1. Mở đầu
Truyền hình là một loại phơng tiện truyền thông đại
chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh.
Sự xuất hiện của truyền hình nh một điều thần kỳ trong sáng
tạo của con ngời. Với sự kết hợp giữa hình ảnh động và âm
thanh, truyền hình mang lại cho con ngời cảm giác về một
cuộc sống thật đang hiện diện trớc mắt. Đó là cuộc sống thật
nhng đà đợc cô đọng lại, làm giàu thêm về ý nghĩa, làm sáng
rõ hơn về hình thức và làm phong phú hơn về những khía
cạnh, bình diện, đờng nét sinh động.
2. Truyền hình phát triển trên góc độ lịch sử.
Trên các phơng tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam báo in
ra đời sớm nhất. Tờ báo tiếng Việt đầu tiên là Gia Định báo ra
số thứ nhất vào ngày 15/4/1865 ở Gia Định, đà có vai trò to lớn
cùng các tờ báo sau này giúp nhân dân Việt Nam làm quen với
một thể loại phơng tiện thông tin mới; phát triển tiếng quốc
ngữ, nâng cao dân trí Đúng 80 năm sau, ngày 7/9/1945, Đài
tiếng nói Việt Nam đợc thành lập chỉ sau 5 ngày nớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời và Chính phủ mới dới sự lÃnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt quốc dân đồng bào. Cho đến
ngày 7/9/1970 truyền hình Việt Nam mới phát sóng chơng
trình đầu tiên của mình.
Nh vậy, từ khi tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời cho tới
năm 1975 và sau vài năm nữa thì mới có Đài truyền hình, nhng nhìn chung hơn 30 năm do đất nớc. Trải qua chiến tranh,
nền báo chí Việt Nam bị chi phối bởi quy luật chiến tranh và
tập trung vào chủ đề lớn là đấu tranh thống nhất đất nớc, tiếp
theo là khôi phục băng bó vết thơng do chiến tranh mang lại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có đặc điểm là mở rộng
việc trao đổi các loại hàng hoá, dịch vụ, đó là tiền đề cho
1
việc mở rộng giao lu văn hoá thông tin, nhất là các lĩnh vực liên
quan đến dịch vụ giải trí, đời sống văn hoá tinh thần. Hiện
đại hoá tạo ra lèi sèng thùc tÕ, cơ thĨ coi träng c¸c nhu cầu vật
chất, đời thờng của mỗi con ngời và xà hội, tránh đợc lối sống
quá ảo tởng hoá chạy theo lối sống tình cảm chủ nghĩa quá
mức. Là những ngời tiếp xúc nhiều với thông tin, với đặc tính
nhanh nhạy của nghề nghiệp, hơn ai hết - các phóng viên
truyền hình khi tiến hành công việc của mình họ là con đẻ
của thời đại nên họ mang phong cách thực tế, cụ thể. Điều này
đà dẫn đến sự ra đời các chơng trình truyền hình mang dấu
ấn của thời đại míi. H¬i thë cc sèng thêng nhËt, thùc tÕ, cơ
thĨ, bớt thông tin một chiều mang tính tuyên truyền. Các chơng trình truyền hình mới gần gũi với đời sống ngời dân: "ở
nhà chủ nhật", "Diễn đàn doanh nghiệp", "Nông thôn
ngày nay", "Khách mời cuối tuần", "Ngời tốt việc tốt" và
nhiều tin, bài về cuộc sống muôn màu, phức tạp thời kỳ hiện
đại hoá, công nghiệp hoá. Các chơng trình về giới thiệu việc
làm, ngời tìm việc cũng đợc đáp ứng những nhu cầu mới của
cuộc sống. Vai trò công chúng cũng tăng lên, họ tham gia vào
các chơng trình, họ viết th cho ban bạn đọc để tác động
đến chơng trình
3. Sự tác động của truyền hình tới công chúng.
3.1. Cảm nhận truyền hình thông qua hình ảnh.
Con ngời thu nhận thông tin bằng mắt nhanh hơn bằng
tai, điều gì đập vào mắt thì dễ nhớ khó quên. Ngời xem
truyền hình chăm chú theo dõi những hình ảnh sống ®éng
diƠn ra ®Ĩ c¶m thơ, nhËn thøc sù kiƯn. Khi ®a tin vỊ viƯc
thùc hiƯn NghÞ ®Þnh 36/CP, ngêi xem những cảnh buôn bán
vẫn còn ngổn ngang trên vỉa hè, xe cộ đi lại dới lòng đờng vẫn
mất trật tự là ngời ta nhận thức đợc kết quả thế nào råi, ngêi
2
phát thanh viên nói nhiều hay ít về sự kiện đó cũng không thể
đảo ngợc đợc nhận thức của ngời xem.
