Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TRUYỀN THÔNG đại CHÚNG vai trò của truyền thông đại chúng trong hoạt động bảo vệ di sản văn hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.74 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Truyền thơng đại chúng có vị trí, vai trị rất quan trọng trong sự phát
triển xã hội ngày nay. Nó tác động vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố
một hệ thống tư tưởng chính trị lãnh đạo đối với xã hội; liên kết các thành
viên trong xã hội thành một khối đoàn kết, một chỉnh thể trên cơ sở lập
trường, thái độ chính trị chung. Truyền thơng đại chúng cịn thực hiện chức
năng giám sát và quản lý xã hội, theo dõi, phát hiện, phản ánh kịp thời những
vấn đề, mâu thuẫn mới nảy sinh, góp phần ổn định chính trị, xã hội. Với vị trí,
vai trị quan trọng như vậy, việc tập trung phát triển, hoàn thiện cơ sở lý luận,
đào tạo nhân lực cho ngành truyền thông đại chúng là việc làm cần thiết hiện
nay.
Báo chí, với chức năng là giáo dục tư tưởng, tuyên truyền, cổ động,
quản lý gián tiếp và giám sát xã hội… thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng đưa thơng tin, là cơ sở để hình thành và thể hiện dư luận xã
hội. Và chính dư luận xã hội, được ví như một “phương tiện cưỡng chế” sẽ
đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Điều này đã
được minh chứng rất nhiều trên các trang báo trong thời gian qua.
Văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng, ln có vị trí, vai trị quan
trọng trong đời sống con người cũng như trong bản sắc của mỗi dân tộc. Văn
hóa khơng chỉ làm nên sự khác biệt, tính đặc thù của mỗi dân tộc mà qua đó
làm cho đời sống nói chung thêm phong phú, đa dạng, giúp cho con người
vun đắp lòng tự hào đối với bản sắc của dân tộc mình.
Những di sản văn hóa tồn tại đến hơm nay ln đóng vai trị quan
trọng trong lịch sử hình thành, phát triển của một quốc gia, dân tộc, vùng
miền. Đó khơng chỉ là tài sản của riêng một vùng đất hay con người địa
phương, mà còn là tài sản của quốc gia; phản ánh một cách tập trung nhất,
tiêu biểu nhất truyền thống văn hóa Việt Nam. Cùng với thời gian, các giá trị
kết tinh trong di sản văn hóa như một dịng chảy âm thầm, lặng lẽ nhưng có
1



khả năng to lớn, là cội nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn hóa dân tộc
hơm nay và mai sau.
Di sản văn hóa rất dễ bị mai một và ln tiềm ẩn nguy cơ biến mất
nhanh chóng. Bởi vậy, bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc
trong sự phát triển tồn diện đất nước, làm cho di sản văn hóa tiếp tục tỏa
sáng trong giao lưu, hội nhập là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn.
Các phương tiện truyền thông đại chúng là cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Nhân dân là “tai mắt”, là nguồn cung cấp thông tin sống
động về mọi mặt cho các kênh thơng tin này. Điều này cho thấy vai trị hết
sức quan trọng củacác phương tiện tuyền thông đại chúng trong việc bảo tồn,
quảng báo và phát huy các di sản văn hóa dân tộc.
Xã hội càng hiện đại thì truyền thơng đại chúng càng phát triển mạnh
mẽ, vài trị của nó càng quan trọng hơn bao giờ hết, nết truyền thơng khơng
hoạt động thì xã hội cũng sẽ dậm chân tại chỗ. Bởi vậy cuộc sống của con
người tồn tại bao giờ cũng song hành với sự tồn tại và phát triển của ngành
truyền thông đại chúng.

2


NỘI DUNG
I. Truyền thồng đại chúng
Những đổi mới trong công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến với một
kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó hầu như tất
cả mọi người đều được tiếp cận tin tức và thông tin, và trở thành những người
sáng tạo và đóng góp cho ngành cơng nghiệp báo chí. Nhờ đó, ngày nay, tin
tức được truyền đi theo những cách thức phi truyền thống với những hệ quả
không thể đoán trước được. điều này cho thấy nghĩa vụ và trách nhiệm của
ngành truyền thông đại chúng cần phải nâng cao vai trị, trách nhiệm của

mình trong q trình thu nhận, phát tán, truyền tải thông tin đến công chúng.
1. Truyền thơng đại chúng là gì?
Có nhiều cách định nghĩa lĩnh vực truyền thơng, trong đó truyền thơng
khơng bằng lời, truyền thông bằng lời và truyền thông biểu tượng.
Truyền thông (communication) là q trình chia sẻ thơng tin. Truyền
thơng là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác
lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin
được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin
trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển
các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những giừ người khác nói (ra
hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được
cú pháp của ngôn ngữ.
Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục
tiêu. Nội dung truyền thơng bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm,
hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này
được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay
bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm
chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin.

3


Truyền thông đại chúng là một khái niệm rộng, mỗi lĩnh vực ngành
nghề trong xã hội đều có cách hiểu của riêng mình, tùy thuộc vào tác động,
vài trị của truyền thông đối với lĩnh vực hoạt động ấy.
Truyền thông đại chúng, xét về phương diện xã hội học là một q trình
xã hội, đó là q trình truyền tải thơng tin đến rộng rãi cơng chúng. Q trình
này được tiến hành thơng qua các lọai hình báo chí như báo in, báo nói, báo
hình, tức là thơng qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Ở đây, chúng ta cần phân định rõ sự khác biệt giữa hai thuật ngữ truyền

