Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH ĐỂ NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH CỦA MỘT TỘC NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.56 KB, 17 trang )

NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH ĐỂ NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH
CỦA MỘT TỘC NGƯỜI

1


MỞ ĐẦU
Theo quan điểm của nhân học – dân tộc học, hơn nhân và gia đình là một
hiện tượng xã hội – văn hóa phản ánh đặc trưng văn hóa của một tộc người.
Nhờ vào việc lưu trữ và duy trì những nét đặc trưng văn hóa tộc người trong
gia đình và hơn nhân mà các nhà Dân tộc học mới có cơ sở khoa học để dựng
lại mối quan hệ tộc người, cũng như làm sáng tỏ thêm tính đặc thù riêng của
từng tộc người. Nó liên quan chặt chẽ với toàn bộ hệ thống xã hội như kinh tế,
xã hội, giáo dục. Ngồi ra, hơn nhân và gia đình cịn là tế bào của xã hội đóng
vai trị chủ đạo trong việc bảo tồn và duy trì nịi giống, bảo lưu văn hóa truyền
thống của dân tộc.
Để tìm hiểu về gia đình của một tộc người thì trước hết ta phải định
nghĩa được gia đình là gì? Gia đình và các thiết chế xã hội có mối quan hệ
như thế nào?
Vậy định nghĩa gia đình là gì?
+ Gia đình tập hợp người cùng chung sống thành một đơn vị nhỏ nhất
trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân và dịng máu, thường
gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái.
+ Gia đình thiết chế xã hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên khác
giới, thông qua hôn nhân, để thực hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn
hóa, xã hội , tín ngưỡng. Khi gia đình đã có con cái, thì các thành viên trong
gia đình được liên kết với nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân (không cùng
huyết thống) vừa bằng quan hệ huyết thống (theo dòng mẹ hoặc dòng bố). Gia
đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng sự phát triển của xã hội.
Nhìn chung những quan niệm của các nhà nghiên cứu đều có cái chung
là chú ý tới các mối quan hệ giữa các thành viên, nhằm thực hiện các chức


năng gia đình. Trong đó, quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống giữa các
thành viên trong gia đình là một dơn vị xã hội, và quan hệ kinh tế làm gia
đình thành một đơn vị kinh tế. Vì thế, dù là loại hình nào thì gia đình là một
đơn vị xã hội và một đơn vị kinh tế.
2


Tuy nhiên, những biến thiên của các loại hình gia đình hiện nay ở các xã
hội khác nhau lại đa dạng và phong phú hơn thế nữa.
Gia đìn có mối quan hệ sinh học và văn hóa xã hội. Về mặt sinh học, tất
cả các đứa trẻ đều có bố mẹ, song cương làm cha, làm mẹ có tính xã hội và
văn hóa chứ khơng đơn thuần là về mặt sinh học.
Từ mỗi một góc độnghiên cứu hay mỗi khoa học khi xem xét gia đình
đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên
cứu.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI CHURU
Hôn nhân và gia đình cũng là một lĩnh vực của đời sống xã hội những
người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Chu ru là một tộc người
cư trú ở các tỉnh Tây Nguyên chủ yếu là tại Lâm Đồng, nên yếu tố mẫu hệ thể
hiện rất rõ trong truyền thống văn hóa của mình. Yếu tố mẫu hệ ảnh hưởng và
chi phối sâu sắc đến các phong tục tập quán liên quan đến hơn nhân và gia
đình.
Người Chu ru đa số nói tiếng Chu Ru một ngơn ngữ chi Malay –
Polynesia trong hệ ngôn ngữ Nam Đảo.
1.1. Kinh tế
Người Chu Ru là một dân tộc đã định canh định cư và làm ruộng từ lâu

