên hệ tương tác
8
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
với các hiện tượng văn hóa khác và có tác động lên diện mạo của đời sống văn
hóa xã hội”
Đây có lẽ là một trong những lý do dẫn tới khái niệm văn hóa truyền thơng.
Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp cụm từ mang tính tự phát này trong cuộc sống
hàng ngày cũng như trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Văn hóa truyền
thơng được hiểu đơn giản là những cách ứng xử ‘có văn hóa” của những người
làm truyền thông đối với đối tượng xã hội và ngược lại.
Xã hội hiện đại là xã hội bùng nổ truyền thơng, nếu khơng có kiến thức văn
hóa truyền thông vững vàng con người không những không làm chủ được những
thành quả của văn minh nhân loại mà có thể cịn bị những tác động tiêu cực của
truyền thơng chi phối.
1.2.1 Vai trị của truyền thơng đối với văn hóa
Vai trị của truyền thơng đối với văn hóa thực chất thể hiện ở chức năng văn
hóa của truyền thơng. Các chức năng đó là:
- Truyền thơng tác động tới xã hội, làm phong phú đời sống vật chất của con
người.
- Truyền thông tôn trọng những chuẩn mực xã hội, những quy tắc giúp xã hội
vận hành hài hòa, ổn định.
- Truyền thông phát hiện, tôn vinh những năng lực, phẩm chất cá nhân, cộng
đồng, khuyến khích tạo điều kiện để các cá nhân thể hiện năng lực trí tuệ và các
giá trị khác trong cộng đồng, lan tỏa những giá trị đó để xã hội vận hành theo
hướng tích cực.
- Truyền thơng khơng đẩy các cá nhân vào hồn cảnh khó xử, khơng hắt hủi,
bỏ rơi những người thiệt thịi, ngược lại truyền thơng phải tạo cơ hội thúc đẩy sự
hài hịa giúp người khó khăn và những số phận thiệt thịi tự vươn lên thể hiện
năng lực trí tuệ của mình, sống có ích cho cá nhân và cộng đồng.
- Truyền thông đấu tranh với những hiện tượng lệch văn hóa, giả văn hóa,
phản văn hóa.
9
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
- Truyền thơng phải tìm tịi, phát hiện, tạo điều kiện cho những giá trị văn
hóa mới phát sinh và phát triển.
- Truyền thông là nhịp cầu giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, tơn vinh giá trị,
tinh hoa văn hóa nhân loại, song vẫn phải gìn giữ và phát huy nét độc đáo của
văn hóa dân tộc.
1.2.2. Các giải pháp làm thúc đẩy văn hóa.
Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại của Dự thảo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta đã xác định: "Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển”.
Đây là định hướng lớn trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Với định
hướng này vì sẽ giúp những người làm cơng tác văn hóa phát triển, là cơ sở để
nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các
giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống
những biểu hiện phi văn hóa, phản văn hóa, góp phần định hướng cho nhân dân
kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao...
Truyền thông đã và đang góp phần tạo dựng 1 nền văn hóa mới với đặc trưng
dân tộc, hiện đại, nhân văn. Muốn vậy ngành truyền thơng phải có một hệ thống
lý luận văn hóa được hợp thành với lý luận chung trong q trình đổi mới tư duy
của tồn xã hội. Toàn bộ tinh thần của về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã làm sáng lên bức tranh của nền
10
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
văn hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hóa với vai trị là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, gắn với
sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh trong xu thế
tồn cầu hóa và nền kinh tế thị trường.
Để thực hiện những yêu cầu lớn lao trên, toàn xã hội nói chung và ngành
truyền thơng nói riêng phải làm những việc như:
+)Trong xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện cần phát huy tính năng
động, chủ động của các cơ quan, đoàn thể nhân dân, các hội văn học nghệ thuật,
khoa học, trí thức, báo chí, của các cá nhân.
+)Xây dựng và phát triển chương trình giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nếp
sống văn hóa hiện đại trong nhân dân.
+) Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra
những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
+) Tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa.
+)Xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định.
+)Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa.
+) Chống sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng, phản động.
+) Xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa.
+) Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thơng tin đại chúng phát triển.