thông đại chúng (mass communication) và các phương tiện truyền thông đại
chúng (mass media). “Các phương tiện truyền thông đại chúng” như báo viết,
phát thanh, truyền hình chỉ là những công cụ kỹ thuật hay những kênh truyền
mà phải nhờ vào đó người ta mới có thể tiến hành quá trình truyền thơng đại
chúng, nghĩa là tiến hành việc phổ biến, loan truyền thơng tin cho người dân.
Cịn thuật ngữ “truyền thông đại chúng” là thuật ngữ được dùng để chỉ một
q trình xã hội: q trình truyền tải thơng tin đến rộng rãi công chúng.
Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng được sử dụng
trong “Lời nói đầu của Hiến chương Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học và
Giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phương tiện
truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của
từng lĩnh vực của xã hội.
Ngày nay, các phương tiện truyền thông đại chúng đã là một phần
không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người trong xã hội. Con người
khao khát thơng tin, tìm kiếm thơng tin về mọi mặt và chính các phương tiện
truyền thơng đại chúng đã đáp ứng phần lớn nhu cầu ấy. Nhờ những sáng tạo
vượt bậc của khoa học kỹ thuật cho phép chúng ta có thể nắm bắt thơng tin
trên tòan thế giới một cách nhanh nhất, tiện lợi nhất. Nhất là hiện nay, với sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, cho phép chúng ta cập nhập
thông tin liên tục, nhanh chóng thơng qua hệ thống Internet.

4


Truyền thơng đại chúng được hiểu là một q trình truyền đạt thơng tin
đến các nhóm cộng đồng đơng đảo trong xã hội thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng.
2. Các phương tiện truyền thông đại chúng
Truyền thông đại chúng là những phương pháp truyền thông chuyển tải
thông điệp đến những nhóm đơng người. Có nhiều phương tiện truyền thông

đại chúng (PTTTĐC) khác nhau, phổ biến nhất là Phát thanh, Truyền hình,
Báo chí và nay có thêm internet.
2.1.Phát thanh
Phát thanh có đơng đảo người theo dõi. Máy thu thanh là phương tiện
rẻ tiền giúp đem lại vừa những thông tin cần thiết vừa sự giải trí cho nhiều
người kể cả những người không biết chữ. Các thông báo phát đi có thể
cùng một lúc tới được hàng triệu thính giả và có thể nhắc lại nhiều lần với
chi phí thấp.
2.2.Truyền hình
Truyền hình là phương tiện truyền thơng đại chúng ngày càng có nhiều
khán giả do giá máy thu hình giảm và khả năng phủ sóng ngày càng rộng. Kết
hợp hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng truyền đạt các nội dung
gây ấn tượng, mang tính thuyết phục cao mà phát thanh hoặc tài liệu in ấn
không thể làm được với hiệu quả như vậy. Tuy nhiên dù đã giảm giá máy thu
hình vẫn đắt hơn máy thu thanh gấp nhiều lần, và chi phí thực hiện chương
trình truyền hình cũng cao hơn phát thanh rất nhiều.
2.3.Báo chí - Các ấn phẩm
Hiện nay có khá nhiều tờ báo được xuất bản ở nước ta. Báo và tạp chí
tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau như cơng nhân-viên chức, sinh viên
học sinh, nhân dân lao động, các ban ngành, lãnh đạo…Bên cạnh báo chí, các
ấn phẩm trên giấy như sách, sách nhỏ, bướm (tờ rơi), bích chương, hoặc trên
các chất liệu khác như giấy keo, áo thun, miếng lót ly, đồng hồ, pa-nơ v.v…

5


cũng có một tác dụng đáng kể đặc biệt là tạo sự quan tâm và nâng cao nhận
thức nếu được sản xuất và sử dụng đúng cách.
2.4.Internet
Internet với sự giao lưu thơng tin tồn thế giới đang ngày càng được

nhiều người sử dụng. Ưu điểm nổi bật của nó đó là thơng tin trên internet có
thể được cập nhật rất nhanh và truy tìm dễ dàng. Với khả năng lưu trữ thơng
tin lâu dài nó đóng ln vai trị như là một thư viện. Đặc biệt khả năng hồi
báo nhanh chóng trên internet hiện đang được khai thác để giúp thơng tin
cung cấp được chính xác và phù hợp hơn với nhu cầu người đọc.
Tuy nhiên internet cũng có một số khuyết điểm. Bên cạnh các thơng tin
chính xác, cập nhật của các tổ chức có uy tín, ngày càng xuất hiện nhiều
những thông tin sai lệch trên những trang web nhiều khi có tên gọi và vẻ
ngồi rất chun nghiệp. Một khuyết điểm nữa đó là nó địi hỏi người sử dụng
phải có một số kỹ năng nhất định (sử dụng máy vi tính, kỹ năng tìm kiếm
thơng tin...) làn hạn chế khả năng truyền thông của internet.
3. Vai trị hoạt động của truyền thơng đại chúng
Các phương tiện truyền thơng đại chúng đóng một vai trị quan trọng
trong đời sống xã hội không chỉ là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức và
thơng tin mà chúng cịn là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và
cải cách xã hội. Chúng đã trở thành một định chế trong xã hội với những
qui tắc và chuẩn mực riêng. Có thể nói rằng, các phương tiện truyền thơng
đại chúng đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi cá
nhân và tòan xã hội.
Ở nứơc ta, mặc dù vấn đề tiếp cận các tiến bộ của khoa học kỹ thuật về
truyền thông đại chúng chậm hơn so với nhiều nứơc, nhưng hiện nay, các
phương tiện truyền thơng đại chúng cũng đã có một vị trí vơ cùng quan trọng
trong xã hội. Nó là cầu nối giữa Đảng, Nhà nứơc với nhân dân, là vai trò
trung gian tạo diễn đàn cho người dân bộc lộ những suy nghĩ, quan điểm của
mình về các chủ trương, chính sách, đừơng lối của Đảng, Nhà nứơc.
6


Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là hệ
thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất

quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong
hoạt động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.Trong hoạt động
của mình, hệ thống truyền thơng đại chúng đã thể hiện vai trò cũng như khả
năng tạo sự tương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành vi hoạt động trong
cơng chúng. Chính vì vậy, truyền thơng đại chúng trở thành một thiết chế xã
hội, nó được coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết xã hội.
3.1. Vai trị chung của Truyền thơng đại chúng đối với xã hội
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự
phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền thông đại chúng đã phát triển mạnh mẽ cả
về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hố đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Trong đường lối đổi mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá
các mặt của đời sống xã hội; Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ
trong hoạt động thơng tin báo chí ở nước ta. Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn
chế được hình thức thơng tin một chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được
vai trị là cầu nối giữa Đảng và Dân. Thơng tin hai chiều được thực hiện trên
báo chí: một mặt tuyên truyền, giải thích đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến với công chúng mặt khác phản ánh những
nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng trong q trình thực hiện
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó như : Báo in, báo ảnh,
phát thanh, truyền hình, internet ...Đó là các bộ phận, các kênh thông tin cơ
bản nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vận động
của thông tin đại chúng. Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế
mạnh và những hạn chế riêng , chẳng hạn như: báo in có khả năng lưu trữ lâu,
đồng thời đi sâu phân tích chi tiết các sự kiện hiện tượng, công chúng của loại
7



hình báo chí này có thể tiếp nhận thơng tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm
khác nhau. Hạn chế cơ bản của loại hình báo chí này là khó có khả năng phát
hành rộng rãi tới cơng chúng ở vùng sâu, vùng xa...Phát thanh, Truyền hình
có thế mạnh là nhanh,đồng thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể
tiếp nhận thơng tin đồng thời với thời điểm diễn ra sự kiện. Nhưng hạn chế
của nó là tính thoảng qua, khả năng lưu trữ kém ...địi hỏi cơng chúng tiếp
nhận thơng tin từ loại hình báo chí này phải hết sức tập trung, q trình thơng
tin bị phụ thuộc vào làn sóng.
Ở nước ta các loại hình thơng tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát
triển, chúng khơng những khơng loại trừ nhau, mà ngược lại cịn bổ khuyết,
hỗ trợ cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của đất nước.
Truyền thông đại chúng được coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên
các liên kết xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu
vực và quốc tế.
3.2. Truyền thơng đại chúng có vai trò to lớn trong việc định hướng
dư luận xã hội
Truyền thông đại chúng là nơi khơi nguồn dư luận xã hội, nó đã phản
ánh và truyền dẫn dư luận xã hội; định hướng dư luận, có nghĩ là định hướng
nhận thức; điều hòa dư luận, điều hòa tậm trạng, tâm lý xã hội.
Chính từ dư luận xã hội với tính chất “đánh giá” để xác định hành vi
ứng xử của con người trứơc một sự kiện, hiện tựơng đó được xem như hiện
tượng tâm lý xã hội, là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội
Tư tưởng của Mác về vai trò của ý thức trong đời sống xã hội và mối
liên hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội được lấy làm cơ sở cho
việc nghiên cứu sự tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội. C.
Mác chỉ ra rằng lý luận có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó thâm nhập
vào quần chúng. Chính C .Mác cũng nói: sản phẩm của truyền thơng đại
chúng là dư luận xã hội.
8



Truyền thông đại chúng thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình
bằng việc cung cấp thơng tin cho xã hội, hình thành và định hướng dư luận xã
hội theo mục đích nhất định của chế độ, của giai cấp. Ở nước ta, đó là kênh
thơng tin đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước; góp phần vào xây dựng và hồn thiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước. Nói cách khác, Đảng ta coi các phương tiện truyền
thông đại chúng là kênh giám sát cán bộ, đảng viên và tòan xã hội qua dư luận
xã hội. Dư luận xã hội sẽ giúp Đảng, Nhà nước hiểu được “tâm trạng” của xã
hội, từ đó có những chính sách, hành động hợp lý, kịp thời.
Dư luận xã hội được hình thành dưới tác động của các phương tiện
truyền thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống này và bằng con
đường giao tiếp, bằng họat động thảo luận, trao đổi nội dung các thông tin mà
công chúng tiếp thu được để hình thành nên dư luận xã hội. Các phương tiện
truyền thơng đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội về các vấn
đề trong đời sống xã hội. Đồng thời hệ thống này cũng là những kênh để thể
hiện dư luận xã hội. Để làm được điều này, các phương tiện truềyn thông đại
chúng đã nổ lực khơng ngừng để giúp cho việc hình thành và thể hiện dư luận
hiệu quả nhất.
Có thể hình dung các bước hình thành dư luận xã hội thơng qua các
phương tiện truyền thông đại chúng như sau: Điều trước tiên, các phương tiện
truyền thông đại chúng phải đưa ra công luận các thông điệp. Tuy nhiên, các
thông điệp này đều phải có lợi ích xã hội, có tính cấp bách và phải tạo nên sự
tranh luận. Dưới tác động của các phương tiện truyền thơng đại chúng, thì dư
luận xã hội hình thành như sau: Khi một thơng điệp nào đó được đưa lên các
phương tiện truyền thơng đại chúng, thì công chúng sẽ làm quen với các vấn
đề được các phương tiện truyền thông đại chúng khơi gợi hay đề xuất. Các cá
nhân, các nhóm xã hội tiếp xúc, làm quen tạo nên cảm giác ban đầu và trao
đổi thông tin về các hiện tượng, sự việc đó. Tiếp theo, các phương tiện truyền

