ĐỀ TÀI: BÁO CHÍ VỚI VIỆC TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ VĂN HĨA
TRUYỀN THỐNG TẠI CÁC TỈNH TÂY BẮC
1. Lí do chọn đề tài
Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con
người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý
nghĩa quan trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội
nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hóa.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người
Việt Nam. Xét về bản chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử
không ngừng đấu tranh chống ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên
phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của bản sắc văn hóa dân tộc, đó là tinh
thần yêu nước thương nịi. Chủ nghĩa u nước của văn hóa dân tộc ta khơng chỉ
biểu lộ ở lịng dũng cảm, đức hy sinh mà cịn ở tinh thần đồn kết, nhân ái, yêu
thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị
động
để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của
mình.Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam ln coi trọng
mặt trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn 80 năm qua
định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của
Đảng về văn hóa, văn nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khóa VIII đã đánh
dấu bước phát triển mới về đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với
phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội,
vào từng người…tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí
cao…
Có thể nói Nghị quyết TW 5 là nguồn cảm hứng, nâng cao tinh thần
của nhân dân ta bước vào th ế kỷ mới, làm cho văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
1
động lực của sự phát triển đất nước. Nghị quyết cũng chỉ rõ “ nền văn hóa Việt
Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam”.
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung
đườngbiên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lược trong
an ninh-quốc phịng, đư ợc coi là “phên dậu” của tổ quốc. Trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh và chiến dịch quân sự ác liệt
mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm xưa. Địa hình
Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây BắcĐông Nam. Dãy núi Hoàng Liên Sơn cao đến 1500m dài tới 180km, rộng 30km,
với một số đỉnh núi cao trên 3000m, vùng Tây Bắc có 2 con sơng lớn đó là sơng
Đà và sông Thao (Tức là sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng trên vùng
Tây Bắc. Với đặc điểm địa hình như vậy đã tạo nên cho vùng Tây Bắc khơng
gian v ăn hóadân tộc đặc sắc, nổi bật nhất là văn hóa dân tộc Thái với những điệu
múa xịe uyển chuyển, quyến rũ với trang phục dân tộc độc đáo, kín đáo nhưng gợi
cảm, với những trái Cịn, trái Pa Pao chao liệng khi xuân đến, Và với những phiên
chợ tình thơ mộng, lãng mạn của dân tộc Mơng...Ngồi ra vùng Tây Bắc cịn có
gần 30 dân tộc anh em các dân tộc thiểu số, sống đồn kết hịa thuận mn đời
bên nhau.
Vùng Tây Bắc Việt Nam có một nền văn hóa cội nguồn đa dạng, độc đáo,
được kết tinh từ đời này sang đời khác. Đó là một trong những nội lực to lớn của
đất nước. Nhưng hiện nay, giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc
đang xuất hiện xu hướng bị đồng hóa về văn hóa, từ nghi thức sinh hoạt, lễ hội
tín ngưỡng, phong tục tập quán, đến những bộ trang phục truyền thống các dân tộc
giờ đây ít được lớp trẻ chuộng dùng, tiếng nói riêng của từng dân tộc cũng bị pha
trộn, nhiều lớp trẻ khơng biết nói của dân tộc mình. Âm nhạc, những làn điệu dân
ca cũng bị xem thường hoặc chỉ là thú vui của người cao tuổi...do đó, “Coi trọng
và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng những giá trị mới về
văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số” cũng là một trong những
2
nhiệm vụ quan trọng mà nghị quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng cũng đã đề
cập tới.
Với vai trị là một kênh thông tin quan trọng, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng của Đảng bộ,
chính quyền các tỉnh vùng Tây Bắc, hệ thống báo chí đã có những đóng góp tích
cực trong việc tun truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến đơng đảo nhân dân góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh
thần ngày càng cao của nhân dân các dân tộc, nhất là trong công tác tuyên truyền
việc giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Bằng sức mạnh
của mình, báo chí tác động vào nhận thức của cơng chúng, của xã hội, tạo ra ý
thức cao về vị trí vai trị của văn hóa trong phát triển, từ đó xây dựng nên những
ước muốn gìn giữ và phát huy giá trị văn hóatruyền thống tốt đẹp của dân tộc,
nhằm tăng thêm sức mạnh nội sinh, phát triển đất nước, tiến lên giàu đẹp, văn
minh. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng việc tuyên truyền văn hóa các dân
tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng Tây Bắc thời gian qua vẫn còn nhiều bất
cập, hạn chế như: nội dung thể hiện chưa phong phú, đa dạng, chậm đổi mới, chưa
hấp dẫn, đội ngũ phóng viên, biên tập viên chưa có chun mơn sâu, cũng như sự
am hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số cịn bất cập...Nền kinh tế thị
trường do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã gặt hái được
kết quả bước đầu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, những hệ lụy do mặt trái của cơ
chế thị trường gây ra cũng không phải là nhỏ, đang tác động trực tiếp vào đời sống
văn hóa của nhân dân, có nguy cơ làm sói mịn đạo đức dân tộc, hủy hoại những
giá trị dân tộc mà ông cha ta bao đời nay dầy công vun đắp.Tây Bắc là một vùng
có cơ cấu dân tộc thiểu số cùng chung sống khá đa dạng với gần 30 tộc người. Qua
cơ cấu dân tộc của Tây Bắc cho thấy nơi đây có một nền văn hóarất phong phú và
đa dạng. Mỗi dân tộc có nét đẹp, giá trị bản sắc văn hóa riêng. Trước tình hình
đó, cần phải có những nghiên cứu cụ thể, khoa học tìm ra những giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyền truyền bảo tồn những bản sắc văn
hóadân tộc thiểu số. Cho nên tôi chọn đề tài: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị
3
văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc nhằm nghiên cứu vấn
đề giữ gìn giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về vấn đề giữ gìn giá trị
văn hóatruyền thống dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí Tây Bắc, luận văn chỉ
ra được thực trạng, đề xuất các phương hướng cụ thể nhằm tăng cường vai trị tác
động của báo chí trong việc tun truyền giá trị v ăn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số vùng Tây Bắc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Đi vào phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số .