+) Cần có cơ chế, chính sách cụ thể, quan tâm đúng mức và tạo điều kiện
thúc đẩy các tài năng hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, đặc biệt tài
năng trẻ.
11
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
+)Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hóa, hiện đại về mơ hình, cơ cấu, cơ
sở vật chất kỹ thuật.
+) Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp.
+) Phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ.
+) Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội
văn học- nghệ thuật từ trung ương đến địa phương.
+) Có chính sách và những quy định cụ thể để bảo hộ, bảo tồn nguyên vẹn
các giá trị văn hóa mang tính dân gian, bản sắc truyền thống.
+) Trong phát triển hệ thống thông tin đại chúng cần có định hướng và
những chế tài để quản lý và xử lý những sai phạm trong việc sử dụng và truyền
bá trên internet. Làm hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động
lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.
Mặt khác khắc phục xu hướng thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích trong
hoạt động báo chí, xuất bản (đây cũng là một vấn đề đang gây bức xúc trong xã
hội).
+) Cần kết hợp với các chuyên gia đầu ngành về văn hóa, lịch sử để tăng
cường công tác quản lý nhà nước trong tổ chức lễ hội, quản lý di sản văn hóa…
+) Xây dựng mơi trường văn hóa, mơi trường sống tốt đẹp, trong sạch,
lành mạnh, đa dạng, phong phú; phịng chống có hiệu quả sự xâm nhập của các
sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội, với phương châm xây
dựng những giá trị tốt đẹp để chống lại tiêu cực lạc hậu về văn hóa.
+) Mở rộng và nâng cao hiệu quả giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa.
+) Phát triển văn hóa cũng coi trọng chất lượng, tránh làm ồ ạt theo phong
trào, phải hướng đến chiều sâu trong phát triển văn hóa.
12
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
Chương 2
TRUYỀN THÔNG VÀ VIỆC XÂY DỰNG MỘT NỀN VĂN HÓA PHÙ
HỢP VỚI ĐẶC ĐIỂM, NHU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CỦA
NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Kết quả đạt được
So với trước kia, các cơ quan, công ty, tổ chức truyền thông nước ta hiện
nay triển khai các chủ đề hấp dẫn, sinh động, toàn diện và thiết thực hơn. Nhiều
tác phẩm, sản phẩm có chiều sâu tư tưởng, văn hóa và tầm bao qt lớn. Khơng
ít cơ quan báo chí, truyền thơng đã phát hiện, lựa chọn nhân vật, vấn đề có tính
điển hình cao, đưa lên sách báo, điện ảnh đúng thời điểm, tạo thành những sự
kiện truyền thơng lớn, có hiệu ứng xã hội sâu sắc, rộng rãi như xuất bản và
tuyền truyền về hai cuốn sách: Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai
mươi trên báo TTTP.HCM và nhiều báo, đài khác cũng như quảng bá cho bộ
phim “Đừng Đốt” dựa theo cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Và, với
việc tạo nên các sự kiện đó, vai trị, vị thế của truyền thông càng được Đảng,
Nhà nước đánh giá cao, xã hội ghi nhận và trân trọng.
2.1.1. Nội dung ngày càng tồn diện, trung thực, khách quan, giàu tính
nhân văn
Truyền thơng, đặc biệt là báo chí nước ta ngày càng thể hiện đậm nét hơn
những phẩm chất mới về mặt nội dung: tính dân chủ được tăng cường thơng qua
chức năng là “diễn đàn của nhân dân” bao gồm những ý kiến của mọi tầng lớp,
nhiều chiều, phong phú, đa dạng, đề cập nhiều vấn đề; tham gia tích cực và trở
thành lực lượng đi đầu, chủ động, trong đấu tranh chống các hiện tượng tiêu
cực; thông tin kinh tế được quan tâm, mở rộng; phản biện được khẳng định như
một chức năng thiết yếu và là một bộ phận quan trọng của phản biện xã hội, có
tác dụng thúc đẩy quá trình dân chủ, tiến bộ xã hội. Những nội dung liên quan
quyền lợi thiết thân, chính đáng của các tầng lớp nhân dân được quan tâm, phát
hiện và luôn chiếm tỷ lệ cao trên mặt báo. Một số tờ báo, nhất là các báo chính
13
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
trị - xã hội, đã thực hiện rất tốt một trong những nhiệm vụ then chốt của truyền
thông là phát hiện, biểu dương, tơn vinh nhiều nhân vật điển hình có những hành
động cao cả vì lợi ích cộng đồng cũng như vì số phận, quyền lợi của từng cá
nhân cụ thể. Các chuyên mục giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho công
chúng, nhất là cho lớp công chúng trẻ, ngày càng được tăng cường (như của các
báo PNTP.HCM, PNTĐ, PNVN…).