đời. Nghề trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và lúa là cây
lương thực chủ yếu. Ngồi ra họ cịn trồng ngô, khoai, sắn và một số loại rau,
đậu trên rẫy hoặc trong vườn.
Ruộng chỉ làm một mùa, chia làm hai loại ruộng: ruộng sâu và ruộng
sình. Do tính chất và điều kiện địa lý của từng loại ruộng ở từng vùng, có
những đặc điểm khác nhau nên kỹ thuật canh tác có nét riêng.
Tuy nhiên, lối canh tác cổ truyền của người Chu ru cũng có nhiều kinh
nghiệm nhất là về làm thủy lợi nhỏ và điều tiết lượng nước trong thời kỳ sinh
trưởng của cây lúa.
Người Chu ru chăn ni trâu, bị, heo, dê, ngựa và nhiều loại gia cầm
như gà, vịt. ngan, ngỗng.
Kết hợp với kinh tế sản xuất thì săn bắn là một hoạt động thường xuyên
trong đời sống của người Chu Ru tuy nó khơng cịn là nguồn sống quan trọng.
Săn bắt thường kết hợp chặt chẽ với khâu sản xuất nông nghiệp để chống các
loại thú rừng phá hoại mùa màng.
Đánh cá cũng là một nghề phụ trong gia đình tương đối phổ biến ở
những khu vực ven sông Đa Nhim và các khe suối khác trong rừng.

4


Hái lượm vẫn còn là một nguồn cung cấp thức ăn hằng ngày cho người
Chu ru. Họ thường hái các loại rau quả trong rừng và những lâm sản đem về
nhà trao đổi buôn bán.
Những sản phẩm thủ công chủ yếu như đồ dùng gia đình bằng mây tre
và các công cụ tự rèn như cuốc, nạo cỏ phục vụ cho đời sống và sinh hoạt
hằng ngày.
Nghề dệt ở đây khơng phát triển, vì vậy hầu hết mọi bộ đồ trong y phục
cổ truyền như áo, khố, váy đều mua và trao đổi các dân tộc láng giềng như
người Chăm, người Cơ Ho, người Mạ.

Nhìn chung, nền kinh tế cổ truyền của người Chu ru là một nền kinh tế
mang tính tự cung tự cấp, tự túc, bó hẹp trong từng gia đình, dịng họ và làng
bn truyền thống.
1.2. Văn hóa và xã hội
Xã hội cổ truyền Chu ru dựa trên cơ sở làng (plei). Rừng, núi, sông, suối
thuộc quyền sở hữu công cộng của làng.
Làng Chu Ru thường là một đơn vị cư trú láng giềng. Một làng bao gồm
nhiều dòng họ hoặc gồm cả những người khác tộc cùng cư trú. Chủ làng, do
tất cả thành viên lựa chọn trong số những người đà ông cao tuổi nhất của
làng. Ơng đóng vai trị hướng dẫn dân làng trong tổ chức sản xuất và đời
sống.
Như vậy, chủ làng, thầy cúng, bà đỡ, già làng là những người có vai trị
quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế và đời sống tín ngưỡng của cộng
đồng làng. Họ hợp thành tổ chức tự quản, một tổ chức chính trị, xã hội cao
nhất mà người Chu Ru đã đạt đến.
Trong xã hội có sự phân hóa giàu và nghèo. Dưới làng, là những cộng
đồng huyết thống dịng họ, gia đình lớn và gia đình nhỏ. Trong xã hội cổ
truyền của người Chu Ru, gia đình cịn mang nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Chu Ru vốn cư trú trên một lãnh thổ tương đối ổn định, thường có
quan hệ hơn nhân trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, họ vẫn có ít nhiều quan hệ
5


hôn nhân với người Cơ Ho và người RaGLai láng giềng. Chế độ hôn nhân
một vợ một chồng.
Người Chu Ru còn lưu giữa nhiều phong tục tập quán như việc thờ cúng
tổ tiên và tín ngưỡng đa thần. Ngồi tín ngưỡng cổ truyền, hiện nay Thiên
chúa giáo và Đạo tin lành đang phát triển sâu rộng trong vùng người Chu Ru
ở địa phương.
Người Chu Ru có một vốn ca dao, tục ngữ phong phú trong đó nổi bật là

những câu ca tụng chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã
hội cổ truyền.
Kho tàng văn học nghệ thuật dân gian của người Chu Ru không chỉ có
giá trị về mặt văn học nghệ thuật, mà còn là một nguồn tư liệu lịch sử quý giá.
Bên cạnh một số phong tục tập quán lạc hậu, như dùng bùa chú, cúng bái
để trị bệnh, người Chu Ru hái lá, vỏ, quả một số cây làm những vị thuốc nam
trong dân gian để chữa bệnh có cơng hiệu theo y học cổ truyền