thơng đại chúng sẽ kích thích lợi ích của xã hội của vấn đề đó, thường bằng
9


cách đăng tải các bài viết, lời bình luận của các chuyên gia am tường vấn đề
đó hoặc những người có trách nhiệm, có liên quan trực tiếp đến vấn đề đó.
Các quan điểm khác nhau trong cách nhìn nhận vấn đề sẽ tạo nên cơ sở để
tranh luận trên phạm vi đại chúng. Tại đây ý kiến cá nhân chuyển từ ý thức cá
nhân sang ý thức xã hội. Sau đó, các ý kiến khác nhau được thống nhất lại
trên những quan điểm cơ bản để hình thành sự đánh giá chung về sự kiện
được nêu ra. Những đánh giá này thỏa mãn được sự nhận định của đa số cơng
chúng. Từ đó rút ra những kết luận để đánh giá, phán xét về sự việc, hiện
tượng và đưa ra những kiến nghị trong họat động thực tiễn.
Vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay trong tạo
lập dư lậun xã hội không thể phủ nhận được. Với các thiết bị máy móc ngày
càng tinh vi, hiện đại, sẽ là điều vô cùng thuận lợi cho các nhà báo tác nghiệp
để đưa ra những thông điệp khơi nguồn dư luận hiệu quả
3.3. Vai trò của truyền thơng đại chúng trong q
trình hội nhập WTO
Việt Nam mở cửa hội nhập và trở thành một mắt xích quan trọng trên
thế giới về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, giao lưu văn hóa, truyền thơng
đại chúng trở thành cầu nối quan trọng trong quá trình hoạt động, giao thương
của cơng chúng. Có thể nói truyền thơng đại chúng và kinh doanh - thương
mại là các lĩnh vực có những điểm giao thoa, tương tác mật thiết, liên hệ qua
lại với nhau, nhất là trong thời kỳ đất nước hội nhập như hiện nay.
Trong xã hội hiện đại, thật khó hình dung sự khơng có mặt của sách,
báo, đài, Internet, điện ảnh, quảng cáo, quan hệ công chúng (PR). Nhờ có
chúng, thơng qua chúng các vấn đề cốt tủy của doanh nhân như quảng cáo sản
phẩm, thông tin thị trường, tìm đối tác, ký hợp đồng thương vụ qua thư điện
tử, mua - bán hàng qua mạng được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả. Đồng

thời, các vấn đề thơng dụng như quảng cáo có văn hóa - khơng vi phạm thuần
phong mỹ tục dân tộc, nhân cách- bản lĩnh doanh nhân, vấn đề then chốt như
vai trò doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến,
10


đậm đà bản sắc dân tộc” xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông,
được nhiều tầng lớp xã hội quan tâm và có tác động nhất định đến quá trình
xây dựng, phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội quốc gia…v.v...
Mở rộng đường dư luận rộng rãi về việc kế thừa, tiếp nối những yếu tố
tích cực, phát triển những điểm vượt trội của văn hóa dân tộc; loại bỏ những
những yếu tố khơng cịn hợp thời, cản trở sự phát triển của văn hóa và kinh tế
xã hội để từ đó thống nhất quan niệm, nhận thức toàn xã hội, kể cả nhận thức
của giới kinh doanh.
Sự phát triển truyền thông đại chúng và giao lưu quốc tế giúp cơng
chúng Việt Nam (gồm cả doanh nghiệp) có nhiều dữ liệu; thông tin phong
phú, nhiều chiều, dân chủ hóa trong q trình gắn bó; phát triển văn hóa nước
nhà - làm phông, nền, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho doanh nhân dân
tộc;Truyền thông đại chúng tạo dư luận rộng rãi, thúc đẩy nhiều đối tượngkhông chỉ doanh nhân mà nhà nước, xã hội cùng có trách nhiệm vun đắp, phát
triển văn hóa dân tộc đúng hướng, có bản sắc riêng, có tầm cao, trường tồn;
Ngồi ra, truyền thơng đại chúng góp ý, phê phán sự thờ ơ, tha hóa, vơ trách
nhiệm của một số doanh nghiệp đối với văn hóa nước nhà.
Nhờ sự phát triển ngày một hiện đại hơn, mạnh và rộng rãi hơn của
các phương tiện truyền thơng đại chúng mà doanh nghiệp có thể quảng bá
thương hiệu của mình đến với người tiêu dùng nhanh hơn, cũng như có thể
tiếp cận với ngươi tiêu dùng dễ dàng hơn, và ngược lại người tiêu dùng
cũng có thể đóng góp hoặc phản ánh những điều khơng hài lịng của họ đối
với doanh nghiệp
3.4.. Truyền thơng đại chúng trong thực tiễn cuộc sống
Thực tế cho thấy, mỗi ngày, trên các phương tiện truyền thông đại

chúng hầu như đều xuất hiện những bài viết, những chương trình nói về tham
nhũng. Sự việc tham nhũng ở địa phương này chưa giải quyết xong thì sự việc
khác ở địa phương khác bị “lơi ra ánh sáng”. Điều đáng nói hơn nữa, những vị
đảng viên, là quan chức nhà nước dính líu ngày càng nhiều vào tham nhũng.
11


Điều này đã gây cho khơng ít người dân hoang mang, làm giảm lòng tin, sức
mạnh vào con đừơng đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta, đó là sự thật mà
chúng ta phải nhìn thẳng vào.
trong thời gian qua, các phương tiện truyền thông đại chúng đã là nơi
đáng tin cậy của ngừơi dân để phản ánh các vấn đề xã hội. Làm tăng cường và
phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống xã hội. Tổ chức và động
viên nhân dân tham gia các họat động quản lí xã hội. Hầu hết trên các báo đều
có các chuyên mục dành cho nhân dân, là diễn đàn thực sự cho nhân dân, ví
dụ: “Ý kiến bạn đọc” , “chúng tơi có ý kiến”, “Ý kiến bạn xem đài” đã nhằm
cung cấp những thông tin thiết thực chống tham nhũng.
Trên tạp chí pháp lý (phaply.net.vn) đã có hàng loạt các bài viết về vụ
việc “Những vụ thôn tính đất đai ở tỉnh Bình Phước”.
Báo chí đã nhận được sự phản ánh , đơn gửi của nhiều người dân trong
tỉnh, tố cáo cán bộ tham nhũng đất đai, nên mở một cuộc điều tra và đăng một
loạt bài phóng sự : Kỳ I: Lợi dụng danh nghĩa lực lượng vũ trang thu đất giao
cho tư nhân;kỳ II: Quan chức 'vô tư' giúp lập dự án ma, bán đất rừng ;Kỳ III:
Thủ đoạn thâm độc của chủ nhiệm HTX Dân Sinh và 'liên minh ma quỷ'!; Kỳ
IV: Vì sao nhiều quan chức nhiệt tình tiếp tay?
Sau những loạt bài báo ấy, dư luận hết sức xơn xao, và tịa soạn cũng
đăng những ý kiến phản hồi từ các cơ quan, lãnh đạo như: Luật gia Trần Đức
Long – Chánh văn phòng Trung ương Hội Luật gia Việt Nam: Cần xử nghiêm
những cán bộ sai phạm: Sau khi đọc loạt bài “Những phi vụ thơn tính đất ở
Bình Phước” trên Tạp chí Pháp Lý, tơi thấy có liên quan đến rất nhiều cán bộ