- Khảo sát một số báo, đài các tỉnh vùng Tây Bắc.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống
báo chí vùng Tây Bắc.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ nghiên cứu của đề tài này, tác giả sẽ chỉ tập trung khảo
sát, đánh giá những bài viết liên quan đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống đặc sắc và độc đáo của dân tộc thiểu số, thông qua các
chuyên trang, chuyên mục cụ thể của hệ thống các loại hình báo chí tại một tỉnh
miền núi phía Bắc .
Với thời lượng một năm rưỡi với những tài liệu tin, bài
thu thập liên quan đến vấn đề nghiên cứu là cơ sở nhận xét đánh giá khách quan
cho đề tài nghiên cứu.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về báo chí và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; những đường lối,
chủ trương về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
4
của Đảng và Nhà nước. Mặt khác còn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý
thuyết truyền thông và cơ sở lý luận báo chí. Đề tài cịn dựa vào lý thuyết đặc điểm
của văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóadân tộc thiểu số để nghiên cứu, đánh giá.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Thống kê các bài viết liên quan đến tun truyền giữ gìn bản sắc văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số trên báo, tạp chí văn nghệ, chương trình phát
thanh, truyền hình trong thời gian một năm rưỡi. Trên cơ sở đó đánh giá, phân tích
rõ hơn vai trị, vị trí của một tỉnh miền núi phía Bắc với vấn đề tuyên truyền giá trị
văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số.
Ngồi ra, tiểu luận còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với đối
tượng là cơng chúng báo chí tại một tỉnh miền núi phía Bắc để tăng thêm tính
khách quan cho đề tài.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
4.1. Về mặt lý luận
Bước đầu tổng kết khái quát những quan điểm cơ bản về báo chí với vấn
đề giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc tổ
quốc.
4.2. Về thực tiễn
Làm phong phú thêm những cơng trình nghiên cứu về giữ gìn bản sắc
văn hóatruyền thống dân tộc và nhất là việc phát huy vai trị của báo chí trong
cơng tác giữ gìn những giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc. Từ việc nâng cao ý thức
cơng dân, cộng đồng các dân tộc trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc, tạo dựng thói quen, nếp sống coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình,
tạo mơi trường thuận lợi trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, từ đó tạo ra
phong trào toàn dân bảo vệ phát triển những giá trị văn hóa phong phú và đặc sắc
của dân tộc.Những hệ thống giải pháp và biện pháp thiết thực của đề tài sẽ góp
phần thực hiện tốt khơng chỉ cơng tác thơng tin, tun truyền trên báo chí mà còn
nâng cao nhận thức, ý thức của cả cộng đồng về góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa
dân tộc.
5. Kết cấu của tiểu luận
5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Những lý luận chung về các vấn đề tuyên truyền giá trị văn
truyền thống các dân tộc thiểu số Tây Bắc.
Chương 2: Báo chí với việc tun truyền giá trị văn hóa truyền thống của
các dân tộc thiểu số.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số.
6
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Văn hóa
Nói về văn hóa đó là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã
hội, thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm, biểu hiện sức
sống, sức sáng tạo của một dân tộc. Ta có thể thấy ở văn hóa nổi lên những đặc
trưng cơ bản nhất là tính nhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử. Nói
tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất
của con người, nhằm hoàn thiện con người, hồn thiện xã hội .Do đó, khái niệm
văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của hoạt động văn hóa là
khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Có thể coi đó là ba trụ cột vĩnh
hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Chừng nào cái cái chân, cái thiện, cái
mỹ bị lãng quên chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc…
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “Văn hóa” được những nhà nhân loại học phương
tây sử dụng như là một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn
minh) thế giới cơ thế giới có thể chia ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao
nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa
hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo là đại
diện của họ. Theo ơng, văn hóa là tồn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà
con người có được, với tư cách là một thành viên của xã hội.
Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo (F.Boas) ý nghĩa văn hóa
được qui định do khung giải thích riêng chứ khơng phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng khơng
phải theo tiêu chuẩn trí, lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa. Văn hóa
khơng xét ở góc độ cao thấp mà xét ở góc độ khác biệt.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thì văn hóa chỉ gắn liền với con
người và xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại phát triển văn hóa là ở hoạt
7
động sáng tạo của con người. V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph.
Ăngghen từ quan điểm xem xét văn hóa với tư cách là sự phát triển bản chất của
con người đã nhấn mạnh, phân tích sâu thêm mặt xã hội của văn hóa với cách
tiếp cận từ hình thái kinh tế. Người nhấn mạnh tính nhân loại, tính giai cấp, tính
kế thừa của văn hóa. Đặc biệt xem cách mạng văn hóa như một bộ phận hữu cơ
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi tiếp nhận tư tưởng cách mạng của Mác-Ph.Ăngghen và V.I.Lênin,
tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, từ năm 1943 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát ý nghĩa của văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người đã sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương pháp
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” . Cựu thủ tướng
Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vơ cùng phong phú
và rộng lớn, bao gồm những gì khơng phải là của thiên nhiên mà liên quan tới con
người trong quá trình tồn tại, phát triển quá trình con người làm nên lịch sử…”.
Hoặc theo định nghĩa của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, Văn hóa hơm
nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm
xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của mộtnhóm người trong xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng:
Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xétvề bản thân. Chính văn hóa làm
cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự
ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để
xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt mỏi những ý
nghĩa mới mẻ và sáng tạo những cơng trình vượt trội lên bản thân.
Như vậy, văn hóa khơng phải là một lĩnh vực riêng biệt, Văn hóa là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là
chìa khóa của sự phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
8
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Chăm lo văn hóa là
chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội…”.
