Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Những giải pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên chuyên ngành giáo dục chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.8 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Nhân cách con người khơng phải từ khi sinh ra đã có sẵn mà nó được

hình thành do nhiều yếu tố. Nhân cách được hình thành và phát triển trong
quá trình sống – hoạt động, giao tiếp của mỗi cá nhân con người
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới công tác giáo
dục. Cùng với việc nhấn mạnh vấn đề học tập của các thế hệ thanh thiếu
niên, Bác đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục đạo đức, nhân cách. Trong
một bài thơ Người đã từng nói “Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều
do giáo dục mà nên”1.
Hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đủ cả đức và tài cho đất
nước đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Trong
đó sinh viên là đối tượng được đặt sự quan tâm lên hàng đầu. Giáo dục
nhân cách cho sinh viên trở thành một yêu cầu cấp bách. Thiết nghĩ giáo
dục nhân cách cho sinh viên là vấn đề quan trọng và phải có giải pháp
riêng bắt nguồn từ sự giáo dục trong mỗi chuyên ngành, để sinh viên ý
thức được trách nhiệm nghề nghiệp từ đó hình thành nên nhân cách
cho cá nhân mỗi người.
Là một sinh viên chuyên ngành GDCT, em nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với mỗi sinh viên chuyên ngành của
mình. Vì vậy em xin được mạnh dạn lựa chọn đề tài “Những giải pháp
giáo dục nhân cách cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị”.
2.
a.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu


Làm rõ cơ sở lý luận của tâm lý học về quá trình hình thành nhân
cách sinh viên. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm giáo dục nhân
cách cho sinh viên chuyên ngành GDCT.
1 Hồ Chí Minh, Nhật kí trong tù, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1996.

1


b.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, tổng hợp những tài liệu có liên quan đến q trình hình

thành nhân cách.
Phân tích đặc trưng của sinh viên chuyên ngành GDCT và chỉ ra đặc
điểm của quá trình hình thành nhân cách sinh viên GDCT.
Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao quá trình giáo dục
nhân cách cho sinh viên chuyên ngành GDCT.
3.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giải pháp để giáo dục nhân

cách cho sinh viên chuyên ngành GDCT.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử,

chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Phương pháp chung: phân tích tổng hợp, logic-lịch sử, diễn dịch-qui
nạp.
Phương pháp cụ thể: lược thuật tài liệu, trao đổi thảo luận nhóm.
5.

Kết cấu
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, đề tài gồm hai chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục nhân cách

cho sinh viên chuyên ngành GDCT

2


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.
1.1.1.

Khái quát chung về nhân cách
Một số quan điểm về nhân cách
Có nhiều quan điểm khác nhau về nhân cách, ngay từ năm 1949, G.

Allport đã dẫn ra trên 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về
nhân cách. Hiện nay có rất nhiều lý thuyết khác nhau về nhân cách.
Quan điểm sinh vật hóa nhân cách coi bản chất nhân cách nằm trong
các đặc điểm hình thể (Krestchmev), ở góc mặt (C. Lombrozo), ở thể trạng
(Sheldon)…
Quan điểm xã hội hóa nhân cách lấy các quan hệ xã hội (gia đình, họ

hàng, làng xóm…) để thay thế một cách máy móc các thuộc tính tâm lý của
cá nhân đó.
Các nhà tâm lý khoa học lại cho rằng nhân cách là một phạm trù xã
hội, có bản chất xã hội - lịch sử. A.G.Goovaliôv quan niệm “ Nhân cách là
một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực
hiện một vai trò xã hội nhất định”. “Nhân cách con người với tư cách là kẻ
mang tồn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí, qui định của hình thức hoạt
động và hành vi có ý nghĩa xã hội”, E.V. Sơrơkhơva định nghĩa.
Theo triết học Mác – Lênin, nhân cách là "những cá nhân con người
với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể của lao động,
của sự giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của đời sống xã hội". Theo đó, nhân cách trước hết là đặc trưng xã
hội của con người, là "phẩm chất xã hội" của con người. Khi nghiên cứu về
nhân cách, một trong những vấn đề đầu tiên và cũng là then chốt, là vấn đề
sự hình thành nhân cách. Giải quyết vấn đề này theo những cách khác nhau
sẽ dẫn tới quan niệm khác nhau về bản chất của nhân cách.

3


1.1.2.

Khái niệm nhân cách
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách. Trước hết

phải hiểu được định nghĩa về con người, cá thể và cá tính.
Nhân cách là một khái niệm dùng để chỉ con người. Con người là
một tồn tại sinh vật ở bậc thang cao nhất của sự tiến hóa vật chất. Tất cả
những đặc điểm cơ thể của nó là tiền đề vật chất quan tọng nhất của sự phát
triển các chức năng tâm lý. Đồng thời con người cũng là một tồn tại xã hội.
Có một định nghĩa về con người được thừa nhận khá rộng rãi là: Con người

là một thực thể sinh vật – xã hội và căn hóa.
Cá nhân là một con người cụ thể, một thành viên của một cộng đồng
xã hội nhất định. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật – xã hội, văn hóa,
nhưng được xem xét một cách cụ thể riêng từng người, với các đặc điểm về
sinh lý, tâm lý và xã hội để phân biệt nó với các cá nhân khác, với cộng
đồng.
Khái niệm “cá tính” dùng để chỉ cái đơn nhất, có một khơng hai,
khơng lặp lại trong tâm lí (hoặc sinh lí) của cá thể động vật hoặc cá thể (cá
nhân).
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, nói lên bộ mặt tâm lý – xã hội, bản sắc cá nhân, qui định giá trị xã
hội và hành vi xã hội của họ.
1.1.3.