từ xã đến huyện và tỉnh. Vậy tại sao những cán bộ đó vẫn khơng bị xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật mà ngày càng lên chức. Phải chăng,
sai phạm đã không được xử lý triệt để nên sai phạm kéo dài và nối tiếp sai
phạm. Như thế, chính những người chịu trách nhiệm giải quyết vụ việc vơ
tình tạo nên luồng dư luận không tốt về cách xử lý cán bộ sai phạm.

12


Ơng Trần Cơng Nhơn, Chun viên chính, Ban cơng tác phía Nam, Ủy
ban Trung ương MTTQ Việt Nam: Một số cán bộ quá mất tư cách!
Sau khi đọc loạt bài “Những phi vụ thơn tính đất ở Bình Phước” trên
Tạp chí Pháp lý, tơi vui mừng vì sự dũng cảm của phóng viên, lãnh đạo, Ban
biên tập Tạp chí Pháp lý, bên cạnh đó tơi cũng khơng ngờ đến hơm nay 16 hộ
dân ở Cống Lở (xã Tân Lợi, huyện Đồng Phú) vẫn chưa được cấp đất tái định
canh, tái định cư!
Nếu không được truyền thông đại chúng quan tâm, liên tục đưa tin,
điều tra theo yêu cầu bạn đọc… tạo ra dư luận thì có lẽ câu chuyện về sự kiện
nêu trên thì có lẽ mọi chuyện sẽ bị “chìm xuồng”
Điều đáng nói là khá nhiều vụ điều tra tham nhũng, công đầu đều nhờ
các kênh thông tin đại chúng phanh phui. Chính những thơng tin trên các
phương tiện truyền thông và những phản ánh của dư luận xã hội đã phần nào
cung cấp thêm thông tin, chứng cứ cho các cơ quan chức năng xử lý, làm rộng
đường dư luận.
Luật phòng chống tham nhũng đã được Quốc hội nứơc ta thông qua
ngày 28/11/2005. Đây là một bước tiến mạnh mẽ trong chống tham nhũng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để luật đi vào đời sống một cách hiệu quả
nhất. Điều có thể làm được trứơc mắt vẫn là vai trị của các phương tiện
truyền thơng đại chúng, khi luật có hiệu lực, cần tăng cừơng đưa vào đời sống
xã hội, tuyên truyền, giáo dục cho người dân biết. Báo chí cũng phải đóng vai

trị tích cực trong việc giám sát thi hành luật.
II. Truyền thông đại chúng trong lĩnh vực văn hóa
1. Văn hóa là gì?
Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác
13


xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã
hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người
tạo ra.
Từ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng
theo nghĩa thơngdụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống
văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn
(văn hóa Đơng Sơn)... Trong khi theonghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả,
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tínngưỡng, phong tục, lối sống,
lao động... Chính với cách hiểu rộng này, văn hố mới làđối tượng đích thực
của văn hóa học.Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng
có hàng trăm định nghĩakhác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết
cần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt
và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái niệm (sựvật) ấy với khái niệm (sự
vật) khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiệnnay (coi văn hóa
như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt động, như kí hiệu, nhưthuộc
tính nhân cách, như thuộc tính xã hội...), có thể xác định được 4 đặc trưng cơ
bảnmà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hố như sau:
VĂN HỐ : là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do

con người sáng tạovà tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môitrường tự nhiên và xã hội.
2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
2.1 Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống.
Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện
những mối liênhệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn
hóa; phát hiện các đặc trưng,những quy luật hình thành và phát triển của nó.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi
hoạt độngcủa xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa
thường xuyên làmtăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi
14


phương tiện cần thiết để ứng phó vớimơi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Nó là nền tảng của xã hội - có lẽ chính vì vậymà người Việt Nam ta dùng từ
chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hố (nền vănhóa).
2.2. Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.
Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính
giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước
đo mức độ nhân bản của xãhội và con người.Các giá trị văn hóa, theo mục
đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầuvật chất) và giá trị
tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chiathành giá trị
sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệtcác
giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho
phép tacó được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính
giá trị của sự vật,hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận
sạch trơn hoặc tán dươnghết lời.Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện
tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theogóc nhìn, theo bình diện được xem
xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trùvăn hóa hay khơng phải
xem xét mối tương quan giữa các mức độ "giá trị" và “phi giátrị" của nó. Về

mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay khơng tùy thuộcvào
chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc
đánh giáchế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà
Nguyễn... đều đòi hỏimột tư duy biện chứng như thế. Nhờ thường xuyên xem
xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọngthứ hai là
chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân
bằngđộng, khơng ngừng tự hồn thiện và thích ứng với những biến đổi của
môi trường, giúpđịnh hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển
của xã hội
2.3. Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh.
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội
(do con ngườisáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa
15