Hơn thế nữa, báo chí những năm đổi mới vừa qua đã kết hợp một cách
sáng tạo giữa phát hiện với tuyên truyền; giữa phản ánh trên mặt báo với tổ chức
các hoạt động “ngoài mặt báo” mang tính xã hội rộng rãi, ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Cách làm đó ngày càng được khẳng định như một phương thức tuyên truyền
mới mẻ, có chất lượng, hiệu quả cao, như: loạt bài viết về nạn nhân chất da
cam/đioxin và phong trào Ký tên vì cơng lý của báo TTTP.HCM, GĐ&XH;
phong trào “Mùa hè tình nguyện”, Tiếp sức mùa thi, Chiến dịch Mùa hè xanh
của các báo TN, TP, TTTP.HCM, TTTĐ
2.1.2. Tiến bộ trong hình thức trình bày
Tơn trọng hình thức trình bày cũng thể hiện tính văn hóa trong truyền
thông. Các cơ quan truyền thông ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của
hình thức các sản phẩm của mình; quan tâm, đầu tư cho cơng việc này cả về
nhân lực, tài lực. Sự quan tâm này kết hợp với những tiến bộ của công nghệ
trong truyền thông đã tạo nên bước phát triển mới của nhiều sản phẩm. Đến thời
điểm hiện tại, đa số ấn phẩm sách báo đều được in màu, thay cho đen trắng.
Phong cách trình bày của nhiều đầu sách, tờ báo vừa đảm bảo tính hiện đại, vừa
thể hiện đậm nét bản sắc. Sự phát triển của công nghiệp giấy khiến lượng ấn
phẩm in trên giấy có chất lượng tốt hơn ngày một tăng. Nhiều ấn phẩm sách
báo trình bày đẹp cả trang bìa và những trang ruột. Về điện ảnh, nhiều bộ phim
được dàn dựng công phu, kỹ xảo đẹp mắt, thỏa mãn phần nào nhu cầu thưởng
thức cái đẹp của công chúng.
14
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
2.1.3. Về mặt ngơn ngữ
Trong những năm qua, có rất nhiều sách báo đề cập tới ngôn ngữ trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày. Mục Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đã có trong nhiều
báo. Mục Tìm trong di sản, Tiếng nước tơi, Tiếng Việt thân u, Tìm hiểu thành
ngữ tục ngữ… là chuyên mục hay của nhiều tờ báo. Đây cũng là chủ đề được
nhiều cuốn sách quan tâm. Ngồi ra, truyền thơng trong thời gian qua còn làm
tốt chức năng là nhịp cầu giữa các vùng miền, mang lại sự giao thoa ngôn ngữ
giúp cho việc hoà nhập tốt hơn cũng như làm phong phú thêm cho ngơn ngữ
tồn dân.
2.2.Hạn chế và những biểu hiện tiêu cực
2.2.1. Về nội dung
2.2.2. Khuynh hướng “thương mại hóa”, thiếu tính nhân văn
Truyền thơng là sản phẩm văn hóa tinh thần. Trong điều kiện KTTT định
hướng XHCN, truyền thông là hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc biệt. Tính chất
hàng hóa đặc biệt đó thể hiện ở chỗ, nó có giá trị tinh thần là chủ yếu, chứ không
phải giá trị kinh tế và chính giá trị tinh thần đó giúp truyền thơng thực hiện chức
năng cao q là bồi dưỡng, nâng cao nhân cách con người; làm cho con người
sống có trách nhiệm với Tổ quốc, xã hội, cộng đồng, gia đình cũng như với
chính bản thân. Sứ mệnh thiêng liêng đó địi hỏi mỗi sản phẩm truyền thơng nói
chung phải thấm đẫm phẩm chất văn hóa cả về nội dung lẫn hình thức. Bất luận
trường hợp nào, sự thiếu hụt những phẩm chất văn hóa trong sản phẩm truyền
thơng là điều khó có thể biện giải.