Cho đến nay, mọi người chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về
định nghĩa văn hóa. Từ năm 1952, một số nhà dân tộc học người Mỹ đã trích lục
được trên dưới ba trăm định nghĩa về văn hóa của các tác giả khác nhau trên thế
giới phát ra từ trước đó cho đến lúc bấy giờ. Từ đó đến nay chắc chắn số định
nghĩa đã tăng lên rất nhiều tuy nhiên không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra
cũng có thể thống nhất, hịa hợp, bổ sung cho nhau, nhưng tựu chung các định
nghĩa đều khẳng định rằng , văn hóa là một nhân tố cực kỳ quan trọng cho sự phát
triển của con người và của loài người. Thiếu nó, lồi người khơng phát triển. Và
khi đó xã hội loài người sẽ vĩnh viễn chỉ là một bầy đàn những con vật biết đứng
trên hai chân mà thơi. Như vậy, trong khi có nhiều định nghĩa, khái niệm khác
nhau về văn hóa, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà văn hóa lại cùng khẳng
định vai trị của văn hóa trong phát triển, coi văn hóa là yếu tố cơ bản, là động lực
của phát triển.
Từ “Văn hóa” trong vơ vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hóa ta có thể
qui về hai cách hiểu chính. Theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn hóa hiểu theo
nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử...văn hóa được xem là bao gồm
những gì do con người sáng tạo ra. Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn
nghệ, học vấn... Cái đặc trưng cốt lõi của văn hóa, cái làm cho văn hóa có sức
mạnh phục vụ phát triển là bản sắc riêng có của mỗi nền văn hóa, mỗi dân tộc.
Chính bản sắc riêng ấy mới tạo ra sự đa dạng, phong phú của các nền văn hóa trên
thế giới, mới kích thích nhu cầu tìm hiểu, tiếp thu, hịa nhập lẫn nhau giữa các nền
văn hóa, nhằm làm cho mình giàu có hơn, phong phú hơn. Và nhờ vậy nền văn hóa
thế giới từ đó càng đa dạng và phong phú. Quá trình này là quá trình sáng tạo –
sáng tạo ra những giá trị mới phục vụ đời sống con người. Nhờ sáng tạo mà các
nền văn hóa có sức mạnh chi phối sự phát triển, tạo ra sự phát triển. Một nền văn
hóa đồng phục sẽ giết chết sự sáng tạo, mà cũng vì thế mà giết chết sự phát triển.
Văn hóa chính là kết tinh của nhiều giá trị vật chất và tinh thần trong xã hội.
Một năm, một thập kỷ, thậm chí cả thế kỷ khơng dễ tạo nên cơ sở của một nền văn
9
hóa dân tộc. Mỗi dân tộc có thể có những sức mạnh riêng về kinh tế, quân sự, tài
nguyên, môi trường, nhưng sức mạnh về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt. Nó tác động
trực tiếp và lâu dài đến nhiều hoạt động xã hội. Theo một nhà nghiên cứu nước
ngồi, Liên hợp quốc có 193 quốc gia thì chỉ có 34 dân tộc có nền văn hóa có bản
sắc trong đó có Việt Nam. Sức mạnh của văn hóa được tổng hợp từ nhiều
nhân tố, nhiều điều kiện chính trị, xã hội nội tại khơng thể vay mượn được.
Có thể một dân tộc chịu những ảnh hưởng của một nền văn hóa, văn nghệ của một
dân tộc khác nhưng ở một mức độ nhất định, nhưng không thể áp đặt. Văn hóa qui
luật của nó là trao đổi. Khuynh hướng đóng cửa hạn chế giao lưu văn hóa là trái
qui luật. Tuy nhiên, văn hóa là yếu tố nội sinh, không thể chuyển giao như chuyển
giao công nghệ từ nước này, dân tộc này sang dân tộc khác được.
Như vậy, “Văn hóa đóng một vai trị to lớn trong sự phát triển xã hội, văn
hóa là nền tảng, là mục tiêu, là động lực và là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội”.
1.1.2. Văn hóa truyền thống
Cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước ngàn đời của dân tộc
Chúng ta đã có một nền văn hóa lâu đời, độc đáo, đa dạng, là thành quả nghìn
năm đấu tranh, lao động sáng tạo của các dân tộc Việt Nam. Khi nói tới văn hóa
truyền thống, chủ yếu chúng ta muốn nói đến thành quả văn hóa do cha ơng
chúng ta đã xây đắp và phát triển trong quá khứ và nó đã làm nên cái bản sắc, cái
độc đáo, cái đặc trưng của văn hóa dân tộc ta.
Như vậy, giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là những gì
tinh túy nhất, q báu nhất. Có thể nói bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc là
tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc
trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững
được tính thống nhất, tính nhất qn so với chính mình trong quá trình phát triển,
đặc biệt trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa. Giá trị bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc cũng chính là những nét riêng có của tinh thần, bản lĩnh,
tâm hồn, tính cách dân tộc, là tâm lý, là sức mạnh nội sinh của từng nền văn hóa
của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa truyền thống cịn là sức sống bên trong của dân
tộc, là quá trình thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo, tự điều chỉnh và
10
tự tiếp nhận, từ đó tạo cho dân tộc mình có những giá trị văn hóa riêng mà nền
văn hóa khác khơng có.Những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc đó
được hình thành trong sự chi phối của những qui luật văn hóa chung của nhân loại,
nhưng mang những nét riêng có của mỗi dân tộc, làm cho nó trở thành hấp dẫn,
độc đáo cần học hỏi, tiếp thu. Bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc thể hiện trong
truyền thống của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc hình thành và phát triển
theo những điều kiện xã hội và kinh tế, chính trị và thể chế. Nó cũng phát triển
theo q trình xâm nhập văn hóa, theo xu hướng tiến hóa chung của nhân loại chủ
yếu trên hai mặt mang tính thống nhất vừa giữ vững phát huy cái hay, cái đẹp
vừa ti ếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đúng với tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa “Phương Đơng hay phương Tây, có cái gì hay, có cái gì tốt phải
học lấy để tạo ra nền v ăn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn
hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần
túy Việt Nam”.