6


CHƯƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH
CỦA MỘT TỘC NGƯỜI
Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, gia đình khó có thể bền vững nếu
nó khơng trở thành một đơn vị kinh tế. Loại hình gia đình tuy có khác nhau về
quy mơ, nhưng đó khơng phải là đặc trưng cơ bản của gia đình, vì vậy nó
khơng thể là tiêu chí chủ yếu để phân loại hình thái gia đình. Các tác giả Phan
Xuân Biên, Phan An, Phan văn Dốp khẳng định: loại hình gia đình phải được
quyết định chủ yếu bởi quan hệ hôn nhân và quan hệ kinh tế của các cặp hơn
nhân tồn tại trong gia đình. Khi phân loại gia đình, điều chủ yếu là phải căn
cứ vào yếu tố kinh tế: từ hình thức sở hữu đối với tài sản đến cách tổ chức sản
xuất, phương tiện tiêu dùng sản phẩm và số cặp vợ chồng cùng tồn tại trong
một gia đình, cùng nhau thực hiện các chức năng kinh tế đó.
Khi xét trên phương diện hình thái mang tính chất quy mơ của gia đình.
Vậy gia đình tồn tại dưới hai hình thái cơ bản: Tiểu gia đình và Đại gia đình.
Cả hai loại hình gia đình này cịn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa của chế độ
mẫu hệ.
2.1 .Tiểu gia đình mẫu hệ của người Chu ru
Trong hai thập kỷ gần đây, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, năng
suất lao động ngày càng được nâng cao tạo điều kiện cho kinh tế cá thể , kinh

tế hộ gia đình phát triển, mặc khác do giao lưu tiếp xúc văn hóa với các tộc
người lân cận, đặc biệt với người Việt nên tiểu gia đình mẫu hệ ngày càng
chiếm ưu thế trong cộng đồng người Chu ru ở Lâm Đồng.
- Trong tiểu gia đình mẫu hệ, người vợ vẫn giữ vai trò là chủ gia đình.
Tuy nhiên, người vợ đã có sự san sẻ quyền hạn và trách nhiệm cho người
chồng. Đây là kết quả cho sự thay đổi cách nhìn nhận về vai trị của người đàn
ơng trong cộng đồng Chu ru. Nếu như trong đại gia đình mẫu hệ trước đây,
người đàn ông chỉ được xem như là người ở rể, có trách nhiệm lao động sản
xuất làm ra của cải nuôi sống gia đình phía vợ, chịu sự chi phối của các thành

7


viên trong gia đình nhà vợ thì trong tiểu gia đình mẫu hệ ngày nay, người đàn
ơng là người lao động chính làm ra tài sản ni sống cả gia đình.
- Anh ta giữ vị trí là chồng của bà chủ nhà, là người cha của những đứa
con. Anh ta khơng những là trụ cột của gia đình mà cịn là người đại diện cho
gia đình giao thiệp với bên ngồi, tham gia các cơng việc trong xã hội. Vì vậy,
vai trị, vị trí của anh ta ngày càng được cũng cố và coi trọng hơn trước.
Những việc chi tiêu ăn uống hay mua sắm và các vật dụng có giá trị nhỏ trong
gia đình vẫn do người vợ tự quyết. Đối với việc mua sắm những tài sản có giá
trị lớn như xe máy, và các thiết bị máy móc trong gia đình thì phải thơng qua
ý kiến của chồng. Tuy vậy, nếu người vợ có tài sản riêng do cha mẹ cơ ta chia
cho thì việc mua bán, cho, tặng ai thì tùy cơ ta và có thể khơng thơng qua ý
kiến của chồng.
Đối với gia đình hạt nhân, các gia đình sau khi tách khỏi đại gia đình
mẫu hệ sẽ hình thành một gia đình hạt nhân mới, tồn tại dưới hình thái loại
hình tiểu gia đình. Các gia đình hạt nhân này, sau khi đã hình thành một gia
đình hạt nhân hồn chỉnh thường có khuynh hướng tiếp tục mở rộng thành
viên theo chiều trực hệ. Từ đó, chuyển thành gia đình mở rộng, tồn tại dưới