Quan điểm về cấu trúc nhân cách
Theo Bác, giáo dục nhân cách phải chú trọng cả “đức” và “tài”.

Người đặt chữ “đức” lên trước, coi đó là cái gốc của con người, của cách
mạng, của công việc. Chữ “đức” gắn liền với chữ “tài”. Người dạy: “Có tài
phải có đức. Có tài mà khơng có đức, tham ơ, hủ hóa, có hại cho nước nhà.
Có đức khơng có tài như ơng bụt ngồi trong chùa, khơng giúp ích gì được
ai”. “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài làm
việc gì cũng khó”.

4


Quan niệm của Bác về nhân cách cũng chính là quan niệm của người
phương Đông về cấu trúc nhân cách. Theo đó, nhân cách gồm mặt đức và
tài (phẩm chất và năng lực). Phẩm chất bao gồm phẩm chất xã hội (thế giới

quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị…), phẩm chất cá
nhân (đạo đức tư cách), phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích…) và
cung cách ứng xử. Năng lực bao gồm năng lực xã hội hóa (khả năng thích
ứng, năng lực sáng tạo, cơ động, mềm dẻo, linh hoạt…), năng lực chủ thể
hóa (khả năng biểu hiện tính độc đáo, cái riêng…), năng lực hành động và
năng lực giao tiếp.
Tóm lại, cấu trúc của nhân cách khá phức tạp, bao gồm nhiều thành
tố có mối quan hệ qua lại với nhau tạo nên một bộ mặt tương đối ổn định,
nhưng cũng rất cơ động. Nhờ có cấu trúc nhân cách như vậy mà cá nhân có
thể làm chủ được bản thân, thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt với tư cách là
chủ thể đầy sáng tạo.
Nhân cách có 4 nhóm thuộc tính điển hình là: xu hướng, năng lực,
tính cách, khí chất.
Xu hướng là thuộc tính tâm lý điển hình của mỗi cá nhân, nó được
biểu hiện ở một số mặt chủ yếu: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng thế giới quan,
niềm tin…Xu hướng quyết định tính tích cực hoạt động của cá nhân và sự
lựa chọn các thái độ hành động.
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm
một hệ thống thái độ của nó đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành
vi cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Tính cách rất ổn định và bền vững,
đồng thời cũng thể hiện tính độc đáo riêng biệt của mỗi người.
Khí chất là thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường
độ, tốc độ, nhịp độ của các hoạt động tậm lí, thể hiện sắc thái hành vi, cử
chỉ, cách nói năng của cá nhân.
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với
những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có
5


kết quả, năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu

là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của
con người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Việc hình
thành phát triển các phẩm chất nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất
để phát triển năng lực
1.2.

Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách cho sinh

1.2.1.

viên chuyên ngành GDCT
Sinh viên và đặc điểm của sinh viên chuyên ngành GDCT
Sinh viên là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông, đang

theo học tại các trường đại học, cao đẳng, độ tuổi khoảng 19-25, họ là
những người đang ở lứa tuổi thanh niên - giai đoạn bước vào tuổi trưởng
thành. Ở giai đoạn này, hoạt động học tập có định hướng nghề nghiệp
chuẩn bị bước vào đời là hoạt động chủ đạo.
Theo các nhà khoa học, sinh viên có thể tích lũy được 2/3 lượng kiến
thức của cuộc đời trong khoảng 6-7 năm ở trường đại học. Đây là giai đoạn
phát triển ổn định về hệ thần kinh, hệ xương, cơ tạo ra nét đẹp hoàn mĩ ở
người thanh niên. Các tố chất khác như thể lực, thể chất cũng phát triển
mạnh nhờ sự phát triển ổn định của tuyến nội tiết cũng như sự tăng trưởng
của hooc môn nam và nữ. Sự hoàn thiện này đã tạo điều kiện cho sự thành
công rực rỡ của thể thao, nghệ thuật ở lứa tuổi thanh niên sinh viên.
Xét về mặt xã hội, sinh viên là một tầng lớp, một tổ chức xã hội quan
trọng đối với mọi thể chế chính trị. Thanh niên là nhóm người có vị trí
chuyển tiếp giữa đội ngũ trí thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao
trong xã hội. Sinh viên là công dân của đất nước với mọi quyêng hạn và
nghĩa vụ trước pháp luật. Các tổ chức chính trị xã hội, gia đình, dịng họ

đều có nhiều kỳ vọng ở sinh viên, chính vì vậy sinh viên có một vai trị, vị
trí rõ rệt trong xã hội.