1.2. TÂY BẮC - MỘT VÙNG ĐẤT GIÀU GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.2.1. Tây Bắc - Vùng đất có tầm quan trọng về địa lý - Kinh tế - Chính
trị
Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh, Hịa Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai,
Điện Biên có đường biên giới giáp với các nước bạn Lào và Trung Quốc, Với gần
30 dân tộc anh em: Kinh, Thái, H’Mông, M ường, LaHa, Tày, Dao, Kháng, Sinh
Mun, Khơ mú, Lào, Hoa, … cùng sinh sống, là một vùng rộng lớn có địa chính trị,
kinh tế - văn hóa độc đáo, có vị trí chiến lược đối với sự phát triển của đất nước
cả về an ninh -quốc phòng - kinh tế, xã hội và văn hóa. Đây là cửa ngõ đường
bộ và các tỉnh biên giới cũng là án ngữ các quốc gia phương Bắc tiến xuống Đông
Nam Á. Bên cạnh sự phát triển chung của đất nước, thực hiện chủ trương của
Đảng, Nhà nước về mở cửa, giao lưu hội nhập kinh tế quốc tế, Khu vực Tây Bắc
cũng đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về đời sống văn
11
hóa trong đời sống đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Từ chủ trương và sự quan tâm
đặc biệt của Đảng, Nhà nước sự cố gắng nỗ lực của chính quyền địa
phương và nhân dân, đời sống kinh tế văn hóa, xã hội của người dân Tây Bắc đã
có nhiều khởi sắc. Nhiều thơn, bản đã có đội văn nghệ quần chúng, nhiều bản đã
trở thành bản văn hóa có sức hấp dẫn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế.
Trình độ dân trí của các đồng bào các dân tộc được nâng lên.
1.2.2. Tây Bắc vùng đất của những trang sử anh hùng
Tây Bắc, là địa bàn miền núi, nhiều dân tộc, có truyền thống văn hóa lâu
đời từ thời dựng nước và giữ nước. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, trừ một bộ
phận cư trú vùng thấp, còn phần lớn sống ở vùng núi cao, biên giới nơi khơng chỉ
có nhiều tiềm lực to lớn về kinh tế mà cịn có vị trí chính trị xung yếu, là tiền đồn
quan trọng cho bảo vệ tổ quốc. Người dân Tây Bắc với bản chất chịu thương, chịu
khó, cần cù lao động sáng tạo, yêu quê hương đất nước. Do phải thường xuyên đấu
tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt, chống kẻ thù ngoại xâm, tinh thần đoàn kết
cộng đồng đã tạo nên sức mạnh của thiết chế xã hội truyền thống.
Xưa kia ông cha ta đã dựa vào địa thế hiểm trở và tinh thần chiến đấu của
các dân tộc mà dựng cờ tụ nghĩa hay chiến đấu lâu dài chống lại các thế lực bành
trướng và xâm lược nước ngoài và trong các cuộc kháng chiến sau này miền núi
vẫn luôn là địa bàn chiến lược quan trọng trong công cuộc dành tự do và thống
nhất tổ quốc.
Thời kỳ chống Bắc thuộc, Triệu Đà thơn tính Âu Lạc, người
dân vùng Tây Bắc đã cùng nhau đoàn kết với người miền xuôi đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân
dân ta, đồng bào các dân tộc Tây Bắc ln đồn kết một lịng theo Đảng, theo Bác
chống thực dân Pháp, vùng Tây Bắc đã trở thành căn cứ cách mạng quan trọng của
Trung ương và của Chính phủ ta. Thời kỳ này phong trào Việt Minh phát triển
mạnh ở đây, thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc Tây Bắc khẩn trương chuẩn bị
đón thời cơ dành chính quyền.. Cũng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp, các dân tộc miền núi đã hết lòng ủng hộ và hy sinh quên mình cho
kháng chiến đi đến thắng lợi. Trong chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu” năm xưa đã có sự góp sức, góp của khơng nhỏ của
12
đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975), nhân dân các dân tộc Tây Bắc lại đồng lòng đứng lên, dưới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng. vượt qua mn vàn khó khăn, ra sức lao động sản xuất, góp
phần là hậu phương lớn của Miền Nam ruột thịt. Ở Tây Bắc chỉ trong bốn năm từ
năm 1965-1968 Tây Bắc đã có 159.818 thanh niên các dân tộc lên đường tòng
quân ra mặt trận, trong đó có 2% là nữ và nhiều con em các dân tộc thiểu số.
Trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, bàn chân của con em các dân
tộc thiểu số đã in khắp các chiến trường, trong số đó có rất nhiều người đã khơng
bao giờ trở về.Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, song các thế lực thù địch vẫn lợi
dụng địa bàn hiểm trở, cư dân thưa thớt, đặc biệt lợi dụng dân tộc Tây Bắc có
những mối quan hệ láng giềng và quan hệ họ hàng thân thiết với đồng bào
dân tộc ngoài biên giới hoạt động hống phá cách mạng nước ta, mục đích
nhằm vơ hiệu hóa các chủ trương, chính sáchdân tộc của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trước “Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta đã từng bước
cảm hóa mạnh mẽ và thu hút được tất cả các dân tộc thiểu số Tây Bắc đi theo con
đường đấu tranh và xây dựng để có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và
văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Với truyền thống yêu nước và lòng
tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, tiếp bước cha, anh, “Các dân
tộc, tộc người sống trên vùng Tây Bắc đã tìm thấy sức mạnh của mình, con đường
phát triển của mình trong sức mạnh và con đường phát triển chung của cả cộng
đồng các dân tộc nước ta,” ln thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước, định
canh, định cư, xóa bỏ cây thuốc phiện truyền thống, thực hiện nhận đất, nhận
rừng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, đưa các
giống mới vào gieo trồng, tích cực xóa đói, giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, mở
mang y tế, phát triển giao thơng, vận tải, phát thanh - truyền hình, thơng
tin văn hóa…Đảng bộ các dân tộc Tây Bắc đặc biệt quan tâm phát triển nền văn
hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số làm cho nó thực sự nở hoa kết trái góp phần
làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Nền văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc không chỉ tồn tại, đứng yên mà đã và
đang luôn luôn vận động phát triển trong sự giao lưu, tác động lẫn nhau. Quá trình
13
giao lưu ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ sự xích lại gần nhau, tăng thêm mối quan hệ tốt
đẹp giữa các dân tộc ở nước ta.