là cái tự nhiên được biếnđổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự
nhiên có thể mang tính vật chất(như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh
thần (như việc đặt tên, truyền thuyết cho cáccảnh quan thiên nhiên...). Như
vậy, văn hóa học khơng đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước
học làgiới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng của nó bao gồm
cả các giá trị tựnhiên, và khơng nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này
thì nó rộng hơn văn hốhọc. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến
các vấn đề đương đại, về mặt này thìnó hẹp hơn văn hóa học.Do mang tính
nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nóthực
hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngơn
ngữ làhình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
2.4. Văn hóa cịn có tính lịch sử
Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một q trình và
được tích luỹ quanhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra
trình độ phát triển của từnggiai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày,

một chiều sâu; nó buộc văn hóathường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân
loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sửđược duy trì bằng truyền thống văn
hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đốiổn định (những kinh
nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người quakhông gian
và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới
dạng ngơn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ, luật pháp, dư luận...Truyền
thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan
trọngthứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục khơng
chỉ bằng nhữnggiá trị đã ổn định (truyền thống), mà hệ thống chuẩn mực mà
con người hướng tới. Nhờ nó mà vănhóa đóng vai trị quyết định trong việc
hình thành nhân cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức
năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của tịch sử: Nó là mộtthứ "gien" xã hội
di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau

16


3. Vai trị của truyền thơng đại chúng trong hoạt động bảo vệ di sản
văn hóa ở Việt Nam
Truyền thơng theo định nghĩa hẹp là “sự trao đổi tin tức hoặc thơng
báo”, cịn nghĩa rộng, theo UNESCO là hoạt động của cá nhân hoặc tập thể
bao gồm toàn bộ những chuyển giao và trao đổi ý niệm, sự việc, dữ kiện.
Được thông tin là 1 trong những quyền cơ bản của con người, được pháp luật
bảo vệ. Truyền thông đại chúng (cịn gọi là báo chí) có vai trị quan trọng và
không thể thay thế trong việc đáp ứng quyền cơ bản đó và thơng tin cũng
được xem là chức năng cơ bản của báo chí. Thật vậy truyền thơng đại chúng
ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của công chúng và sự phát
triển mạnh mẽ của báo chí cũng dựa trên nền tảng là sự gia tăng nhu cầu
thông tin trong xã hội. Nhiều cuộc điều tra xã hội đã cho thấy, phần lớn người
dân thường trả lời là mình biết tin tức và tất cả những thông tin diễn ra xung

quanh nhờ theo dõi các phương tiện truyền thông đại chúng. Đây cũng là lý
do tạo nên sự tin tưởng của công chúng đối với chất lượng và nội dung thông
tin được báo chí đưa ra qua đó có phản hồi tích cực hợp tác và thậm chí trở
thành nguồn tin của báo chí. Việt Nam, một đất nước có lịch sử lâu đời, trải
qua nhiều thăng trầm thế sự, chiến tranh liên miên, lại nhiều sắc tộc chinh
phục và đồng hóa, lai tạp nhiều tơn giáo việc có nhiều di tích vừa là một điều
tất nhiên, vừa là một may mắn. Mỗi di tích được xem là một nhân chứng lịch
sử, là “đại sứ” của các thời khắc khác nhau trên hành trình lịch sử, cũng là
thơng điệp về bản sắc dân tộc. Khơng chỉ những cơng trình, di tích do con
người sáng tạo ra và để lại qua nghìn đời mà mỗi hình sơng,thế núi, hang
động … đều có thể thành di tích. Có di tích vật chất được xếp hạng về mỹ học
nhưng cũng nhiều di tích chỉ đơn thuần về tâm linh, tơn giáo, hoặc tưởng
niệm. Tính đến tháng 8/2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh
trong đó có hơn 3000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 5000 di
tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số lượng di tích nhiều nhất ở 11 tỉnh
vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm khoảng 70% di tích của Việt
17


Nam.Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hố,
danh lam thắng cảnh (gọi chung là di tích) cũng cịn được chia thành: Di tích
cấp tỉnh; Di tích quốc gia; Di tích quốc gia đặc biệt; Di sản thế giới. Thực tế
hiện nay chúng ta đang đối diện với những thách thức gay gắt trong việc bảo
vệ mơi trường di tích, di sản trước sự xâm hại, tàn phá của thiên nhiên và con
người. Chỉ cần gõ vào Google cụm từ “di sản bị xâm hại” là ngay lập tức ta
có tới hơn nửa triệu kết quả với các từ ngữ chỉ sự không thể trầm trọng hơn:
“kêu cứu”, “xâm lấn”, “xâm hại”, “xẻ thịt”, “bóp cổ”, “bức tử”, “sắp biến
mất”, “biến mất hồn tồn”… Điều này thực là đau xót! Ai cũng biết , mơi
trường sinh thái chính là nguồn sống của di tích, ni dưỡng cho di tích và
làm cho mỗi di tích có sức sống riêng. Nếu như khơng có quang cảnh Hồ Tây

mênh mơng sóng nước với đàn sâm cầm sải cánh, thì liệu các di tích như phủ
Tây Hồ, chùa Trấn Quốc có sức thu hút như ta đang thấy khơng? Nếu khơng
có vùng núi rừng Phong Châu trùng điệp bao quanh thì liệu di tích Đền Hùng
có được sự hùng vĩ và sức sống như hiện nay khơng? Câu hỏi tương tự có thể
đặt ra với các di tích khác như chùa Hương, Yên Tử, thánh địa Mỹ Sơn, các
lăng tẩm ở Huế… Cho nên, không thể nói đến sự tồn tại của di tích, mà khơng
nói đến mơi trường sinh thái di tích đó tọa lạc. Tuy nhiên trên thực tế người ta
đã từng làm sụp Hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn rồi đắp lại bằng bê tông; đã phá
dỡ, hủy hoại trong việc trùng tu ngơi chùa Trăm Gian ngót nghìn tuổi - một di
tích quốc gia đặc biệt quý hiếm , đã làm hư hại rất nhiều đối với chùa Thầy ở
Thạch Thất , di tích khảo cổ nổi tiếng Hồng Thành Thăng Long, rồi chùa
Một Cột, chùa Trấn Quốc không chỉ một lần phải gióng lên tiếng kêu cứu
trước nguy cơ bị xâm hại…Đó là chưa kể đến những hàng qn sơi sục thời
kinh tế thị trường đã bủa vây, “bóp cổ” các di tích “mờ hơi sương” ở chùa
Hương; người ta cũng từng lăm le đổ hàng nghìn mét khối bùn xuống vịnh Hạ
Long, đã chở tới ngay bên bờ vịnh 7.000 lít hố chất siêu độc khiến nàng tiên
danh thắng nổi tiếng của nhân loại có nguy cơ tắt thở bất cứ lúc nào……. Có
thể nói, với một lực lượng hùng hậu hiện nay gồm 838 cơ quan báo in, 67 đài
18