6


Về cơ bản sinh viên có những hoạt động sau: hoạt động học tập, hoạt
động chính trị-xã hội, hoạt động giao tiếp. Trong đó hoạt động học tập giữ
vai trị chủ đạo. Hoạt động chính trị-xã hội là nhu cầu, nguyện vọng của
sinh viên. Hiện nay, sinh viên tham gia vào các đoàn thể xã hội như Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên…vừa có ý nghĩa phát triển nhân cách của họ vừa
góp phần vào sự thành cơng của các thể chế xã hội. Hoạt động giao tiếp
bao trùm lên mọi hoạt động, nó đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
đời sống tâm lý sinh viên, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tâm lý
sinh viên.
Sinh viên chuyên ngành GDCT cũng mang nhiều đặc điểm tương
đồng với những đặc điểm của sinh viên nói chung. Nhưng do yêu cầu của
chuyên ngành đào tạo mà sinh viên GDCT mang những đặc trưng riêng.
Do hoạt động học tập ở sinh viên khác về chất so với các lứa tuổi trước và
khác về lượng tri thức chuyên ngành nên đòi hỏi sinh viên GDCT phải có
những thích nghi để đạt kết quả trong học tập. Ngồi sự thích nghi với mơi
trường cuộc sống mới, thầy cô và bạn bè mới.. là sự thích nghi với nội
dung học tập chuyên ngành GDCT, phương pháp học tâm riêng của khoa
Tâm lý giáo dục.
Sinh viên GDCT là những người trẻ tuổi (tuổi từ 19 – 26), năng
động, giàu nhiệt huyết, nhiệt tình của tuổi trẻ, hăng say cống hiến cho xã
hội và tích cực học tập để làm giàu vốn kiến thức cho bản thân. Thời gian
đầu, khi cịn bỡ ngỡ với mơi trường học tập mới, bạn bè, thầy cô mới các
sinh viên cịn chưa phát huy hết khả năng của chính mình. Sau một thời
gian học tập ở trường đại học, đa số sinh viên thích ứng khá nhanh và chủ

động hịa nhập với môi trường sống, môi trường học tập mới.
Sinh viên chuyên ngành GDCT bên cạnh việc tiếp thu các kiến thức
chuyên ngành thì cũng phải tiếp thu kiến thức của các môn đại cương như
Tâm lý học, Giáo dục học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Triết học…Như vậy, yêu cầu về nhận thức đối với mỗi sinh viên chuyên
7


ngành GDCT là rất tồn diện, địi hỏi phải kết hợp chặt chẽ học tập với
nghiên cứu và không tách rời hoạt động nghề nghiệp. Để có sự phát triển
về nhận thức và trí tuệ, sinh viên chuyên ngành GDCT cần phải nhận thức
được mục đích đào tạo của khoa, của ngành học đó là đào tạo những cán
bộ giảng dạy lý luận chính trị Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng.
1.2.2.

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách sinh viên
GDCT
Nhân cách khơng có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên

thủy, mà nhân cách là các cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát triển
trong quá trình sống, giao tiếp, lao động, học tập của con người. Trong quá
trình hình thành nhân cách của sinh viên chuyên ngành GDCT thì giáo dục,
hoạt động, giao tiếp, tập thể là những nhân tố giữ vai trò quyết định và
nhân tố bẩm sinh của mỗi sinh viên trở thành vai trò chủ đạo.
Giáo dục giữ vai trị quan trọng trong sự hình thành nhân cách cho
sinh viên. Theo nghĩa rộng, giáo dục là tồn bộ tác động của gia đình, nhà
trường (cụ thể là Học viện Báo chí và Tuyên truyền), xã hội, bao gồm cả
dạy học và các tác động giáo dục khác đến sinh viên. Theo nghĩa hẹp thì
giáo dục là quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi của sinh
viên. Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân

cách, vì nó là q trình tác động có mục tiêu, xậy dựng một mơ hình nhân
cách, đáp ứng những u cầu của xã hội. Giáo dục có thể phát huy tối đa
các mặt mạnh của sinh viên như các yếu tố thế chất (bẩm sinh di truyền),
yếu tố hoàn cảnh sống, yếu tố xã hội, đồng thời bù đắp cho nhưng thiếu,
hụt hạn chế do các yếu tố trên sinh ra (người khuyết tật, người có hồn
cảnh khó khăn). Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch về một mặt nào đó
của sinh viên và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của xã hội.
Hoạt động cũng là một yếu tố góp phần hình thành nên nhân cách
của mỗi sinh viên GDCT. Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi
người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo của mỗi người ở mỗi thời kì nhất
8