1.2.3. Tây Bắc vùng đất giàu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Văn hóa Tây Bắc là trầm tích lịch sử kéo dài và nối liền từ tiền - sơ sử cho
đến ngày nay. Các đặc điểm địa lý tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng đất này đã
tạo nên một vị thế và đặc điểm văn hóa riêng, có những đóng góp quan trọng
vào tiến trình văn hóa dân tộc. Nói đến Tây Bắc là nói đến một vùng văn hóa đa
dạng, phong phú, giàu hương sắc và đậm đà bản sắc dân tộc, bởi mảnh đất này là
nơi hội tụ sinh sống từ lâu đời của hàng chục dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có
một kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái riêng và hết sức quý giá. Đến Tây Bắc,
dễ dàng được chứng kiến cách sống đặc trưng của văn hóa nhà sàn, đắm mình
trong những điệu múa nón, múa chng, múa Cống Tốp, Au eo… và các làn điệu
dân ca trữ tình đằm thắm hịa quyện cùng tiếng đàn tính, đàn mơi, khèn bè, Pí
thiu, Pí ót… Đêm đêm, bên bếp lửa nhà sàn, trong hương vị rượu cần ngâyngất, sẽ
được nghe những bản trường ca, tình ca bất hủ, giàu chất sử thi và thấm đẫm tính
nhân văn về q trình tạo mường lập bản, chống giặc ngoại xâm, về tình yêu quê
hương đất nước, tình u đơi lứa và đạo lý làm người. Tây Bắc nổi tiếng với kiến
trúc nhà sàn Thái độc đáo, thơ mộng bằng chất liệu gỗ, nứa, tranh tre, mà điển
hình là “khau cút” sinh động vươn cao ở hai đầu chái nhà và các họa tiết hoa văn
hình thoi, hình trám thể hiện ở hàng lan can hay trên các khung cửa sổ, tạo nên sự
hài hòa tinh tế và phù hợp với cảnh quan thiên nhiên miền núi. Nghề thủ công
truyền thống của các dân tộc miền núi phía Bắc có từ lâu đời, điển hình là nghề
dệt thổ cẩm với các hình trang trí hoa, thú, chim rất trang nhã và sinh động; Nghề
đan lát mây tre, sản xuất gốm của đồng bào Thái, Mường, Dao, Khơ mú; Luyện
sắt làm vũ khí và các dụng cụ sản xuất của đồng bào Mông. Trong các dịp lễ tết,
ngày hội, cộng đồng các dân tộc Tây Bắc có nhiều trị chơi dân gian rất thú vị như
ném còn, kéo co, đua ngựa, bắn nỏ, chơi quay, ném Pa pao… Những phong tục tập
quán, lễ hội của cộng đồng các dân tộc Tây Bắc như : “sên bản, sên mường”, “lên
nhà mới”, “lễ hội gội đầu”, “mừng cơm mới”, “cầu mưa”…cũng rất độc đáo và
hấp dẫn. Tất cả những giá trị văn hóa truyền thống đó đã tạo nên bản sắc riêng và
14
là hành trang quý giá của các dân tộc Tây Bắc cần phải được bảo vệ gìn giữ và
phát huy, bởi văn hóa của mỗi dân tộc chính là “phần hồn” của dân tộc ấy, nó là
thứ khơng thể thay thế được, nếu để mất bản sắc văn hóa thì khơng cịn chính dân
tộc đó nữa. Ý thức rõ điều đó, nhiều năm qua Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây
Bắc đã chủ động xây dựng và thực hiện chiến lược bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, bước đầu đã thu được những kết quả khả
quan. Để đi khảo sát những kết quả đạt được trong cơng tác bảo tồn và gìn giữ
những giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của các tỉnh vùng Tây Bắc,
chúng tôi xin đi sâu vào tỉnh Sơn La, đây là một tỉnh trung tâm của miền núi Tây
Bắc. Trong những năm đổi mới, đặc biệt là từ khi thực hiện nghị quyết
Trung ương lần thứ V khóa VIII của Đảng, Sơn La đã tổ chức kiểm kê, điều
tra, khảo sát, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng các di tích lịch sử và văn hóa, đến nay đã
kiểm kê được 37 di tích lịch sử cách mạng, 36 di tích khảo cổ học, 14 di tích danh
thắng, 3 di tích kiến trúc nghệ thuật, trong số này, đến nay có 10 di tích được xếp
hạng Quốc gia, 29 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Công tác nghiên cứu khoa học,
đề xuất các phương án bảo tồn được đẩy mạnh, các đề tài nghiên cứu cấp tỉnh về
bảo tồn di sản văn hóa đã được thực hiện như: Đề tài nghiên cứu “Văn hóa thời
tiền- sơ sử Sơn La”; Đề tài “Nghiên cứu bổ sung và viết thuyết minh giới thiệu
một số di tích lịch sử văn hóa dọc Quốc lộ 6 tỉnh Sơn La”. Những kết quả nghiên
cứu này đã được áp dụng vào thực tiễn, kịp thời bảo tồn, tôn tạo các di sản văn
hóa, tiêu biểu là Khu di tích Nhà tù Sơn La, Di tích lịch sử văn hóa Quế Lâm Ngự
Chế- Đền thờ Vua Lê Thái Tơng, Di tích lịch sử Ngã ba Cị Nịi, Di tích kiến trúc
nghệ thuật Tháp Mường Và, Tháp Mường Bám, Thắng cảnh Hang Dơi Mộc Châu.