Truyền thơng nước ta trong những năm đổi mới, như trên đã khẳng định,
đã thể hiện một bước tiến dài trong việc thể hiện tính văn hóa của cả hệ thống,
loại hình, đơn vị và trong từng sản phẩm cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm
trên, truyền thông cũng bộc lộ một khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đáng lo
ngại hay nói cách khác thương mại hoá.
Những biểu hiện rõ nét nhất của khuynh hướng “thương mại hoá” là: hạ
thấp chất lượng chính trị, văn hố, khoa học của truyền thơng; thơng tin giật
15
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
gân; bịa đặt thông tin hoặc dùng những thủ pháp miêu tả rùng rợn, ly kỳ, khêu
gợi, thậm chí dung tục, nhằm chiều theo thị hiếu tầm thường; khai thác, săn đón
chuyện đời tư các chính khách theo xu hướng của các tờ báo “lá cải” ; truy đuổi,
khai thác quá mức những vụ bê bối đời tư của nghệ sĩ, người nổi tiếng; những
kiểu ăn chơi trác táng, thác loạn, xa sỉ (Clip sex của H.T.L, vụ cắt cổ người tình trong
xe Lexus, vụ sinh viên ĐH Ngoại thương N.Đ.N cắt cổ, chặt đầu ngón tay người tình
cũ, diễn viên D.Đ.H lấy vợ mới…). Trên thực tế, khai thác về đời tư cá nhân đã xuất
hiện trong nền báo chí phương Tây từ hàng chục năm trước và giờ lại đang thành
“mốt” của nhiều tờ báo Việt Nam. Thông tin về các ngôi sao thế giới mọc lên như
nấm sau mưa trên các trang văn hóa, văn nghệ, giải trí, từ những chuyện sexy của cơ
nàng Britney Spears tai tiếng, chuyện các nhân vật của Hollywood hẹn hò, lấy nhau
và bỏ nhau - vốn dĩ xảy ra như cơm bữa, hay là một người đẹp nào đấy chẳng may
bị…hóc xương cá. Và tất tần tật các ngôi sao nữ mang bầu (hay được nghi ngờ là
đang mang bầu), từ Trung Quốc, Hàn Quốc đến Mỹ, Pháp, Ý …đều được báo giới
điểm mặt.
“Thương mại hóa” đến nhẫn tâm, thiếu tính nhân văn chỉ là một bước
ngắn, nhất là trong các bài viết đề cập các cá nhân cụ thể. Thí dụ: trong vụ clip
“nóng” của diễn viên H.T.L, sau hàng nửa nghìn bài báo ồn ào trong một thời
gian ngắn, nhân vật đang cần sự động viên, an ủi, chia sẻ để vượt qua sự cố, lấy
lại cân bằng, thì một vài tờ báo vẫn cố tính truy đuổi, khác thác các nội dung
liên quan từ mọi quan hệ có thể, khiến nhân vật cũng như gia đình chịu những
áp lực vô cùng lớn. Dĩ nhiên, khi viết, đăng những bài báo đó, mỗi tác giả, tịa
soạn đề nhân danh hoặc là sự cảnh báo xã hội, gia đình; hoặc là sự chia sẻ với
nhân vật, đối tượng. Tuy nhiên, sự săn đón, cách làm cấp tập của họ khiến độc
giả khơng khó khăn để nhận chân động cơ thực của những bài báo trên là gì nếu
khơng phải câu khách. Nếu khơng có sự vào cuộc của cơ quan chỉ đạo, quản lý,
không ai biết câu chuyện về H.T.L sẽ trở thành “miếng mồi” ngon, được báo chí
nhấm nháp trong bao lâu và kết cục sẽ diễn ra theo hướng nào?
Cần lưu ý rằng: ngay cả ở các nước tư bản, không phải ở đâu, lúc nào cũng cổ
xúy cho thứ báo chí bị mục tiêu kinh tế chi phối. Điều 6, quy định đạo đức nghề
16
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
nghiệp của Hiệp hội báo chí Úc nói: “Đừng để quảng cáo hay quan tâm thương mại làm
tổn hại đến tính chính xác, cơng bằng hay độc lập của báo chí”. Cũng ở các nước đó,
thơng tin về chiến tranh, tính nhân văn vẫn cần được đề cao, coi trọng trong tác nghiệp.