định. Đối với sinh viên GDCT hoạt động càng trở nên quan trọng hơn và
hoạt động học tập, nghiên cứu trở thành hoạt động chủ đạo. Hoạt động học
tập của sinh viên chuyên ngành GDCT không tách rời việc thực hành kĩ
năng, kĩ xảo của nghiệp vụ sư phạm. Việc đánh giá hoạt động học tập của
giảng viên trong đối với mỗi sinh viên là vơ cùng quan trọng, nó sẽ chuyển
dần thành tự đánh giá giúp sinh viên nhận thức được chuẩn mực,và biến nó
thành mục đích học tập cho mình.
Bên cạnh hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng là một yếu tố cần
thiết đối với mỗi sinh viên chuyên ngành GDCT. Ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường Học viện Báo chí và tuyên truyền nhiều sinh viên chuyên
ngành GDCT đã tích cực tham gia vào cac hoạt động văn nghệ, thể thao,
tình nguyện và nhiều hoạt động xã hội khác. Đoàn học viện và Hội sinh
viên đã trở thành những tổ chức góp phần nâng cao tính tích cực hoạt động
ở mỗi xinh viên.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của mỗi cá nhân và xã hội loài người.
Đối với sinh viên chuyên ngành GDCT, nhờ giao tiếp mà họ gia nhập vào
các quan hệ xã hội, các đồn thể và qua đó có thể nhận thức người khác,

nhận thức các quan hệ xã hội, và nhận thức chính bản thân mình. Hay nói
khác đi, giao tiếp giúp sinh viên GDCT hình thành năng lực tự ý thức.
Tập thể có vai trị to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách
của sinh viên. Ở tập thể kho Tâm lý giáo dục nói chung và từng lớp chuyên
ngành GDCT nói riêng, diễn ra nhiều hình thức đa đạng phong phú như học
tập, vui chơi, văn nghệ, thể thao, lao động, hoạt động xã hội, tình nguyện...
Tập thể tác động đến từng người và ngược lại mỗi sinh viên cũng tác động
lại tập thể.
Trong tất cả những nhân tố trên thì việc hình thành nhân cách cho
sinh viên GDCT đặc biệt nhấn mạnh yếu tố bẩm sinh. Đó là q trình tự
đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục của mỗi sinh viên trong chuyên ngành. Tự
đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng của sinh viên chuyên
9


ngành GDCT. Vì nó giúp cho mỗi sinh viên định hướng hành vi, điều chỉnh
hoạt động nhằm đạt được mục đích một cách tự giác.
Tự đánh giá ở sinh viên GDCT khơng chỉ là sự đánh giá hình ảnh
bản thân mình mà cịn đi sâu vào phẩm chất, các giá trị của nhân cách.
Những sinh viên có kết quả học tập cao trong khoa thường chủ động, tích
cực trong việc tự nhìn nhận, đánh giá bản thân, đánh giá mục tiêu học tập
cụ thể nhằm đạt được kết quả ngày càng cao.
Cá nhân mỗi sinh viên hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ
xã hội, dưới tác động chủ đạo của giáo dục sẽ đưa tới hình thành một cấu
trúc nhân cách tương đối ổn định và đạt một trình độ phát triển nhất định.
Trong cuộc sống, sinh viên phải tiếp tục biến đổi nhân cách và hoàn thiện
dần thông qua việc tự ý thức, tự rèn luyện, tự gióa dục. Sinh viên có thể có
những chệch hướng trong sự biến đổi nhân cách so với chuẩn mực chung,
sang giá trị chung của xã hội, có thể đưa đến sự suy thối nhân cách. Vì vậy
địi hỏi cá nhân phải tự điều khiển, điều chỉnh, tự rèn luyện theo những

chuẩn mực chân chính phù hợp với quy luật khách quan của xã hội để tự
hoàn thiện nhân cách của mình.
Chương 2. Những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục nhân cách cho sinh
viên chuyên ngành GDCT
2.1. Hình thành mơi trường xã hội tích cực trong việc giáo dục nhân
cách cho sinh viên GDCT
2.1.1. Gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội. Mỗi gia đình đều no ấm, hạnh phúc thì
xã hội sẽ giàu mạnh, văn minh. Với xã hội phương Đơng truyền thống thì
gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng. Truyền thống gia đình, dịng tộc là
niềm tự hào mà các thế hệ con cháu gắng cơng gìn giữ, vun đắp từ đời này
sang đời khác.

10


Trong mỗi gia đình thì cha mẹ phải ln là những người định hướng
cho quá trình hình thành nhân cách của con cái. Không chỉ đối với sinh
viên chuyên ngành GDCT mà đối với mỗi con người đều không thể thiếu
vai trò giáo dục, định hướng của bậc phụ huynh. Bởi giáo dục là chức năng
cơ bản của gia đình và xã hội càng phát triển thì càng làm tăng tầm quan
trọng của cha mẹ đối với sự hình thành nhân cách con cái.
Giáo dục trong gia đình có đặc trưng riêng, xuất phát từ tình cảm và
thơng qua tình cảm, thái độ, việc làm, hành vi ứng xử của cha mẹ mà con
cái học tập cách sống, cách nghĩ. Giáo dục gia đình có phương pháp đặc
biệt là thuyết phục, giảng giải, cùng trao đổi thân tình và làm gương trên cơ
sở tình thương yêu của những người ruột thịt. Cha mẹ phải là những tấm
gương về đạo đức, phẩm chất cho con cái. Cha mẹ có những việc làm tốt,
cách nghĩ tốt, lối sống văn hóa thì sẽ là tấm gương cho con noi theo.
Giáo dục trong gia đình sẽ giúp cho sinh viên nhận thức được những