3.2. Hình ảnh đà đánh thức sự lÃng quên.
Thế hệ chúng ta đang sống trong hoà bình, phồn vinh.
Trớc cuộc sống xa hoa ồn à và trớc sự đua tranh ®Ĩ kiÕm miÕng
sinh nhai, Ýt ai cã thĨ nghÜ tíi những giây phút mà ông cha ta
đà phải hy sinh gian khổ mới có đợc một Việt Nam nh ngày nay.
Chúng ta lên án chiến tranh là tàn khốc nếu chỉ nói thôi
thì cha đủ để cho những nơi nào cha có chiến tranh cảm
thông đợc, nhng trên truyền hình xuất hiện những cảnh bom
rơi, đạn nổ mù mịt, các cảnh chết chót thảm thơng đợc bày
ra trớc mắt ngời xem thì sẽ phải rùng mình mà lên án kẻ gây
ra chiến tranh.
Rõ ràng ở đây chúng ta thấy khi nói thì chiến tranh có
tàn khốc đến đâu cũng chỉ để ngời nghe nhận đợc rằng
chiến tranh là thế. Nhng khi ngời ta đợc cảm nhận chiến tranh
cả bằng mắt lẫn đôi tai thì thái độ của họ sẽ khác hẳn. Đối với
ngời không có tầm hiểu biết mấy thì ít nhất họ cũng có thể
thốt lên rằng "thật là kinh khủng". Còn những ngời hiểu biết
thì họ thật sự căm phẫn, họ lên án trì trích chiến tranh với
những lời lẽ thật gay gắt.
3.3. Công chúng đón truyền hình nhng không
nhận.
Tuy hình ảnh có sức hấp dẫn, thuyết phục ngời xem, nhng
chỉ có hình ảnh thôi thì chẳng khác gì chúng ta xem phim
câm. Phải làm sao để ngời xem đến đâu hiểu ngay và hiểu
đúng sự kiện đến đấy. Hình ảnh gây ấn tợng, tác động vào
tình cảm của ngời nghe, nhng cha giúp ngời xem nhận thức
đầy đủ và toàn diện sự kiện nêu ra. Tiếng nói và âm thanh là
bộ phận để làm rõ thêm, đầy ®đ h¬n vỊ sù kiƯn ®ã.
3
Ví nh khi cảnh bÃo lũ lụt tàn phá xuất hiện trên màn hình
kia là ở đâu? Thiệt hại nhiều hay ít? Sự khắc phục hậu quả
khó khăn trở ngại gì? Đó là những cái mà hình ảnh không diễn
đạt đợc.
Vậy tiếng nói và hình ảnh phải đi đôi với nhau. Hình
ảnh chi phối tiếng nói, lời nói âm thanh nâng thêm ý nghĩa
của hình ảnh. Hai mặt này là một thể thống nhất. Hai bộ
phận này không khớp với nhau, hình ảnh một đờng, tiếng nói
một nẻo sẽ làm cho nội dung thông tin bị méo mó, mất đi
tính chân thật của báo chí.
3.4. Truyền hình mang tính giải trí, giáo dục cao.
Hiện đại hóa nhu cầu công chúng đà làm cho phim truyền
hình có vị trí nhất định, mọi ngời bôn ba kiếm tiền, mu sinh
cả ngày, buổi tối rất muốn xem chơng trình truyền hình hấp
dẫn, rất ít ngời có thói quen đến rạp ngày thờng, phim truyền
hình rất có lợi thế đối với đông đảo công chúng.
Các bộ phim mang tính giáo dục xuất hiện ngày càng
nhiều đà làm cho ngời xem cảm nhận, học hỏi, ý thức lại bản
thân. Từ đó họ giúp cho bản thân mình đợc hoàn thiện hơn.