hình thái đại gia đình mẫu hệ.
Riêng đối với hình thái đại gia đình mẫu hệ trước đây vẫn tiếp tục tồn tại
và mở rộng theo cả hai phía bàng hệ lẫn trực hệ. Tuy nhiên, dưới tác động của
biến đổi xã hội hiện nay, phía bàng hệ dần dần bị thu hẹp chỉ cịn tiếp tục duy
trì tồn tại hình thái gia đình theo chiều hướng mở rộng theo phía trực hệ.
Gồm một cặp vợ chồng và những đứa con lấy vợ , lấy chồng hoặc khơng
có con cái. Các thành viên của gia đình nhỏ thuộc hai thế hệ có quan hệ huyết
thống và hơn nhân, đồng thời là một đơn vị kinh tế: tổ chức sản xuất, tiêu
dùng và hưởng thụ thành quả lao động chung. Đặc tính của gia đình hạt nhân
là đơn vị sinh hoạt độc lập, phải tự giải quyết mọi vấn đề của sinh tồn. Gia
đình hạt nhân là hình thái gia đình phù hợp với hồn cảnh xã hội có độ di
động cao và là hình thái phổ biến trong xã hội công nghiệp hiện đại.
8


2.2. Đại gia đình mẫu hệ
Đại gia đình mẫu hệ là loại hình gia đình vốn tồn tại phổ biến trước đây
trong cộng đồng người Chu ru ở Lâm Đồng. Người Chu Ru gọi đại gia đình là
meknong sang dơ nị, có nghĩa là gia đình lớn. Mỗi mekong săng dơ nị có ít
nhất hai cặp vợ chồng và con cái của họ cùng sinh sống. Những thành viên
trong đại gia đình là những người cùng dịng họ, huyết thống, những người
con nuôi, những người đi ở rể cùng chung sống với nhau.
Hình thức cư trú của đại gia đình truyền thống là nhà sàn dài. Nhà có
chiều dài từ 15 đến 20m trở lên, rộng khoảng 10m, tùy theo số lượng thành
viên trong gia đình. Mái nhà được lợp bằng cỏ tranh, các cột nhà được làm
bằng gỗ hoặc tre nứa khai thác trong rừng. Cầu thang bước lên xuống được
đặt ở đầu hồi nhà.Không gian trong nhà được chia làm hai phần bàng nhau.
Phần phía trong đối diện với cầu thang bước lên xuống được chia làm thành
nhiều buồng nhỏ tùy theo số lượng các thành viên trong gia đình. Buồng đầu
tiên thường có kích thước rộng hơn là nơi sinh hoạt của vợ chồng chủ nhà.

Buồng kế tiếp là nơi ở của những thành viên nữ chưa lập gia đình. Kế tiếp
theo là những căn buồng của các thành viên nữ đã lập gia đình chung sống
cùng chồng và con cái của cơ ta. Khơng gian phía ngồi của ngơi nhà được
chia làm ba phần bằng nhau. Phần phía trên là những chỗ ngủ của những
thành viên nam chưa lập gia đình. Họ là con cái hoặc là anh em trai của bà
chủ. Gian giữa là nơi đặt bàn thờ ông bà tổ tiên và bếp lửa lớn của đại gia
đình. Gian là nơi giành cho việc tiếp khách. Tất cả những thành viên trong gia
đình đều làm chung, ăn chung tại một bếp ăn lớn của đại gia đình. Tất cả mọi
của cải làm ra của các thành viên trong đại gia đình đều là sở hữu chung, do
bà chủ quản lý.
Trước những năm 1975, hình thức đại gia đình mẫu hệ là hình thức gia
đình phổ biến và chiếm đa số trong các làng Chu ru. Khi trình độ sản xuất cịn
ở mức độ thấp, công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp kém, người
Chu ru sống theo hình thức đại gia đình. Có như thế mọi thành viên trong gia
9