Nhà báo Mathew Chance – người tường thuật trực tiếp của đài CNN tại Kabul
(Apganixtan) đã không quay cảnh xác lính Taliban chết trên đường vào thủ đơ Kabul .
Thời gian diễn ra chiến tranh tại Apganixtan, báo chí phương Tây cũng ít có các bài dạng
châm biếm bởi hầu hết các nhà báo tác nghiệp coi đó có thể là cách làm thiếu lương thiện,
lương tâm , là “ đùa trên sự đau khổ của người khác”.
Kết quả điều tra “ Báo chí với cơng chúng” của Viện nghiên cứu PEW
Mỹ thực hiện tháng 6/2000 cho thấy cơng chúng đang hướng sự bất bình về phía
báo chí (Mỹ). “Ngạo mạn, vơ trách nhiệm, khơng chính xác và khiêu dâm rẻ
tiền” là những từ ngữ mà công chúng dùng để định tính báo chí.
2.2.3. Về mặt hình thức
2.2.4.“Chuẩn ngôn ngữ” chưa được đảm bảo
Chuẩn, hay chuẩn ngôn ngữ, là một vấn đề ngơn ngữ văn hố. Sách báo
chí là “món ăn tinh thần” dành cho nhiều người, ở các bối cảnh giao tiếp khác
nhau. Khi chúng ta nói đến văn hố ngơn từ là chúng ta nói đến chuẩn mực; mà
nói đến chuẩn mực là nói đến sự lựa chọn (lựa chọn khả năng thích hợp về từ
ngữ, ngữ đoạn, câu,… trong các bối cảnh giao tiếp khác nhau). Sự thiếu chuẩn
mực, thậm chí trầm trọng tới mức có giới ngơn ngữ học phải kêu lên rằng: Tiếng
Việt đang bị ngược đãi !
Gần đây, kết quả điều tra của Viện công nghệ tin học thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội đã cho biết, sai chính tả trên báo lên tới 10% - một con số khó chấp
nhận
Như trên đã nói, in sai là chuyện “cực chẳng đã”. Nhưng với trách nhiệm
với “đứa con tinh thần” của tác giả và với thái độ trân trọng độc giả, cơ quan
chịu trách nhiệm của tờ báo phải có sự cải chính rõ ràng. Đấy khơng chỉ là
ngun tắc của sự sịng phẳng, biết tuân thủ luật xuất bản, mà còn là một cách
ứng xử đẹp. Đính chính có thể coi là một lời xin lỗi gián tiếp và qua lời xin lỗi
17
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
đó, cơ quan cho ra đời ấn phẩm đã tỏ rõ thái độ nghiêm túc với tinh thần cầu thị.
Nhà xuất bản Larousse (Pháp) đã từng ngừng phát hành 18 vạn cuốn từ
điển, hoặc hủy bỏ hẳn một lô sách in sai đồng thời thơng báo gấp trên tồn bộ
các phương tiện truyền thông về những lỗi nghiêm trọng. Báo Time (Mỹ) năm
2007 đã huỷ một số lượng báo khá lớn và quyết định kỉ luật buộc thơi việc một
phóng viên ảnh đã tuỳ tiện chỉnh sửa ảnh thời sự bằng công nghệ photoshop.
NXB Penguin Group ở Úc năm 2010 đã phải tiêu hủy và in lại toàn bộ cuốn
sách dạy nấu ăn Pasta Bible (Thánh kinh về mì Ý) của họ do một lỗi in tai hại.
Trong những lỗi đó, bất luận vì lí do gì, cơ quan xuất bản tờ báo phải là
người chịu trách nhiệm chính và chịu trách nhiệm cuối cùng. Và ngay cả khi sai
sót đó phải trả giá đắt về chi phí vật chất, thì với tinh thần trách nhiệm cao, cơ
quan báo chí, xuât bản cũng vẫn phải thực hiện bổn phận của mình sao cho trọn.
Vì đằng sau đó là cả uy tín, danh dự, triển vọng làm ăn của cơ quan chịu trách
nhiệm ấn phẩm đó.