Các di tích này đang được bảo tồn và khai thác rất hiệu quả, hàng năm thu hút
được hàng nghìn lượt người tham quan, học tập
góp phần vào việc giáo dục truyền thống, ý thức phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, làm cho văn hóa thấm sâu vào
tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội của người dân Sơn La, đồng thời mở rộng
giao lưu văn hóa với các vùng miền trong cả nước.
15
Cơng tác sưu tầm, gìn giữ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng ln được
quan tâm, chú trọng. Hàng trăm di vật thời Tiền sử, sơ sử đã được tìm thấy tại
nhiều địa phương như Mường Chanh (Mai Sơn); Thơm Mịn (Thuận Châu) và một
số xã thuộc các huyện ven sông Đà như Mường La, Bắc yên, Phù Yên, Quỳnh
Nhai. Gần 2000 bản sách được ghi chép bằng chữ Thái cổ thuộc nhiều thể loại như
Sử thi, Trường ca, Truyện thơ dân gian… Nhiều hiện vật của nghề thủ công, mỹ
nghệ truyền thống đã được sưu tầm, trưng bày, khai thác. Đặc biệt, nhằm bảo vệ
các di sản vùng lòng hồ Thủy điện Sơn La, những năm qua Sơn La đã phối hợp
với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành điền dã, khảo sát thực địa phát hiện
được 27 di tích, bước đầu đã xác định được tính chất, niên đại của các di tích, di
chỉ khảo cổ, đó là: 03 di tích thời kỳ Phong kiến; 07 di chỉ khảo cổ học thời đại
kim khí; 09 di chỉ thời đại đá mới; 08 di chỉ thời đại đá cũ. Tất cả những di tích và
di chỉ này đang được khẩn trương xây dựng phương án bảo tồn và phát huy.
Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc Sơn La tưởng chừng
như đã bị thất truyền hoặc đang có nguy cơ thất truyền và biến dạng, đã
và đang được sưu tầm, phục dựng, gìn giữ và phát huy. Tuy nhiên, khơi phục các lễ
hội truyền thống nhưng phải biết lựa chọn để nâng niu, bảo tồn những giá trị tinh
thần, những nét đẹp văn hóa trong các lễ nghi, sửa đổi những yếu tố khơng cịn
phù hợp, mở rộng quy mơ các lễ hội để cho các lễ hội trở thành điểm hội tụ văn
hóa của cộng đồng. Cho đến nay, Sơn La đã có 01 lễ hội với quy mơ Khu vực, đó
là Ngày hội Vănhóa các dân tộc Tây Bắc. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, tiêu
biểu như các lễ hội: Lễ hội Hoa Ban, Lễ hội Cầu mưa của dân tộc Thái; Lễ hội
Pang A Nụn Pan của dân tộc La Ha; Lễ hội Mương A Ma của dân tộc Xinh Mun;
Lễ hội Xen Pang Ả của dân tộc Kháng… Các làng nghề truyền thống như:
Dệt Thổ cẩm Thèn Luông- Chiềng Đông- Yên Châu; Gốm Mường Chanh Mai Sơn, cũng được phục hồi và phát triển.Việc tích cực sưu tầm, bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc trong tỉnh đã
góp phần làm cho các thế hệ con em các dân tộc miền núi phía Bắc hiểu biết thêm
về truyền thống lịch sử - văn hóa của vùng đất mà cha ông đã khai phá và dựng
xây, từ đó thêm tự hào, gắn bó với quê hương.
16
Có thể nói ý thức tộc chính là đặc điểm, trình độ mức sống của mỗi dân tộc, được
kết tinh thành những giá trị văn hóa. Văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu
số vùng Tây Bắc là kết quả giao lưu của nhiều dân tộc ở nhiều vùng đất khác
nhau, ngoài những nét đặc trưng tiêu biểu và tiếp thu tinh hoa văn hóa, các dân tộc
Tây Bắc vẫn giữ được bản sắc của vùng núi Tây Bắc nơi tuyến đầu tổ quốc, góp
phần giữ gìn giá trị văn hóatruyền thống các dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa
đó trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
1.4. VAI TRỊ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC TUN TRUYỀN
NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC
1.4.1. Đặc điểm cơng chúng báo chí Tây Bắc
* Đặc điểm dân cư, dân số và quan hệ tộc người
Các dân tộc - tộc người ở Tây Bắc cư trú xen kẽ nhau và phân tán ở nhiều
vùng trong mỗi tỉnh. Tình trạng cư trú xen kẽ này tạo điều kiện để các dân tộc tộc người xích lại gần nhau, đẩy mạng giao lưu, giao tiếp trên các lĩnh vực, mặt
khác cũng gây những khó khăn trong quản lý xã hội - tộc người bởi sự khác nhau
về phong tục, tập quán, lối sống ...
Tình trạng cư trú xen kẽ và phân tán không đồng đều nhau trên từng địa bàn
cụ thể tạo nên sự đa dạng trong bức tranh phân bố tộc người và cũng tạo nên
những khó khăn phức tạp cần giải quyết trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính
trị, v ăn hóa, xã h ội ... nhất là trong quản lý kinh tế, văn hóa và quản lý
xã hội tộc người. Có thể thấy được số các dân tộc thiểu số c ư trú trên những
địa bàn chiếm trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phịng, an ninh, mơi
trường sinh thái.
