Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI CỦA NGƯỜI BANA K’RIÊM Ở THÔN HÀ RI, XÃ VĨNH HIỆP, HUYỆN VĨNH THẠNH, TỈNH BÌNH ĐỊNH.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.81 KB, 53 trang )

LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI CỦA NGƯỜI
BANA K’RIÊM Ở THÔN HÀ RI, XÃ
VĨNH HIỆP, HUYỆN VĨNH THẠNH,
TỈNH BÌNH ĐỊNH.


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẨU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 3
6. Đóng góp đề tài .......................................................................................... 4
7. Bố cục của đề tài ........................................................................................ 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH CỦA NGƯỜI BANA K’RIEM
Ở THÔN HÀ RI, XÃ VĨNH HIỆP, HUYỆN VĨNH THẠNH , TỈNH
BÌNH ĐỊNH ..................................................................................................... 6
1.1

Điều kiện tự nhiên ................................................................................ 6

1.1.1 Vị trí địa lí .......................................................................................... 6
1.1.2 Về lịch sử hình thành ......................................................................... 6
1.1.3 Địa hình .............................................................................................. 7
1.1.4 Khí hậu ............................................................................................... 8
1.1.5 Đất đai ................................................................................................ 8
1.1.6 Nguồn nước........................................................................................ 8
1.2


Điều kiện xã hội .................................................................................... 9

1.2.1 Về kinh tế ........................................................................................... 9
1.2.2 Về dân số.......................................................................................... 10
1.2.3 Về y tế và giáo dục,quốc phòng an ninh .......................................... 10
1.3 Tổng quan về người Bana k’riem ở thôn Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp, huyện
Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định ........................................................................ 11
1.3.1 Nguồn gốc ........................................................................................ 11
1.3.2 Loại hình cư trú ................................................................................ 12
1.3.3 Trang phục truyền thống .................................................................. 13
1.3.4 Ẩm thực............................................................................................ 15


1.3.5 Lễ hội truyền thống .......................................................................... 19
1.3.6 Lễ bỏ mả........................................................................................... 19
1.3.7 Lễ cúng nước.................................................................................... 20
1.3.8 Dân ca Bana ..................................................................................... 24
1.3.9

Tổ chức xã hội của người Bana.................................................... 25

1.3.9.1 Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần...................................... 25
CHƯƠNG 2: LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI CỦA NGƯỜI BANA K’RIÊM
Ở THÔN HÀ RI, XÃ VĨNH HIỆP, HUYỆN VĨNH THẠNH, TỈNH BÌNH
ĐỊNH............................................................................................................... 31
2.1 Tổng quan về lễ hội ................................................................................ 31
2.1.1.

Khái niệm về lễ hội ..................................................................... 31


2.1.2.

Khái quát về lễ hội mừng lúa mới ............................................... 32

2.2. Diễn trình lễ hội .................................................................................... 33
2.2.1. Cơng tác chuẩn bị............................................................................ 33
2.2.2.

Phần lễ trong lễ hội mừng lúa mới .............................................. 34

2.2.3. Phần hội trong Lễ hội mừng lúa mới .............................................. 37
CHƯƠNG 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRONG
LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI Ở THƠN HÀ RI, XÃ VĨNH HIỆP, HUYỆN
VĨNH THẠNH, TỈNH BÌNH ĐỊNH ............................................................ 39
3.1. Sự biến đổi của lễ hội mừng lúa mới .................................................... 39
3.2 Những giá trị văn hóa............................................................................. 39
3.3. Bảo tồn và phát huy giá trị trong lễ hội mừng lúa mới ......................... 42
KẾT LUẬN .................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 46
MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI BANA K’RIEM
VĨNH THẠNH BÌNH ĐỊNH ........................................................................ 47


MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta có rất nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, mỗi dân
tộc có những nét văn hóa riêng, có những phong tục tập quán riêng. Những
nét văn hóa đã làm nên đặc trưng độc đáo của từng dân tộc, từng địa phương
mà nơi họ đang sinh sống.
Trong các dân tộc đang sinh sống trên khắp mọi miền đất nước mỗi dân

tộc đều có nét riêng trong phong tục tập quán cũng như trong cuộc sống sinh
hoạt hằng ngày. Như chúng ta đã biết nhắc đến Tây Nguyên là một vùng đất
rộng lớn màu mỡ và thuận lợi cho nhiều đồng bào dân tộc sinh sống mỗi đồng
bào cũng có những nét tương đồng trong phong tục tập quán nhưng cũng có
nét riêng biệt. Một trong những yếu tố quan trọng nhất ở Tây Nguyên cư dân
cư trú chủ yếu là Bana, Gia Lai và một phần cư trú ở Kon Tum nằm rải rác…
Nếu nghĩ rộng ra thì người đồng bào Bana cư trú rất nhiều vùng khác nhau
nhưng người Bana thuộc huyện Vĩnh Thạnh đa số là người Bana k’riem sinh
sống nhiều hơn trong địa bàn huyện và đó chính là một phần đồng bào Tây
Nguyên di cư. Bởi người đồng bào Bana ở huyện Vĩnh Thạnh đều có chung
nguồn gốc, có chung tiếng nói, có chung phong tục tập quán điều quan trọng
là đa số là đồng bào Bana k’riem cư trú tại huyện.
Chính những nét giống nhau đó đã hình thành tổ chức xã hội, kinh tế,
chính trị rất phát triển trong huyện Vĩnh Thạnh. Không những thế phong tục
cũng khơng có sự thay đổi nhiều trong q trình kế thừa những phong tục tập
qn đó đã tạo điều kiện cho nền văn hóa tinh thần rất phát triển. Một trong
những đặc điểm nổi bật nhất là nền văn hóa tinh thần đồng bào nơi đây vẫn kế
thừa những truyền thống tốt như lễ mừng tuổi, khánh thành nhà rông, tết
nguyên đán, hội làng, lễ mừng lúa mới… Đây là những ngày hội thực sự
mang nét văn hóa truyền thống, thể hiện rõ yếu tố cộng đồng, tình yêu thiên
nhiên, sự ngưỡng vọng của thần linh được gắn kết với nhau chặt chẽ, là sự kế
tục truyền thống văn hóa xưa. Hằng năm cứ sau mỗi mùa làm rẫy xong, bà
con đồng bào các tộc người thiểu số tại các làng trong vùng lại tổ chức lễ hội
thần Yang và các vị thần khác nhằ tạ ơn thần linh đã phù hộ, độ trì cho bà con
dân làng trong một năm qua làm ăn được mùa, con cháu khỏe mạnh. Đó chính
là nội dung và ý nghĩa của lễ mừng lúa mới (Sa mook) được tổ chức từ tháng
1


11 cho đến tháng 3 âm lịch. Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào dân tộc thiểu

số ở Tây Nguyên nói chung và lễ hội mừng ăn lúa mới của người đồng bào
Bana nói riêng là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc hiện
vẫn được bảo tồn và tổ chức hàng năm.
Với những nét đặc sắc như vậy, có thể xem Lễ hội mừng lúa mới là nền
văn hóa có giá trị, góp phần vào sự phát triển văn hóa. Đó là trở thành nét văn
hóa truyền thống khơng thể thiếu trong đời sống cũng như phản ánh sinh hoạt
văn hóa vật chất và tinh thần. Và đó cũng là lý do chính để người viết lựa
chọn đề tài “Tìm hiểu Lễ hội mừng lúa mới (Sa mook) của người Bana
k’riem ở làng Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh góp phần phục vụ phát
triển văn hóa truyền thống trong q trình nghiên cứu cho đề tài của tơi.
2. Mục đích nghiên cứu vấn đề
Mục đích đầu tiên của đề tài nhằm tìn hiểu những nét đặc trưng về
mảnh đất, con người, tập quán, tín ngưỡng truyền thống của văn hóa tại huyện
Vĩnh Thạnh nói chung và làng Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp nói riêng, trên cơ sở đó
làm rõ vấn đề lễ hội mừng lúa mới trong các lễ hội quan trọng trong làng. Tập
trung nghiên cứu về Lễ hội mừng lúa mới từ nguồn gốc, nghi lễ đến giá trị, từ
đó đi sâu làm rõ nét khác biệt riêng có ở mỗi tộc người khi tiến hành tổ chức
lễ hội này. Dựa trên cơ sở phân tích dữ liệu và thực trạng khai thác Lễ hội
mừng lúa mới hiện nay, tiến tới để xây dựn những định hướng, giải pháp bảo
tồn và đặc biệt đề xuất khai thác lễ hội này một cách hiệu quả mà không làm
mất đi giá trị nguyên gốc của nghi lễ.
Với những mục đích đã nêu trên, tôi hy vọng đề tài này trước hết sẽ
mang lại một cái nhìn tổng quan và hệ thống về lễ hội mừng lúa mới của các
đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Vĩnh Thạnh và đặc biệt là người Bana
k’riem làng Hà Ri, giúp người đọc có thể hiện những giá trị lịch sử, tâm linh,
văn hóa và nghệ thuật, để từ đó thêm yêu và thêm tự hào về vốn văn hóa
truyền thống đa dạng mà độc đáo của đất nước mình.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lễ hội là đề tài được các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu văn hóa
đặc biệt quan tâm. Cho đến nay, việc nghiên cứu sưu tầm lễ hội đã có nhiều