phát thanh, truyền hình, 92 báo, tạp chí điện tử và 01 hãng thơng tấn quốc gia,
báo chí nước ta đã và đang có những đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn và
phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc. Nhận thức sâu sắc văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, và nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, báo chí đã tích cực, chủ động tuyên truyền, giải
thích các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc.
Thơng qua việc tun truyền, quảng bá, giới thiệu các di sản văn hóa dân tộc

với bạn bè quốc tế khắp năm châu trên báo chí, đã làm cho bạn bè quốc tế
thấy được những đóng góp to lớn của nền văn hóa Việt Nam vào kho tàng văn
hóa nhân loại, phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc trong giao
lưu, hội nhập về văn hóa với các quốc gia trên thế giới Báo chí cũng tập trung
tuyên truyền, phản ánh việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản
văn hóa, khuyến khích sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong
nước và ngồi nước đóng góp kinh phí, cơng sức để tu bổ di tích, hiến tặng
hiện vật cho bảo tàng nhà nước Trong công tác thông tin, tuyên truyền, quảng
bá đối với các di sản văn hóa dân tộc, báo chí cũng đặc biệt quan tâm đến
công tác bảo vệ môi trường xung quanh các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh, các lễ hội truyền thống... Thực tế những năm qua cho thấy, hầu
hết các báo, đài đều xây dựng chuyên trang, chun mục về đề tài văn hố,
trong đó ít nhiều đề cập đến nội dung bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá, đồng thời cũng phê phán, lên án mạnh mẽ những hành vi xâm hại đến di
sản văn hoá như những vụ việc xâm hại đến di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh, hoặc việc đưa các đồ thờ cúng không rõ nguồn gốc, các linh
vật ngoại lai vào các di tích lịch sử - văn hóa... Sự sống và tương lai các di sản
đè nặng trách nhiệm lên xã hội và lên vai các nhà báo. Bởi điều có ý nghĩa
quyết định nhất đến tương lai của di sản chính là sự chăm lo và ủng hộ của
cộng đồng. Mà điều có tác động mạnh mẽ, tức thời, liên tục và rộng khắp tới
19


cộng đồng lại chính là truyền thơng và báo chí. Chính vì vậy, trong những nỗ
lực lớn lao của mình, xã hội cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của báo
chí và các hoạt động truyền thơng trong việc chuyển tải thông tin và giáo dục
công chúng, giúp công chúng hiểu biết và tham gia bảo vệ di sản, bảo vệ môi
trường sinh thái của di sản.
4. Báo chí với bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc
Trong sự phát triển nền báo chí truyền thơng Việt Nam hiện đại, việc

truyền thông giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng được
đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu của nhà báo Việt Nam
muốn truyền thông về văn hóa Việt Nam, đương nhiên phải giải mã được bản
sắc văn hóa Việt, nếu khơng sẽ khơng thể làm tốt nhiệm vụ căn cơ này của
nền báo chí truyền thơng Việt.
Kể từ tờ báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ thuộc nửa đầu thế kỉ 20 ra
đời, văn hóa Việt Nam đã được nhận diện và truyền thông, dù lúc bấy giờ,
Việt Nam là thuộc địa Pháp. Và trong giao lưu với văn hóa phương Tây,Việt
Nam đã lâm tình huống bị cưỡng đoạt về văn hóa. Song, dù muốn dù khơng,
Việt Nam cũng phải bị/chịu “Âu hóa” như một xu hướng văn hóa khơng tránh
khỏi. Điều này đã dẫn Việt Nam, ngay từ trong lòng xu hướng này, đến bi
kịch của sự phát triển, đã được học giả Đào Duy Anh nhận thực về bản chất
trong “Việt Nam văn hóa sử cương” (Nxb. Quan hải Tùng thư, Huế, 1938, tái
bản đã nhiều lần). Học giả Đào Duy Anh khẳng định rằng, về bản chất, văn
hóa Việt Nam truyền thống vẫn là nền văn hóa nơng nghiệp căn cơ. Bi kịch
xuất hiện, khi nền văn hóa nơng nghiệp ấybị cưỡng đoạt về văn hóa, khi thực
dân Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp, và Việt Nam buộc phải
chuyển sang một nền văn hóa mới và khác, mang bản chất “Âu hóa”, theo mơ
hình của văn hóa văn minh phương Tây.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, hiện nay cả nước
có khoảng 40.000 di tích được kiểm kê, trong đó xếp hạng 7.848 di tích cấp
tỉnh, 3.174 di tích cấp quốc gia, 34 di tích cấp quốc gia đặc biệt và 7 di sản
20