2.2.5. Lạm dụng tiếng nước ngồi
Sử dụng tiếng nước ngồi là một nhu cầu bình thường đối với mọi ngôn
ngữ. Trong bối cảnh hội nhập và hoà nhập hiện nay, việc vay mượn tiếng nước
ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, Pháp, đang là xu hướng phát triển khá mạnh mẽ của
một số nước, trong đó có nước ta. Vấn đề thời sự nổi cộm của chúng ta hiện nay
là tiếng Việt đang bị sự xâm nhập của tiếng Anh với một tốc độ “chóng mặt”.
Nguyên nhân: do tiếng Anh đang giữ vai trò chủ đạo trên trường quốc tế; do số
lượng thuật ngữ khoa học trên thế giới phổ biến là tiếng Anh; do giao dịch
thương mại (kinh tế, ngân hàng, tài chính, quảng cáo) văn hoá (âm nhạc, phim
ảnh, sách báo, mạng internet) càng ngày càng mở rộng trong phạm vi tồn cầu.
Ngơn ngữ là công cụ (nếu ta biết sử dụng tốt) và cũng sẽ là rào cản (nếu ta
không nắm bắt được). Đây chính là mấu chốt làm cho tiếng Anh đang giữ vai
trị độc tơn và lấn át tiếng Việt (cũng như nhiều ngôn ngữ khác) trong mọi bối
cảnh giao tiếp mà báo chí khơng đứng ngồi cuộc.
Cũng phải nói rằng, việc học và đề cao tiếng Anh khơng có gì sai, thậm
chí là cần thiết. Khi coi nó là cơng cụ mà chúng ta không biết tận dụng công cụ
18
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
đó thì chúng ta sẽ mất cơ hội làm ăn, sẽ tụt hậu để cho người khác vượt lên
mình.Tuy nhiên, như dân gian thường nói: “thái quá như bất cập”, việc lạm dụng
tiếng Anh như một cái mốt thời thượng đang lan tràn trong xã hội và phần nào
ảnh hưởng tới báo chí. Nhiều người đã lên tiếng, coi đây là một “đại dịch” mang
lại thảm hoạ cho tiếng Việt: “ Tiếng Anh được sử dụng nhiều trên các tờ báo
(nhất là các tờ báo dành cho giới trẻ và các trang văn hóa giải trí) với hình thức
đa dang, pha tạp cũng có: echip, tuổi teen, Sport, MC, clip, hot, call-girl,
style…. Thực tế, vấn đề cũng chưa đến nỗi báo động, đến nỗi quá ghê gớm.
Nhưng chúng ta cũng cần phải thận trọng và rút ra một cái nhìn tỉnh táo về vấn
đề này.
19
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
Chương 3
Kết luận:
Văn hóa là nền tảng, là mục tiêu, động lực tinh thần xã hội. Khi văn hóa
được gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội thì trở thành sức
mạnh nội sinh rất quan trọng của phát triển. Trong những năm gần đây, ở nước
ta văn hóa có bước phát triển về nhiều mặt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
tinh thần lành mạnh, đa dạng của nhân dân, góp phần tích cực vào công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
được chú trọng bảo tồn và phát huy (Nhã nhạc cung đình Huế, ca trù, quan họ,
cồng chiêng Tây Ngun… đã được UNESCO cơng nhận di sản văn hóa nhân
loại). Các giá trị mới đang được hình thành và phát triển. Hợp tác văn hóa với
nước ngồi ngày càng mở rộng, nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị của thế giới
được tiếp thu, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa của nhân dân.
Tuy vậy, bên cạnh những mặt tiến bộ, chúng ta thấy rằng văn hóa phát triển
chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa cịn thiếu chặt chẽ.
Mơi trường văn hóa cịn bị ơ nhiễm, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập
của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh,
thiếu niên rất đáng lo ngại.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước cũng đã có các chủ trương thể hiện sự
quan tâm đến những tài năng nói chung và tài năng trên lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật nói riêng. Nhưng tổng kết lại thấy vẫn thiếu đi các cơ chế, chính sách cụ
thể, dẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám”, không sử dụng và phát huy hết tài
năng, gây lãng phí lớn. Vì vậy rất cần thiết phải có các cơ chế, chính sách cụ thể
trong đào tạo, sử dụng nhân tài.