giá trị đích thực, những chuẩn mực và khn mẫu xã hội, những bổn phận,
nghĩa vụ và quyền lợi, cũng như những trật tự trong gia đình và ngồi xã
hội. Giáo dục trong gia đình Việt Nam khơng chỉ tác động mạnh mẽ ở giai
đoạn ấu thơ của cuộc đời mỗi con người, vì con người Việt Nam gắn bó vơ
cùng chặt chẽ với đời sống gia đình nên có thể ảnh hưởng của giáo dục gia
đình là hết sức to lớn, lâu dài suốt cả cuộc đời. Nó đặt cơ sở quyết định cho
sự hình thành nền tảng nhân cách ở tuổi niên thiếu, thúc đẩy sự phát triển,
hoàn thiện nhân cách ở tuổi thanh niên, củng cố, giữ gìn nhân cách ở tuổi
trưởng thành và khi về già. Vì thế, giáo dục gia đình phải mang tính thường
xun, lâu dài và có hệ thống chặt chẽ.
Ngày nay, cùng với nhịp sống hối hả, các bậc cha mẹ luôn phải bận
rộn với cơng cuộc mưu sinh, có lẽ chính vì thế mà thời gian dành cho con
cái rất hạn hẹp. Do đó, để góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho
con cái thì cha mẹ phải ln quan tâm tới việc giáo dục từ trong gia đình.
Mỗi sinh viên GDCT đều xuất phát từ các gia đình ở mỗi miền quê khác
11


nhau. Nhưng nhìn chung, đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi
sinh viên, gia đình đều đóng vai trị quan trọng như nhau. Gia đình khơng
chỉ là chỗ dựa tinh thần vững chắc mà còn là động lực của sự thành công
của mỗi sinh viên.
2.1.2. Nhà trường
Nhà trường là một môi trường giáo dục cơ bản và có hệ thống đối
với mỗi sinh viên, đặc biệt đối với sinh viên chuyên ngành GDCT thì nhà
trường trở thành một “ngơi nhà chung” trong đó có thầy cơ và bạn bè. Việc
hình thành mơi trường giáo dục tích cực có ý nghĩa to lớn đối với sự hình
thành nhân cách của mỗi sinh viên.
Trước hết, vai trò to lớn trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên
GDCT phải kể đến sự tận tụy, nhiệt tình trong giảng dạy, hay say công tác

của các thầy cô giáo, đặc biệt là các cô trong khoa Tâm lý giáo dục.
“Không thày đố mày làm nên” là câu ca dao tục ngữ quen thuộc đối với
mỗi chúng ta. Ngày nay xã hội tôn vinh những người thầy như một sứ
mệnh quan trọng trong sự phát triển quốc gia. “Giáo viên là nhân tố quyết
định chất lượng giáo dục và được xã hội tơn vinh”2.
Để hình thành mơi trường tích cực cho sự hình thành nhân cách của
mỗi sinh viên, các thầy cơ phải trở thành tâm gương cho sinh viên noi theo.
Mỗi thầy cơ phải là những người có cốt cách của một nhà giáo, phải có
phẩm chất, lối sống trong sáng lành mạnh, phải là những người giáo dục
ngay cả trong cuộc sống đời thường. Một thầy cơ giáo có tư cách, lối sống
sa ngã thì khơng thể giáo dục cho sinh viên những điều hay lẽ phải được.
Không chỉ dạy kiến thức mà các thầy cơ cịn phải “giáo dục” đạo đức nữa.
Điều đó làm cho chúng ta tin vào câu nói của K.D. Unsinxki “Trong giáo
dục, tất cả phải dựa vào nhân cách của nhà giáo dục”.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII, 1996.

12


Thầy cơ thơng qua bài giảng của mình khơng chỉ truyền thụ cho sinh
viên những tri thức khoa học mà còn phải dạy cho sinh viên những kỹ
năng, kỹ xảo, những định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Thầy cô là
những người truyền niềm say mê trong mỗi bài giảng của mình đến với các
sinh viên để cho sinh viên nhận thức được vai trò, trách nhiệm trong mỗi
lời giảng, qua đó tự ý thức và biến yêu cầu của thầy cơ giáo thành mục đích
học tập của bản thân mình.
Đối với sinh viên GDCT nói riêng, thầy cơ giáo là những tấm gương
sáng về tri thức, về nhân cách cho mỗi sinh viên noi theo. Trong mỗi bài
giảng là một lượng tri thức mới và là một bài học về cách thức đứng trên
bục giảng-một điều vô cùng cần thiết đối với sinh viên GDCT, những

người được đào tạo để trở thành nhà sư phạm trong tương lai. Thầy cô phải
là người đi đầu trong việc noi gương về đạo đức, nhân cách và phải luôn tự
trau dồi thêm kiến thức chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, thầy có giỏi thì
trị mới giỏi.
Bên cạnh vai trị của thầy cơ thì việc hình thành mơi trường giáo dục
tích cực cho sinh viên GDCT không thể thiếu bạn bè. Môi trường ở đại học
trở thành một thế giới thu hẹp của mỗi sinh viên GDCT. Ở đó, mỗi sinh
viên được tiếp xúc với môi trường học tập mới, cuộc sống mới, thầy cơ
mới, và đặc biệt là bạn bè mới. Chính vì vậy, cần phải xây dựng mơi trường
giao tiếp lành mạnh giữa các sinh viên với nhau, thúc đẩy mối quan hệ tốt
đẹp –tình bạn sinh viên.
Mỗi sinh viên GDCT đều xuất phát từ những vùng, miền khác nhau,
Không phân biệt vùng miền, hoàn cảnh xuất thân, các sinh viên nhanh
chóng hịa nhập và kết bạn cùng nhau. Có thể nói mối quan hệ bạn bè ở
trường đại học trở thành một nhân tố tích cực trong sự hình thành nhân
cách mỗi sinh viên.
Sinh viên đặc trưng bởi hoạt động giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bao
trùm lên tất cả mọi hoạt động phong phú của sinh viên GDCT. Mà giao tiếp
13