Các sân chơi giải trí hấp dẫn mà báo chí cũng nh truyền
hình mang lại đà giúp cho ngời dân có thêm kinh nghiệm cũng
nh vốn sống cho bản thân. Đây quả là điều kỳ diệu của
truyền thông mang đúng nghĩa truyền đạt đến công chúng
những điều nên làm.
ở tất cả mọi lứa tuổi từ ông già đến trẻ nhỏ, nam hay nữ
đều đợc các phơng tiện truyền thông nhắc tới. Có thể nói báo
chí có thể làm thay đổi hoàn toàn từ suy nghĩ đến cách
nghĩ, cách làm của mỗi ngời. Đây đúng là điều kỳ diệu mà
báo chí nói riêng và truyền hình nói chung đà làm đợc.
4. Xu hớng xà hội hóa trun h×nh hiƯn nay.
4
Chóng ta ®ang sèng trong mét thÕ giíi víi sù bùng nổ
thông tin trên phạm vi toàn cầu. Thông tin ®· xen vµo mäi lÜnh
vùc, chi phèi vµ lµm thay đổi phơng thức vận hành, quản lý
mọi sự hoạt động của xà hội. Các phơng tiện thông tin đại
chúng trong đó có truyền hình đều đà và đang phát triển
nhanh chóng. Nhanh đến mức vợt xa sự hình dung của nhiều
ngời.
4.1. XÃ hội hóa về sản xuất và quảng cáo các chơng
trình truyền hình.
Trong chúng ta không phải ai cũng có thể hình dung rõ
rệt diện mạo và nhất là cơ chế hoạt động của các phơng tiện
truyền thông đại chóng trong thêi gian tíi nh thÕ nµo. Nhng cã
mét điều chắc chắn là mỗi ngời đều phải tự mình nhìn lại
và tự mình điều chỉnh các suy nghĩ truyền thống quen
thuộc từ trớc đến nay.
Sự tồn tại của những chơng trình truyền hình có tầm giá
trị cao về tinh thần. Tuy sinh sau nhng nhờ vào những thành
tựu khoa học kỹ thuật cũng nh công nghệ hiện đại mà truyền
hình ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, thu hút đợc đông
đảo quần chúng.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, điều cần thiết với những
ngời làm truyền hình không chỉ là sự cố gắng nhiều hơn,
sáng tạo nhiều hơn, mà điều quan trọng là phải nhận thức rõ
những thách thức và thời cơ, thấy đợc xu thế vận động làm cơ
sở để xây dựng chiến lợc hành động phù hợp cho sự phát triển
của ngành.
Một điều hiển nhiên là không ai sản xuất chơng trình
truyền hình để chỉ cho mình xem cả. Phải sản xuất để cho
công chúng xem và phục vụ nhu cầu xem của công chúng. Nhu
5
cầu của công chúng đòi hỏi càng cao, càng đa dạng, thì
truyền hình cần phải nỗ lực nhiều hơn để thoả mÃn điều ấy.
Từ một quốc gia không đủ ăn, sống chủ yếu nguồn viện trợ
ở bên ngoài, chúng ta đà vơn lên trở thành một cờng quốc trong
xuất khẩu lơng thực điều kiện sống của ngời Việt Nam đợc
nâng lên. Cùng với đó là những thay đổi trong nhận thức, t
duy. Công chúng giờ đây không chỉ muốn ăn ngon mặc đẹp
mà còn có nhu cầu giải trí khác. Điều này làm xuất hiện thị trờng vui chơi, giải trí. Trong lĩnh vực này, truyền hình đà tỏ ra
lợi thế cạnh tranh của mình. Khả năng quảng bá của màn ảnh
nhỏ làm cho truyền hình trở thành là ngời tổ chức các cuộc
thi, vui chơi giải trí mang tính toàn quốc. Các chơng trình nh:
Chiếc nón kỳ diệu, Sao Mai điểm hẹn, HÃy chọn giá
đúng, Ai là triệu phú xuất hiện trên VTV đà trở thành
những sân chơi hấp dẫn, bổ ích với khả năng thu hút rất
đông đảo khán giả.