đình, dịng họ có thể đồn kết nhau, cùng chống chọi với thú dữ chống lại sự
khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên để cùng nhau tạo nên của cải vật chất đảm
bảo sự no đủ cho mọi thành viên trong gia đình. Do đó, có thể xem đại gia
đình mẫu hệ là sợi dây liên kết, gắn kết những thành viên trong gia đình, dịng
họ lại với nhau, tạo nên sức mạnh tập thể cùng chung sức lao động sản xuất,
cũng như giúp đỡ nhau những lúc gặp khó khăn hoạn nạn nếu như họ sống
độc lập theo tiểu gia đình thì sẽ vượt qua được.
Tuy nhiên, sống trong một gia đình đơng đúc, có nhiều mối quan hệ:
quan hệ giữa cha mẹ với con cái; quan hệ giữa các anh chị em; giữa những
người đi làm rể; những người con nuôi và những người giúp việc cho gia đình
nên những mâu thuẫn thường xảy ra trong gia đình là điều không thể tránh
khỏi.
Gồm từ hai cặp vợ chồng mà mỗi cặp có khả năng tồn tại như một gia

đình hạt nhân. Đại gia đình thường thấy trong xã hội mà sự mưu sinh đòi hỏi
sự liên kết cùng chung sống của các gia đình hạt nhân. Các thành viên trong
gia đình lớn có mối quan hệ huyết thống, theo trự hệ hay bàng hệ và quan hệ
hôn nhân, đồng thời là đơn vị kinh tế cùng làm ăn chung.
Trong đại gia đình, ơng bà, bố mẹ, anh em, chú bác, cơ dì, anh em họ
cùng chung sống chung nên các thành viên trong đại gia đình thuộc 2, 3, 4 thế
hệ hay nhiều hơn.
Đặc trưng của đại gia đình là mỗi cá nhân được sự giúp đỡ hỗ trợ từ
nhiều phía trong tất cả các mặt của đời sống, đặc biệt là trong hoạt động sản
xuất và tiêu thụ. Nhưng đại gia đình khơng phù hợp với cuộc sống có độ di
động cao, đặc biệt là ít phù hợp với xã hội cơng nghiệp.
Việc phân loại gia đình không chỉ căn cứ vào số lượng của các cặp vợ
chồng và các thế hệ mà đặc biệt chú ý tới yếu tố kinh tế, khi gia đình là đơn vị
sản xuất, tiêu dùng và có sở hữu và có tài sản chung.

10


2.2.1. Gia đình hạt nhân
Gia đình hạt nhân là loại hình gia đình bao gồm hai thế hệ: một cặp vợ
chồng và những đứa con chưa lập gia đình và nó có thể mở rộng thêm khi có
thêm những người họ hàng độc thân. Mỗi thành viên của gia đình hạt nhân
đều có mối quan hệ khác nhau như quan hệ giữa chồng với vợ, giữa con với
con cái với nhau và giữa cha mẹ với con cái. Mối quan hệ này thường biểu
hiện rõ nét trong tiểu gia đình một vợ một chồng, cho nên thường hay gọi gia
đình cá thể hay gia đình đơn giản. Đây là laoij hình phổ biến nhất hiện nay.
Trong chu kỳ của gia đình, gia đình hạt nhân cịn có dạng sau: Gia đình hạt
nhân trọn vẹn (bố mẹ và con cái); gia đình nhỏ khơng trọn vẹn (vợ hoặc
chồng và các con); một cặp vợ chồng khơng có con; gia đình nhỏ mở rộng (vợ
chồng với các con và bố hoặc mẹ của vợ và chồng, những người họ hàng khác

bên vợ hoặc bên chồng).
2.2.2. Gia đình mở rộng
Gia đình mở rộng là loại hình gia đình bao gồm tối thiểu từ hai cặp vợ
chồng trở lên và những đứa con của họ có khả năng tồn tại độc lập như một
gia đình. Có nghĩa là ngồi số lượng cặp vợ chồng, chúng ta phải xem xét các
khía cạnh khác như hình thức sở hữu của gia đình đối với ruộng đất, tài sản,
cung cách sản xuất và quan hệ chi tiêu trong gia đình. Gia đình có sự mở rộng
số lượng của các thành viên theo hai chiều: chiều dọc và chiều ngang.
Gia đình mở rộng theo chiều dọc (trực hệ) có ít nhất là ba thế hệ: thế hệ
cha mẹ, thế hệ con cái đã có vợ chồng và thế hệ cháu…cùng sống chung trong
một gia đình.
Gia đình mở rộng theo chiều ngang (bàng hệ) thì các anh em trai sau khi
lấy vợ hoặc các chị em gái sau khi lấy chồng vẫn cùng sống chung với nhau
trong một gia đình, cho nên thường hay gọi đại gia đình, gia đình nhiều hộ.
gia đình liên kết hay gia đình phức hợp.
Trong gia đình mở rộng việc chăm sóc con cái không nhất thiết là công
việc của bố mẹ mà cả anh em, ơng bà hợp tác chăm sóc con cái.
11