giữa bạn bè với nhau lại càng chiếm một phần quan trọng. Qua giao lưu,
qua trò chuyện, trao đổi giữa các nhóm sinh viên mà giúp sinh viên hình
thành đời sống tình cảm phong phú. Qua giao tiếp giữa những nhóm bạn
cùng giới, khác giới, cùng tuổi, các chuyên ngành khác mà sinh viên có cái
nhìn đa dạng về thế giới xung quanh, từ đó thúc đẩy sự tự đánh giá bản
thân và tự hoàn thiện nhân cách cá nhân.
Giao tiếp giữa sinh viên chuyên ngành GDCT không chỉ là sự trao
đổi trong học tập mà còn là cả một đời sống tâm tư tình cảm phong phú.
Các sinh viên phải hỗ trợ lẫn nhau trong học tập và giúp đỡ nhau cùng tiến

bộ là một biểu hiện tích cực trong giao tiếp sinh viên nơi môi trường giáo
dục. Sinh viên phải luôn gần gũi với bạn bè, cùng chia sẻ những niềm vui,
nỗi buồn trong cuộc sống, động viên nhau cùng tiến bộ, giúp đỡ nhau khi
cần, phải luôn là chỗ dựa tinh thần cho nhau, đoàn kết giúp đỡ nhau.
Đặc biệt đối với sinh viên chuyên ngành GDCT thì giao tiếp trở
thành một mối trường thuận lợi để mỗi người chuẩn bị tích cực cho nghề
nghiệp trong tương lai. Nói như vậy bởi vì, sinh viên GDCT là những
người trong tương lai sẽ trở thành nhà giáo-những người đứng trên bục
giảng để truyền thụ tri thức cho đời sau, họ cần phải có những kỹ năng giao
tiếp cơ bản và khả năng truyền đạt cũng như sự mạnh dạn trước đám đơng.
Chính vì thế cần phải xây dựng và phát triển môi trường giao tiếp bạn bè
của sinh viên chuyên ngành GDCT là bước đệm quan trọng để họ có thể có
những bước tiến xa hơn trong cuộc sống, trong sự nghiệp và sự hình thành
nhân cách của mỗi cá nhân.
2.1.3. Hoạt động xã hội
Ngành đào tạo GDCT của Học viện Báo chí và Tuyên truyền ra đời
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giảng dạy lý luận chính trị Mác – Lênin ở
các trường đại học, cao đẳng. Ngồi kiến thức chun ngành, sinh viên cịn
phải chú ý rèn luyện năng lực sư phạm. Mang đặc thù của chuyên ngành
nhưng cũng không tách khỏi bộ phận của đoàn trường, đoàn khoa, sinh
14


viên GDCT tham gia tích cực các hoạt động xã hội (cụ thể là hoạt động của
nhà trường, khoa, chi đồn) là điều cần thiết.
Đồn trường là tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trị quan trọng
trong việc góp phần thúc đẩy q trình hình thành nhân cách cho sinh viên
GDCT đi đúng hướng. Đoàn trường cùng với khoa, chi đồn là nhân tố
chính trong các cuộc vận động, cá hoạt động cho sinh viên tham gia. Đó là
các chương trình tình nguyện, thể thao, văn nghệ, giải trí vui chơi…Đặc

biệt cần phải thúc đẩy hoạt động của mỗi chi đồn góp phần làm gia tăng
tinh thần đồn kết, tinh thần tập thể, từ đó củng cố lịng yêu quí nghề
nghiệp, trách nhiệm của mỗi người.
Mỗi cá nhân không thể sống mà tách rời tập thể. Việc tham gia vào
các hoạt động của đoàn trường, khoa, chi đoàn là một yêu cầu cần thiết đối
với mỗi sinh viên. Nó góp phần hình thành nên thế giới quan, tư tưởng, lập
trường cho mỗi cá nhân. Nó giúp mỗi sinh viên định hướng hoạt động tích
cực cho mình. Qua hoạt động xã hội, sinh viên tự nhận thức bản thân và
hồn thiện nhân cách của mình.
Chính vì vậy đồn trường và khoa cần phải có sự quan tâm đến nhu
cầu hoạt động của mỗi sinh viên, có sự tổ chức hợp lý các hoạt động xã hội
để tất cả các sinh viên đều có cơ hội tham gia, tự khẳng định mình. Sự hỗ
trợ về tài chính, tổ chức, tinh thần của đồn trường, khoa chủ quản góp
phần quyết định đến sự thúc đẩy hoạt động xã hội của sinh viên GDCT.
Bên cạnh đó, chi đồn cần phải đẩy mạnh hoạt động của mình hơn nữa, các
cán sự ở mỗi chi đồn cần phải hăng hái, nhiệt tình với cơng việc. Chi đoàn
phải năng động sáng tạo trong khâu tổ chức, tập hợp các bạn sinh viên
tham gia phong trào, hoạt động một cách nhiệt tình và sơi nổi…