Đặc điểm trong quan hệ dân tộc - tộc người ở Tây Bắc là có truyền thống đồn kết
gắn bó từ lâu đời. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc
ở Tây Bắc đã được phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh nhằm giải phóng
dân tộc thống nhất tổ quốc và đang được phát huy trong công cuộc xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
17
Tuy nhiên, hiện nay giữa các dân tộc cịn có sự chênh lệch lớn trên nhiều
phương diện. Về văn hóa: trình độ văn hóa, trình độ dân trí nói chung cịn thấp, có
sự chênh lệch lớn giữa các vùng trong một tỉnh, nhất là đồng bào vùng cao, vùng
sâu, xa còn hạn chế nhiều. Phong tục tập quán, luật tục, tâm lý, lối sống của các tộc
người ... bên cạnh những yếu tố tích cực, cịn chiếm giữ nhiều yếu tố tiêu cực, lạc
hậu ở các mức độ khác nhau.
Những đặc điểm trên đây về dân số, dân cư và mối quan hệ dân tộc chưa
phải là tất cả, song đó là những đặc điểm nổi bật cần được xem xét, tính đến trong
giải quyết các vấn đề dân tộc, và quan hệ dân tộc, hoạch định và thực hiện tốt
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên con đường đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng là những vấn đề địi hỏi các cơ quan thông
tin đại chúng cần phải nắm vững và hiểu sâu sắc, để có được cách thức, phương
pháp, chiến lược tuyên truyền “trúng” “đúng” theo định hướng của Đảng trong thời
kỳ mới.
1.4.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu tiếp nhận thơng tin báo chí
Cũng như miền núi phía Bắc, người dân miền núi Tây Bắc ngồi những đặc
điểm chung có những đặc điểm riêng. Về tính cách, lối sống, cư dân ở Tây Bắc là
những người thật thà, chất phác có lịng u q hương đất nước nồng nàn,
có tinh thần đồn kết tương thân, tương ái, sống cởi mở, thẳng thắn, chân thành,
giản dị. Người dân Tây Bắc cũng có tâm lý sùng bái các nhân vật thần thánh,
những người có cơng với cộng đồng, có tập tục thờ cúng gia tiên, có tư tưởng
phong phú dệt lên những truyền thuyết đầy màu sắc huyền thoại và sinh động.
Nói như vậy, song đồng bào các dân tộc Tây Bắc cũng có nhiều hạn chế do việc
sử dụng ngôn ngữ riêng ở các tộc người khác nhau, nên việc giao lưu học hỏi khó
khăn, nhất là các dân tộc lạc hậu ở vùng sâu xa như H’Mông.
Một đặc điểm nữa là người dân thích hoạt động thực tiễn hơn tư duy và
nhận thức, khả năng tiếp nhận thông tin khoa học kỹ thuật, tiếp nhận thông tin báo
chí cịn nhiều khó khăn. Bản tính bảo thủ, cố hữu, cục bộ dân tộc địa phương, tự
do, lòng tự tôn dân tộc thái quá đã khiến cho việc tiếp thu cái mới, tiến bộ
18
diễn ra rất chậm, nhiều thủ tục, nhiều thói quen lạc hậu không dễ dàng thay
đổi. Tâm lý học hành khơng có chủ định vẫn tồn tại khơng ít trong dân cư.
Nhằm nâng cao nhận thức, khả năng tư duy của người dân vùng núi Tây
Bắc, nhất là vùng sâu vùng xa, Đảng ta đã có nhiều chính sách ưu đãi, đẩy mạnh
các hoạt động đưa văn hóa về cơ sở, phát triển hoạt động báo chí, phát thanh
truyền hình. Hiện nay miền núi Tây Bắc cũng đang thực hiện có hiệu quả chương
trình phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ, chống tái mù chữ, đây cũng là
những yếu tố thúc đẩy việc tiếp nhận thông tin báo chí của đơng đảo các dân tộc,
kể cả vùng sâu vùng xa. Phải khẳng định rằng từ những năm 90 trở lại đây đời
sống tinh thần của đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã được nâng lên rõ rệt, ngồi
việc được tiếp nhận món ăn tinh thần mới hấp dẫn là truyền hình, báo in ... đã
được chuyển đến vùng sâu xa một cách nhanh nhất....
Từ những việc làm cụ thể đẩy mạnh thông tin về cơ sở, đồng bào các dân
tộc Tây Bắc hiện nay đã được đón nhận món ăn tinh thần phong phú đa dạng
hơn. Song thực tế khách quan, trình độ nhận thức, tâm lý vẫn là những hạn chế
trong tiếp nhận thơng tin. Vì vậy, nhu cầu của đồng bào hiện nay đòi hỏi nhiều và
sâu về thơng tin, cũng là địi hỏi về phương pháp chiến lược tuyên truyền đối với
cơ quan báo chí như chủ trương quan điểm của Đảng ta đã chỉ rõ: Các dân tộc
“Cùng phát triển” bên nguyên tắc: “Bình đẳng, đồn kết, tương trợ”.