Nhu cầu của công chúng hiện đại đà khiến cho truyền
hình không chỉ là nhà cung cấp thông tin thời sự chính trị
mang đậm dấu ấn của báo chí nữa, mà còn đòi hỏi truyền
hình phải tích cực hơn trong xà hội hóa các loại hình chơng
trình phục vụ nhu cầu ngày một đa dạng, phong phú của công
chúng. Tất nhiên nhu cầu của công chúng ở đây không phải là
phép cộng thuần tuý nhu cầu của các cá nhân. Bởi theo nhu
cầu của tất cả công chúng truyền hình dễ sa vào thoả mÃn cả
những nhu cầu phi văn hóa.
4.2. XÃ hội hóa hoạt động quản lý là một đòi hỏi tất
yếu đối với truyền hình hiện đại.
Về mặt quản lý nội dung, là một cơ quan thông tin đại
chúng, đặt dới sự lÃnh đạo thống nhất của Đảng, và hoạt động
theo những quy định của pháp luật, tất cả các sản phẩm
6
truyền hình đều đợc quản lý thống nhất về mặt nội dung.
Tuy nhiên, quản lý nội dung không đồng nghĩa với việc phải
quản lý tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm truyền hình. Và
càng không có nghĩa hoạt động quản lý của truyền hình
không thể tham gia vào tiến trình xà hội hóa.
Dới góc độ quản lý con ngời, truyền hình cũng bớc vào
giai đoạn xà hội hóa quyết liệt. Nh đà biết, xà hội càng phát
triển, trí tuệ xà hội ngày càng đợc nâng lên, và trí tuệ ấy
ngày càng đợc quảng bá trên truyền hình nhiều hơn. Nhng ngợc lại, chính truyền hình cũng đang tìm mọi cách để hấp thu
trí tuệ xà hội để đầu t cho sự phát triển. Điều đó sẽ càng trở
nên quan trọng khi phân công lao động và chuyên môn hóa các
hoạt động sản xuất chơng trình truyền hình đạt đến trình
độ cao.
Trên một bình diện khác, để đảm đơng đợc là một
binh chủng tiên phong trên mặt trận văn hóa, t tởng, có vai trò
quyết định trong định hớng d luận và hành động của công
chúng, tất cả các chơng trình truyền hình đều đứng trớc
yêu cầu về trí tuệ và tính khoa học. Mỗi luận điểm, nhận
định trong phóng sự, trong bình luận và trong các thể loại
khác của truyền hình đều ảnh hởng đến nhận thức và hành
vi của toàn xà hội. Và để đạt đến sự chuẩn xác trong thông
tin, đòi hỏi nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả các
chuyên gia trên lĩnh vùc trong cc sèng. TrÝ t, tÝnh khoa
häc vµ møc độ tin cậy của truyền hình chỉ có đợc khi có sự
tham gia ngày một nhiều hơn của các lực lợng khác trong xÃ
hội.
5. Kết luận.
7
Truyền hình là loại sản phẩm vật chất đặc biệt. Nó
không chỉ là hàng hóa thông thờng mà còn là một loại sản
phẩm mang tính đại chúng, tính cộng đồng cao.
Mấy chục năm qua, nhân dân ta đà tạo cho m×nh mét
thãi quen khi xem trun h×nh. Hä xem bÊt kỳ lúc nào họ
muốn bởi truyền hình phục vụ chúng ta 24/24 giê. Khi xem
trun h×nh hä cã thĨ vÉn làm đợc các công việc mà họ muốn.
Bởi truyền hình bỏ qua chức năng nhìn chúng ta vẫn có thể
hiểu đợc mình đang theo dõi sự kiện gì?
Nhận rõ vai trò và tác dụng quan trọng của truyền hình
nên Đảng và Nhà nớc ta rất quan tâm đến việc phát triển và
củng cố hệ thống trang thiết bị từ Trung ơng đến địa phơng.
Các nhà khoa học đà có kết luận: Con ngời tiếp nhận
thông tin bằng tai chỉ đạt 11% lợng thông tin nói ra. Trong khi
đó, nếu xem bằng mắt thì có thể tiếp nhận đợc 83% hoặc
nếu tiếp nhận vừa bằng mắt vừa bằng tai thì có thể thu nhận
đợc 94% lợng thông tin đó. Điều đó cho thấy sự tác động của
khoa học và công nghệ tới truyền hình đà làm cho nhận thức
của ngời dân đợc tăng lên.
8