15


2.2. Hoạt động của cá nhân - yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình
thành nhân cách cho sinh viên GDCT
Cá nhân mỗi sinh viên là một cá thể với nhân cách riêng, sự hình
thành và phát triển nhân cách chịu nhiều tác động của các nhân tố khác
nhau nhưng có một nhân tố cơ bản, quyết định trực tiếp là hoạt động của
mỗi cá nhân. Sinh viên có nhiều hoạt động nhưng theo em, học tập và
nghiên cứu là hoạt động chủ đạo.
Ngay khi còn ngồi trên ghế trường đại học, sinh viên phải chủ động

chiếm lĩnh tri thức khoa học có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp sau
này. Sinh viên phải say mê với nghiên cứu, tìm tịi tri thức mới để làm giàu
cho bản thân. Trong học tập, phẩm chất tự ý thức của sinh viên được nâng
cao rõ rệt, sinh viên tự đề ra phương pháp học tập nhất định, đồng thời là
người tổ chức, điều chỉnh, kiểm tra hoạt động của bản thân.
Về cơ bản sinh viên có hình thức học tập trên lớp và hình thức tự
học. Học tập trên lớp là phải chăm chú nghe giảng, có sự ghi chép khoa
học, trao đổi thảo luận để làm sao biến tri thức mà giáo viên truyền thụ
thành cái riêng có của bản thân mình. Cùng là một giáo viên giảng dạy,
nhưng khơng phải sinh viên nào cũng tiếp thu được lượng kiến thức như
nhau, điều này phụ thuộc vào bẩm sinh là rất ít mà phụ thuộc vào sự ý thức
của sinh viên là nhiều.
Em đặc biệt đánh giá cao hình thức tự học của mỗi sinh viên. Có thể
khẳng đinh, bằng con đường tự học, tự giáo dục, chính sinh viên sẽ tự phát
triển nhân cách cho mình. Sinh viên nên dành 5-6 giờ mỗi ngày để đọc
sách, học bài, tra khảo tài liệu thông qua các nguồn, kênh khác nhau để thu
nạp những lượng kiến thức cần thiết cho hoạt động học tập của mình.
Trong thời gian ở trường đại học, sinh viên nên tranh thủ đến thư viện để
tìm những tài liệu liên quan đến chuyên ngành và đó là cơ hội tốt nhất để
sinh viên củng cố và làm giàu kiến thức cho mình. Ngồi ra trong hình thức
tự học, sinh viên cần phải tự mình đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ học tập từ đó
16


tự tổ chức quá trình học tập cho riêng mình. Quá trình tự tổ chức và điều
chỉnh của mỗi sinh viên là khác nhau vì mục đích học tập là khác nhau.
Người sinh viên có sự định hướng đúng đắn và sự tổ chức kiến thức, thời
gian, sức lực..hợp lý sẽ là những đạt kết quả cao trong học tập.
Bên cạnh đó, tự học phải có phương pháp riêng, mỗi người phải có
sự tự đánh giá bản thân một cách chân thực để tự đề ra cho mình những

cách thức, biện pháp, con đường để lĩnh hội tri thức. Người có sự đánh giá
đúng mực về bản thân mình sẽ có sự điều chỉnh, tự hồn thiện mình.
Những sinh viên có kết quả học tập cao thường là những người có sự tự ý
thức tốt, có sự chủ động tích cực trong học tập. Cịn những người có kết
quả học tập khơng cao thường là do tự đánh giá mình q thấp hoặc q
cao từ đó sự tự hồn thiện, tự giáo dục đạt mức độ thấp.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế tri thức, sinh viên
ngồi những kỹ năng, năng lực chun mơn cịn phải tích cực trau dồi
ngoại ngữ và khả năng tin học. Nếu khơng có ngoại ngữ và tin học thì sinh
viên mãi chỉ là những người đi sau của thời đại, cơ hội tham gia vào hoạt
động nghề nghiệp là hạn chế và năng lực chun mơn vì thế mà khơng
được đánh giá cao. Do đó, mỗi sinh viên ngồi học tập, nghiên cứu khoa
học cịn phải tích cực nâng cao trình độ ngoại ngữ (cơ bản là tiếng Anh),
nếu có cơ hội biết thêm nhiều ngoại ngữ thì càng được đánh giá cao và phải
vững về nghiệp vụ tin học.
Không chỉ tập trung cho việc học tập, nghiên cứu, sinh viên GDCT
cũng cần phải trau dồi kĩ năng sư phạm, giảng dạy và rèn luyện một cách
nghiêm túc để nó trở thành kĩ năng, kĩ xảo vì đó là nghề nghiệp trong tương
lai. Ở trên lớp, sinh viên GDCT vừa phải chăm chú nghe giảng để tiếp thu
kiến thức mà cịn phải chú ý đến cách thức các thầy cơ giáo đứng lớp để
học hỏi và tích lũy kinh nghiệm cho bản thân mình. Đồng thời sinh viên
cần phải năng trao đổi với thầy cơ, bạn bè để có thể rút kinh nghiệm cho
bản thân và tự hoàn thiện kĩ năng cho mình.
17