Có thể nói báo chí là một phần không thể thiếu của xã hội, bản thân nó có
vai trị quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa xã hội. Với chức
năng tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, báo chí giúp nâng cao nhận thức
văn hóa cho người dân, khẳng định và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp,
hình thành và khơng ngừng hồn thiện lối sống tích cực trong xã hội. Báo chí
chính là một trường học xã hội rộng rãi cung cấp kiến thức mọi mặt cho đời sống
con người dưới dạng vừa bao quát, vừa cụ thể lại dễ dàng tiếp nhận. Xã hội ngày
càng phát triển không ngừng và tất nhiên đời sống văn hóa xã hội cũng khơng
ngừng vận động địi hỏi con người phải bổ sung và hoàn thiện vốn hiểu biết của
mình. Hơn thế nữa, tuyên truyền phổ biến về văn hóa cũng là mục đích và nhiệm
vụ của báo chí.Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa
19
VIII đã đánh giá “Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và qui mô, về
nội dung và hình thức, về in, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trị
quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội”.Đối với công tác tuyên
truyền về bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, nhất là bảo tồn văn
hóa các dân tộc thiểu số, báo chí Tây Bắc nói riêng, báo chí Việt Nam nói chung
giữ vai trị như là một chiếc cầu nối giữa nét đẹp của dân tộc này với dân tộc khác,
xóa bỏ đi khoảng cách, làm cho văn hóa các dân tộc ngày càng có điều kiện giao
lưu với nhau. Từ việc giao lưu đó, mỗi dân tộc ý thức về bản sắc văn hóa dân tộc
mình và tiếp thu được những nét đẹp, thuần phong mỹ tục, những nhân tố tích
cực và phê phán loại bỏ những gì đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân
tộc.Báo chí khơng chỉ phản ánh được những ngun nhân cũng như thực trạng của
văn hóa, mà cịn giới thiệu được những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu với
bạn bè quốc tế, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam, thơng qua đó báo chí cũng
đã giới thiệu được đến độc giả của mình hiểu và nắm bắt được những nét tinh túy
của văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên hiện nay xuất hiện xu hướng đồng hóa tự nhiên về văn hóa làm
mai một văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc từ
nghi thức, ăn, mặc, ở, tập quán...tiếng nói đã bị pha trộn, âm nhạc dân tộc bị xem
thường, những bộ trang phục khơng cịn hấp dẫn với thế hệ trẻ.
Để giữ vững và phát huy vai trị của báo chí trong cơng tác tun truyền giữ
gìn và bảo tồn văn hóa các dân tộc, tự thân mỗi cơ quan báo chí, mỗi cán bộ
phóng viên cần nâng cao chất l ượng báo chí, nâng cao sự am hiểu về văn hóa dân
tộc, ln đổi mới hình thức cũng như nội dung tuyên truyền phù hợp với thời
cuộc, để giá trị văn hóa các dân tộc Tây Bắc mãi trường tồn với thời gian.
Có thể nói, từ những đặc điểm kinh tế, xã hội, điều kiện địa lý tự nhiên,
đặc điểm truyền thống văn hóa, tâm lý nhu cầu, đặc điểm cơng chúng Tây Bắc,
thời gian qua báo chí trung ương và địa phương đã phát triển bề rộng, ngày càng
nâng cao hiệu quả tuyên truyền - đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng
cao của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nói chung và Tây Bắc nói riêng
20
Tài liệu tham khảo
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (1999), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều
kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb
Lý luận - chính trị, Hà Nội.
2. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (2002), Trang phục các tộc
người thiểu số nhóm ngơn ngữ Việt - Mường và Tày - Thái, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
3. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (2003), Trang phục các tộc người
thiểu số nhóm ngơn ngữ Việt - Mường và Tày - Thái.
4. Báo Khoa học và Đời sống (2008), Báo cáo thực hiện nội dung công tác
xuất bản
chuyên đề Nông thôn - Dân tộc thiểu số và miền núi.
5. Báo Lao động và Xã hội (2008), Báo cáo số 49/BC-LĐXH về kết
quả thực hiện Quyết định 975/TTg.
6. Báo Nông nghiệp Việt Nam (2008), Báo cáo số 253/NNVN-BC về kết
quả thực hiện Chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi theo Quyết định 975/TTg
năm 2008.
7. Báo Nông thôn ngày nay (2008), Báo cáo số 91/BC-NTNN về Đánh giá
kết quả thực hiện Quyết định 975/TTg.
8. Báo Sức khoẻ và Đời sống (2008), Báo cáo số 63/BC-SKĐS về tình hình
hoạt động của chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi.
9. GS.TS, Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc
thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ Giáo dục – Đào tạo (2005), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Thông tin và Truyền thông (2007), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành
luật báo chí; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí.
12. Bộ Văn hóa - Thơng tin (2002), Tăng cường và đổi mới công tác thông
tin phục vụđồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Công ty in và văn hóa
phẩm, Hà Nội.
21
13. Bộ Văn hóa - Thơng tin (2003), Văn bản của Đảng và Nhà nước về
cơng tác văn hóa - thông tin vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Cơng ty in
và văn hóa phẩm, Hà Nội.
14. Bộ Văn hóa - Thơng tin (2004), Tiếp tục đẩy mạnh cơng tác văn hóa thơng tin ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Kỷ yếu Hội nghị sơ kết 5
năm thực hiện Chỉ thị 39/1998/CT - TTg của Thủ tướng Chính phủ.
15. Bộ Văn hố Thơng tin (2004), Kỷ yếu báo Đảng địa phương, góp phần
tuyên truyền và tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khóa
VIII về "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc”.
16. Bộ Văn hóa - Thơng tin (2007), Báo cáo đánh giá về sự chỉ đạo, quản lý
của các cơ quan chủ quản báo chí.
17. Nơng Quốc Chấn, Hồng Tuấn Cư, Vi Hồng Nhân (1996), Giữ gìn và bảo
vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
18. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Phan Đăng Nhật, Lâm Tiến, Dương Thuấn
(1997),
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
19. Bùi Chỉ (2000), Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hịa Bình, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
20. Phan Hữu Dật (2004), Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. PGS.TS Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng bộ tỉnh Sơn La (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Sơn La lần
thứ XII, Sơn La.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp
hành Trung ương khóa X.
22
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền (2001), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
26. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Văn hóa xã hội chủ
nghĩa (2005), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
27. Vũ Đình Hịe (chủ biên) (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác
lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Hồng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người, văn hóa Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
29. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thơng tin,
Hà Nội.
30. Nhiều tác giả (2001), Giữ gìn phát huy di sản văn hóa các dân tộc Tây
Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
31. Nhiều tác giả (2005), Người Mông ở Việt Nam, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
32. Nhiều tác giả (2007), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở
Việt Nam, Nxb Viện Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
33. Nguyễn Tri Niên (chủ biên) (2003), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đồng Nai.
34. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí năm 1999.
35. PTS. Thào Xuân Sùng (2008), Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây Bắc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23