Chúng ta đều biết tác động mặt trái của mở cửa, giao lưu, hội nhập quốc tế
đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là rất lớn. Nếu khơng tích cực chủ
20
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
động phịng ngừa thì nguy cơ bị xâm lăng về văn hóa là khơng tránh khỏi. Hiện
nay các giá trị văn hóa mang tính dân gian, bản sắc truyền thống đang có nguy
cơ ngày càng mai một. Một bộ phận khơng nhỏ trong giới trẻ thờ ơ, ít, hoặc
khơng quan tâm đến nghệ thuật dân gian truyền thống. Chính vì vậy để tiếp tục
phát triển nền văn học, nghệ thuật VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu
chất nhân văn, dân chủ; vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống,
lịch sử dân tộc và cơng cuộc đổi mới đất nước; thì chúng ta cần có chính sách để
bảo hộ, bảo tồn ngun vẹn các giá trị văn hóa mang tính dân gian và bản sắc
truyền thống. Nhiều sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài đã xâm nhập vào
nước ta bằng nhiều con đường, tác động xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống,
tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên; làm hủy
hoại, xói mịn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lối sống
thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, thích hưởng lạc, sa đọa; cái xấu, cái ác, phi nhân tính có
dấu hiệu tăng lên rõ rệt. Mơi trường đạo đức và văn hóa lành mạnh bị đe dọa
nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa
chọn giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận cơng chúng. Chính vì vậy, để
thực hiện được mục tiêu xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, xây
dựng nhân cách, đạo đức, lối sống của con người Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH,
hội nhập quốc tế, bảo vệ và phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc;
thì việc xây dựng mơi trường văn hóa, mơi trường sống tốt đẹp, trong sạch, lạnh
mạnh, đa dạng, phong phú, phòng chống có hiệu quả sự xâm nhập của các sản
phẩm văn hóa độc hại, gây hủy hoại đạo đức xã hội vừa là mục tiêu, vừa là vấn
đề thời sự đặt ra cho những người quản lý cũng như làm về ngành truyền thông
hiện nay.
21
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bui Tiến Dũng (2008) Các xu hướng của báo chí thế giới
2. Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hố và văn minh, Nxb Chính trị quốc gia,
3. Hồ Chí Minh (1985), Tồn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Jostenim Gripsrud (2002) Understanding Media Culture, Published house
Arnold,
22
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B
MỤC LỤC
Chương I................................................................................................................1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG..............................................................1
1. Một số khái niệm cơ bản..................................................................................1
1.1. Văn hóa...........................................................................................................1
1.1.1. Đặc điểm văn hóa Việt Nam.......................................................................2
1.1.2 Văn hóa Việt Nam ra nước ngồi.................................................................6
1.2. Truyền thơng...................................................................................................8
1.2.1 Vai trị của truyền thơng đối với văn hóa......................................................9
1.2.2. Các giải pháp làm thúc đẩy văn hóa.........................................................10
Chương 2.............................................................................................................13
TRUYỀN THƠNG VÀ VIỆC XÂY DỰNG MỘT NỀN VĂN HĨA PHÙ HỢP
VỚI ĐẶC ĐIỂM, NHU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CỦA NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA................................................................................13
2.1. Kết quả đạt được..........................................................................................13
2.1.1. Nội dung ngày càng toàn diện, trung thực, khách quan, giàu tính nhân
văn.......................................................................................................................13
2.1.2. Tiến bộ trong hình thức trình bày..............................................................14
2.1.3. Về mặt ngôn ngữ........................................................................................15
2.2.Hạn chế và những biểu hiện tiêu cực............................................................15
2.2.1. Về nội dung................................................................................................15
2.2.2. Khuynh hướng “thương mại hóa”, thiếu tính nhân văn..........................15
2.2.3. Về mặt hình thức......................................................................................17
2.2.4.“Chuẩn ngơn ngữ” chưa được đảm bảo....................................................17
2.2.5. Lạm dụng tiếng nước ngoài.......................................................................18
Chương 3.............................................................................................................20
Kết luận:.............................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................22
23
Nguyễn Văn Dũng – PTTH – K30B