Đặc trưng của đại gia đình là người ta nhận sự giúp đỡ và hỗ trợ từ nhiều
phía trong tất cả các mặt sản xuất và tiêu thụ.
Đặc tính của cơ cấu gia đình thường dễ thay đổi theo thời gian. Khi một
cặp vợ chồng mới cưới ra ở riêng, sau một thời gian đứa con ra đời thì gia
đình họ trở thành gia đình hạt nhân.Nếu ơng nội và bà nội chuyển đến sống
chung với họ, gia đình này trở thành một gia đình mở rộng. Sau một thời gian,
ơng bà mất,thì gia đình đó trở thành gia đình hạt nhân. Và khi đưa con lớn lên
lập gia đình chưa ra ở riêng thì gia đình này trở thành gia đình mở rộng.
Xét về phương diện cấu trúc, cộng đồng tộc người Chu ru vẫn còn tồn tại
hai loại hình theo kết cấu gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng.

2.3. Chức năng của gia đình
2.3.1. Chức năng tái sản xuất con người
Đây là một chức năng quan trọng của gia đình. Đối với gia đình của
người Chu Ru, chức năng tái sản xuất con người thể hiện trước hết ở việc sinh
con đẻ cái nhằn duy trì nòi giống tộc người từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Gia đình là nơi đảm bảo trật tự mối quan hệ giới tính trong xã hội lồi người
và được thực hiện qua nhiều mối quan hệ hôn nhân, quan hệ thân tộc, quan hệ
dòng họ, quan hệ kinh tế, quan hệ lao động, quan hệ tài sản, quan hệ xã hội.
Đối với tộc người Chu ru theo chế độ mẫu hệ, những của cải trong gia đình
tạo ra sẽ ưu tiên cho các con cái được thừa hưởng khi lập gia đình mới và
được quyền sống chung cùng với gia đình cha mẹ.
Đối với xã hội, chức năng này thể hiện ở việc nâng cao số lượng cư dân
tộc người, tạo nên nguồn nhân lực dồi dào phục vụ cho việc phát triển tộc
người Chu Ru nói riêng và cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung. Chính
nhờ chức năng tái sản xuất ra con người của gia đình mà xã hội lồi người tồn
tại, ổn định và ngày càng phát triển.
Trước đây, do trình độ kỹ thuật sản xuất cịn lạc hậu, các cơng việc sản
xuất nơng nghiệp nương rẫy, lúa nước hay săn bắt, hái lượm đều dựa vào sức
người là chính nên quan niệm truyền thống của cộng đồng Chu Ru nơi đây là
12


có nhiều con là có của nhiều, có nhiều con là phúc lớn trong gia đình. Quan
niệm trên đây cộng với hiện tượng mưu sinh vô dưỡng rất phổ biến do các
điều kiện y tế, chăm sóc kém nên cộng đồng Chu Ru ở Lâm Đồng trước kia
rất coi trọng những gia đình có nhiều con.
Xuất phát từ những lí do trên, trước kia, mỗi gia đình Chu Ru thường
sinh nhiều con, mỗi gia đình có khoảng bảy đến chín người con, mật độ sinh
rất dày, trong làng Chu Ru trước kia, người phụ nữ khi sinh nhiều con được
xem là một niềm tự hào. Họ được mọi người trong dịng họ, làng xóm trong