được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới. Chúng
ta đã thống kê lập hồ sơ 13.440 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 35 di
sản được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 6 di sản được
UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại…
Điều đó cho thấy, thời gian qua ngoài sự quan tâm của Đảng và Nhà

nước, các cơ quan báo chí từ trung ương đến địa phương ln bám sát đời
sống văn hóa của đất nước, phản ánh tích cực, sinh động nền văn hóa dân tộc.
Góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của dân tộc,
làm phong phú bản sắc dân tộc, từng bước nâng cao tinh thần đời sống của
nhân dân.
Giáo sư Hoàng Chương - Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo
tồn & Phát huy Văn hóa dân tộc Việt Nam khẳng định: Nói đến bảo tồn, phát
huy, quảng bá văn hóa dân tộc khơng thể khơng nói tới vai trị của báo chí,
truyền thơng. Báo chí là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy việc ra đời
Luật Di sản Văn hóa. Nhờ tiếng nói của báo chí mà sự xâm hại của di sản văn
hóa được ngăn chặn. Bên cạnh đó, cịn phát huy, tôn vinh những tài năng,
nghệ thuật dân tộc từ xa xưa và các thế hệ nghệ sĩ tài năng kế tiếp…
Trước tình hình mai một của nhiều di sản văn hóa hiện nay, các đại biểu
cho rằng, báo chí cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm; nhận thức đúng để tuyên
truyền đúng hơn, sâu sắc hơn với nhiều vấn đề trong công tác bảo tồn và phát
huy những giá trị đích thực của di sản. Đồng thời, các địa phương trong cả
nước cần tạo mối liên hệ để quảng bá di sản văn hóa với Tùy viên văn hóa của
Đại sứ quán các nước tại Hà Nội, Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngồi, các
phóng viên Việt Nam thường trú ở nước ngồi, phóng viên quốc tế. Báo chí
của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khá nhiều, có thể tham gia cơng
việc quảng bá di sản văn hóa dân tộc một cách hiệu quả mà ít tốn kém, giúp
cho công tác bảo tồn, quảng bá, phát huy di sản được lan tỏa sâu rộng hơn.
Để báo chí làm tốt hơn vai trị của mình trong cơng tác bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa dân tộc cần thực hiện 4 giải pháp. Đó là, tăng cường hơn
21


nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm đưa nhanh Nghị quyết Trung ương
9 vào cuộc sống. Nâng cao chất lượng hiệu quả các bài viết trên các báo, các
chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình. Muốn vậy, cần phải có đội

ngũ cán bộ làm văn hóa, tuyên truyền văn hóa chuyên sâu, phải "am tường về
văn hóa, văn học, nghệ thuật", như Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ.
Người làm báo phải có tình u văn hóa dân tộc, coi tun truyền văn hóa
khơng chỉ là ý thức, mà còn trách nhiệm cao đẹp của người cầm bút. Bên cạnh
đó, cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan báo chí với các Hội Văn học,
nghệ thuật Trung ương và địa phương; giữa các bộ, ban, ngành ở Trung ương
(nhất là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch địa phương). Từng Hội, từng ngành, từng địa phương có chính sách động
viên, khen thưởng kịp thời những nhà báo tâm huyết, trách nhiệm, có những
bài viết tốt về văn hóa, trong đó có nhiều bài về bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa dân tộc.

22


KẾT LUẬN
Các phương tiện truyền thông đại chúng là một quyền lực thực sự trong
thế giới hôm nay. Chúng tạo ra dư luận, chi phối dư luận, kiểm soát cuộc
chuyện trị trao đổi cơng cộng. Điều đó cũng có nghĩa là một cách nào đó
chúng cũng chi phối cách suy nghĩ, chọn lựa và hành động của mỗi người
chúng ta.
Nhờ các phương tiện truyền thông ngày nay, đặc biệt nhất là Internet,
chúng ta có thể tiếp cận một khối lượng thông tin khổng lồ, hầu như vô tận
(thông tin ở đây hiểu theo nghĩa rộng) bao gồm hết mọi lãnh vực của tri thức
và đời sống, nhưng trong đó vàng thau, tốt xấu, đúng sai, thật ảo lẫn lộn. Nếu
không có những chọn lựa rõ ràng theo những định hướng hữu ích cho bản
thân, ta sẽ bị lạc lối và phung phí thời giờ vơ ích, –khơng phải chỉ vơ ích mà
cịn rất có hại nữa. Điều này địi hỏi một sự rèn luyện kỷ luật bản thân kiên
quyết và kiên trì ( việc sử dụng Internet)
Bởi vậy truyền thơng đại chúng càng có tầm vóc quan trọng to lớn thì

những người làm truyền thơng càng phải tìm hiểu nguồn tin, cung cấp những
thơng tin chính xác nhất để định hướng dư luận theo hướng tích cực. Đặc biệt
trong lnhx vực bảo tồn, quảng bá và phát huy các giá trị văn hóa.
Truyền thơng phải góp phần định hướng dư luận xã hội. Khi đứng trước
một vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, bên cạnh trách nhiệm thông tin kịp
thời, truyền thông đại chúng phải đặt trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã
hội lên trên; tức là trăn trở, tìm hiểu và lý giải vấn đề một cách thấu đáo với
cái nhìn sắc nét, biện chứng.
Cách đưa thơng tin của phương tiện thông tin đại chúng phải làm sao
giúp độc giả nhìn vấn đề dưới một góc nhìn trọn vẹn nhất, từng câu, từng
chữ phải được cân nhắc sao cho khách quan, trung thực. Từ đó, giúp độc giả
có những suy nghĩ, tình cảm, hành động đúng để bảo vệ cái tốt, cái tiến bộ,
đấu tranh với cái xấu, cái ác. Đồng thời, cần tỏ rõ thái độ ủng hộ cái tốt, cái
23


tích cực và đấu tranh khơng khoan nhượng với những tiêu cực trong đời
sống xã hội.
Truyền thông đại chúng đã góp phần trong định hướng dư luận xã hội,
tạo ra những luồng dư luận tích cực làm lành mạnh hố đời sống xã hội, tạo
đà khai thác tốt sức mạnh nội lực cho quá trình phát triển phát triển kinh tế-xã
hội của từng địa phương và của cả nước. Và, đó chính là góp phần vào hoat
động tư tưởng của Đảng - xây dựng một xã hội công bằng văn minh

24


MỤC LỤC



×