Ngày nay, báo đài đưa tin rất nhiều về những sinh viên có lối sống
chơi bời, hưởng lạc, nhiều người còn xa ngã vào con đường tội lỗi. Vẫn
biết rằng cuộc sống sinh viên là thiếu thốn, nhưng mỗi người phải tự ý thức
trách nhiệm của bản thân với gia đình và xã hội để nỗ lực vươn lên thốt

khỏi cuộc sống khó khăn. Xã hội nhiều cám dỗ khơng phải dễ dàng để vượt
qua, nhưng với nghị lực và lịng quyết tâm, người sinh viên chân chính sẽ
khơng bao giờ gục ngã. Đặc biệt, sinh viên GDCT càng phải ý thức cao độ
về nghề nghiệp của mình để sống sao cho xứng đáng với những kiến thức
mà mình tiếp thu được và với trách nhiệm mà xã hội giao cho. Sinh viên
phải có lối sống trong sạch, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội và tuyên
truyền cho những người xung quanh. Sinh viên phải thường xuyên tu
dưỡng phẩm chất, đạo đức, đó là con đường tốt nhất để tự giáo dục nhân
cách cho chính mình.
Như vậy, sinh viên tự bản thân cần phải chăm chỉ học tập, nâng cao ý
thức tự học, vạch ra và thực hiện những kế hoạch phát triển bản thân,
không ngừng học hỏi và trau dồi rèn luyện kiến thức chuyên môn, kĩ năng,
kĩ xảo, nâng cao khả năng sáng tạo đồng thời rèn luyện phẩm chất đạo đức,
ý thức tổ chức kỉ luật, kĩ năng sống, giúp đỡ bạn bè cùng nhau tiến bộ, tích
cực tham gia các hoạt động xã hội nhằm nâng cao khả năng giao tiếp và mở
rộng các mối quan hệ. Ngồi những yếu tố trên cịn cần phải rèn luyện sức
khỏe để trở thành con người khỏe mạnh, khơng ngại khó khăn có niềm tin
hơn vào chính mình và cuộc sống. "Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả
nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”.
Thật vậy, mỗi cá nhân đều phải tự rèn luyện bản thân, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để trở thành một con người phát triển
tồn diện, một cơng dân có ích cho xã hội trong cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.

18


KẾT LUẬN
Sinh viên là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức, là nguồn
dự trữ nhân lực quan trọng của mỗi quốc gia. Việc giáo dục nhân cách cho

sinh viên từ lâu đã trở thành vấn đề đáng quan tâm của Đảng, Nhà nước và
của toàn xã hội. Thân Nhân Trung có câu “Hiền tài là ngun khí quốc gia,
ngun khí mạnh thì thế nước mạnh mà tiến lên, ngun khí suy thì thế
nước yếu mà thấp hèn”. Vì thế mà Đảng ta ln đưa vấn đề đào tạo nhân tài
lên hàng đầu.
Ngày nay, sinh viên Việt Nam không chỉ được đào tạo về tri thức
khoa học, kỹ năng nghiệp vụ mà cịn được giáo dục để hình thành và phát
triển nhân cách. Sinh viên chuyên ngành GDCT khơng nằm ngồi hệ thống
giáo dục đó. Sinh viên GDCT được đào tạo để trở thành những cán bộ
giảng day lý luận chính trị, họ vừa phải trau dồi kiến thức chuyên môn,
nghề nghiệp vừa phải tu dưỡng phẩm chất, đạo đức. Do đó, giáo dục nhân
cách cho sinh viên chuyên ngành GDCT là một yêu cầu có ý nghĩa thiết
thực. Việc giáo dục nhân cách cho sinh viên GDCT đặt ra yêu cầu cần phải
xây dựng môi trường giáo dục tích cực, trong đó giáo dục của gia đình và
nhà trường đóng vai trị quan trọng bậc nhất. Tuy nhiên, hoạt động của
chính cá nhân mỗi sinh viên mới quyết định trực tiếp đến sự hồn thiện
nhân cách chính họ.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.

Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù. Nxb Văn Hố Thơng tin, Hà Nội, 1996.
Một số chuyên đề tâm lý học, Học viện Báo chí và tuyên truyền,

3.


Khoa Tâm lý học, Hà Nội, 2011.
Tâm lý học đại cương, Học viện Báo chí và tuyên truyền, Khoa Tâm

4.

lý học, Hà Nội, 2010.
Nguyễn Quang Uẩn(chủ biên), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học

5.

quốc gia Hà Nội, 2003.
Nguyễn Ngọc Bích, Tâm lý học nhân cách – một số vấn đề lý luận,

6.
7.

Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII, 1996.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

20


MỤC LỤC

21



HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
-----------------------

TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ
ĐỀ TÀI:

Những giải pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên
chuyên ngành Giáo dục chính trị

SINH VIÊN :

NGUYỄN KIỀU OANH

LỚP

GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - K28

:

22


Hà Nội, 06 năm 2011

23




×