vọng. Những phụ nữ khơng sinh được con bị xem là nỗi bất hạnh lớn nhất
trong cuộc đời của họ cũng như của cả gia đình. Những cặp vợ chồng khơng
có con thường ly hơn để người chồng có thể xây dựng một gia đình mới. Khi
ly hơn, gia đình người phụ nữ phải đền bù cho người chồng một con trâu, một
chiếc nhẫn để họ dùng tài sản đó đi cưới một người vợ khác, mặc dù đơi lúc
ngun nhân là từ phía người chồng.
2.3.2. Chức năng kinh tế
Gia đình thực hiện chức năng kinh tế, nghĩa là tiến hành hoạt động kinh
tế nhằm chăm lo cuộc sống vật chất cho gia đình. Những của cải làm ra phục
vụ cho nhu cầu gia đình đóng vai trị quan trọng trong sinh hoạt kinh tế gia
đình.
Trong gia đình mẫu hệ người Chu Ru, những yếu tố này được biểu hiện
qua việc đoàn kết giữa các thành viên trong đại gia đình cùng sản xuất, giúp
đỡ nhau trong cuộc sống, tạo nên của cải vật chất, sự giàu có và no đủ được
đặt dưới sự chỉ huy, quản lý của vợ chồng chủ nhà. Vợ chồng chủ nhà cùng
chung sống với các thành viên trong nhà dài của đại gia đình, cùng lao động
sản xuất trên những mảnh đất của gia đình, dịng họ mình. Những mảnh đất
này thường do ông bà, tổ tiên của họ để lại, truyền từ đời này sang đời khác
hoặc có thể mua lại của những dịng họ khác.
Việc phân cơng lao động giữa các thành viên trong gia đình được chỉ
định rất cụ thể. Nam giới thường làm những công việc nặng nhọc hơn như:
13


săn bắt, đốn cây to, đuổi thú dữ bảo vệ mùa màng. Nữ giới thường làm các
công việc gieo hạt, đuổi chim thú, hái lượm củ quả, rau rừng bổ sung cho bữa
ăn hằng ngày và chăm lo các công việc nội trợ như: lấy củi, giã gạo, lấy nước,
chăm sóc con nhỏ.
2.3.3. Chức năng giáo dục
Cũng như chức năng tái sản xuất ra con người và chức năng kinh tế,

chức năng giáo dục là một chức năng quan trọng, khơng thể thiếu trong mọi
gia đình. Gia đình là cái nôi, là môi trường sống cơ bản, là nơi truyền thụ
những kiến thức đầu đời, lưu giữ và truyền thụ văn hóa của dân tộc.
Chức năng gia đình biểu hiện trước hết là ý thức của bố mẹ, ông bà
muốn dạy dỗ, truyền đạt những phong tục, tập quán, tín ngưỡng cổ truyền của
dân tộc mình cho con cháu trong gia đình. Sự dạy dỗ, truyền đạt này có thể
diễn ra mọi lúc, mọi nơi ngay từ lúc con cháu của họ khoảng 4 đến 5 tuổi, làm
cho chúng dần dần tích lũy được những kỹ năng, thói quen lao động. Ngồi ra
các bậc cha mẹ trong gia đình cịn ý thức việc truyền thụ cho con cháu những
trí thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động phù hợp với giới tính của mình. Con
trai thường được người cha, người cậu hoặc anh trai dạy cách săn bắt, làm nỏ,
cung tên, đan lưới, thuốc cá, theo cha mẹ lên rẫy, đỡ đần những công việc
nhẹ. Con gái được mẹ dạy cách giã gạo, nấu nướng bữa ăn trong gia đình,
may vá áo, trong coi em nhỏ, theo người lớn đi hái rau, lấy nước. Những công
việc này được truyền dạy từ khá sớm nên khi lớn lên khoảng 10 đến 12 tuổi,
con trai đã thành thạo và có thể theo cha đi săn vài ngày, con gái có thể giã
gạo, lo toan các công việc nội trợ một cách thành thục khéo léo.
Đến tuổi trưởng thành, chúng có thể cùng bạn bè và những người lớn
trong gia đình tham gia các lễ hội, nghi lễ cúng tế được tổ chức hằng năm của
gia đình, dịng họ và của cộng đồng. Trong dịp đó, chúng có thể học các bài
trí lễ vật, học những câu cúng cùng với những câu cúng với những nhịp cồng
chiêng đặc trưng của từng lễ cúng cũng như các yếu tố văn hóa truyền thống
của tộc người mình.
14


CHƯƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG GIA ĐÌNH CỦA
NGƯỜI CHU RU
Gia đình của người Chu Ru ở tỉnh Lâm Đồng có những biến đổi sâu sắc
về các mặt như: tập qn cư trú, quy mơ và hình thái gia đình, các chức năng

cơ bản cũng như các nghi lễ trong gia đình.
+ Tập quán cư trú: hình như các loại hình cư trú của các dân tộc trên địa
bàn Tây Ngun đã có những thay đổi rất lớn, loại hình cư trú khơng như
trước đây nữa, có sự sinh hoạt phức tạp, lẫn lộn lẫn nhau, nhiều cư dân không
đồng điệu trong xã hội. Do quá trình sống cộng cư xen kẽ với nhiều tộc người
anh em, nhất là người kinh, họ đã giao lưu văn hóa với nhiều tộc người nên
họ đã thay đổi nhận thức, phong tục tập qn của mình.
+ Quy mơ và hình thái gia đình: Do sự tác động của nền kinh tế thị
trường – nền kinh tế đa thành phần và xu hướng hiện đại hóa nơng thơn ở
nước ta. Các bản làng đồng bào Chu Ru ở đây cũng phải tự mở cửa để đón
nhận những gia trị văn hóa mới, những yếu tố kinh tế của thời đại, thoát khỏi
cuộc sống tự cung tự cấp, hội nhập vào xu hướng kinh tế của thời đại.
Do sự tác động rất lớn của những chính sách, chủ trương của Đảng , nhà
nước kết hợp với chính quyền địa phương về phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ
cấu cây trồng và vật nuôi phù hợp với thực tế địa bàn.
+ Chức năng cơ bản cũng như các nghi lễ trong gia đình
Do ảnh hưởng tác động của các tôn giáo du nhập vào cộng đồng Chu ra
nơi đây như Đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, khiến cho những phong tục tập
quán truyền thống, cũng như các nghi lễ trong gia đình và hơn nhân chịu sự
ảnh hưởng hoặc chi phối của các nghi thức tôn giáo
Do trình độ văn hóa, trình độ nhận thức của người Chu ru ngày càng cao,
họ đã tự thay đổi những phong tục tập quán của mình sao cho phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại.
Loại hình gia đình truyền thống của người Chu ru ở Lâm Đồng là đại gia
đình mẫu hệ, bao gồm nhiều thành viên cùng chung sống với nhau trong ngôi
15


nhà sàn dài. Hiện nay, loại hình đại gia đình của người Chua ru ở Lâm Đồng
đang trên bước đường tan rã, dần nhường chỗ cho hình thái gia đình mới, đó

là tiểu gia đình mẫu hệ. Theo đó, tập qn cư trú, quy mơ và hình thái gia
đình, các chức năng cơ bản của gia đình và những nghi lễ trong gia đình cũng
biến đổi.

16


KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu các vấn đề các tộc người Tây Nguyên các nhà nghiên
cứu gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề: kinh tế, xã hội, văn hóa của các
tộc người.
Vì vậy, vấn đề gia đình của các tộc người Tây Nguyên nói chung và
tộc người Chu ru nói riêng. Các gia đình này trước kia phân bố rất phức
tạp, các phong tục tập qn, tín ngưỡng có sự thay đổi. Đặc biệt là trong
các vấn đề hôn nhân và gia đình các tộc người Chu ru có sự thay đổi hồn
tồn khác lạ.
Nhìn chung khi đặt vấn đề mà mình đang nghiên cứu thì tơi thấy đề
tài này rất hay mặc dù không đi sâu nghiên cứu nhưng khi nhìn nhận một
cách tổng quan thì cho chúng ta tầm nhìn tồn diện của một tộc người trên
Tây Ngun.
Hiện nay do nhiều yếu tố cạnh tranh nhau trong thị trường các loại
hình gia đình và hơn nhân có sự tác động từ bên ngoài là rất lớn, chi phối
trong đời sống sinh hoạt chung trong cộng đồng tộc người Chu ru.

17



×