2


bước tiến mới như: Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam, Kho tàng
lễ hội cổ truyề Việt Nam.
Tuy nhiên, qua sự tìm hiểu thì chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống về đề tài Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào dân tộc
thiểu số Tây Nguyên nói chung và đồng bào Bana k’riem nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Lễ hội mừng lúa mới (Sa mook)
của người đồng bào Bana k’riem ở thôn Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh
Thạnh, tỉnh Bình Định. Giúp tìm hiểu về lịch sử, diễn trình, ý nghĩa và những
vấn đề liên quan về lễ hội này.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu ở thôn Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp,
huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định
+ Thời gian: Đó là một hình thức lễ hội truyền thống từ xa xưa chạy
theo chiều dài của lịch sử để bây giờ chúng ta có thể kế thừa và phát triển lễ
hội này một cách đầy đủ để tồn tại văn hóa và đời sống đó lâu dài hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau đây:
+ Phương pháp luận và phương pháp chuyên ngành
+ Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Thu thập thông tin tư liệu từ
nhiều liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn gốc khác nhau liên quan tới đề tài
nghiên cứu, có tầm nhìn khái qt về vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê,phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này
giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện
các yếu tố và sự ảnh hưởng yếu tố tới hoạt động trong đề tài nghiên cứu, việc

phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở
trong việc thực hiện các chương trình phát triển và các định hướng, các chiến
lược để phát triển trong nước trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Tiến hành điề dã tại địa bàn. Trong quá trình điền dã, tôi sử dụng
phương pháp phỏng vấn sâu với già làng và những người dân trực tiếp tham

3


gia lễ hội,bởi vì lễ hội này diễn ra vào tháng 11 dương lịch hằng năm nên tôi
không tham gia trực tiếp quan sát tham dự được.
Ngoài ra, trong quá trình điền dã địa bàn tơi cịn sử dụng các phương
pháp kỹ thuật hỗ trợ như máy ảnh, máy ghi âm để phục vụ trong nghiên cứu
đề tài nghiên cứu của mình.
6. Đóng góp đề tài
Góp phần giới thiệu Lễ hội mừng lúa mới của người Bana k’riem ở
Vĩnh Thạnh, Bình Định. Giúp mọi người hiểu được phong tục, tập quán, tín
ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Ngun nói chung và của dân tộc
Bana ở Bình Định nói riêng.
Thơng qua đó rút ra những nhận định khoa học có tính thuyết phục cao
về vai trị của lễ hội trong đời sống tinh thần con người. Từ đó, có phương
hướng để giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa lễ hội cổ truyền của dân tộc.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của đề tài này được trình bày trong 3 chương:
+ Chương 1: Tổng quan về tình hình ở thơn Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp,
huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.
Nội dung chính của chương này tập trung trinhg bày khái quát về địa
bàn nghiên cứu. Ngồi ra, tơi cịn tập trung tìm hiểu về tơn giáo tín ngưỡng
đời sống văn hóa tinh thần của người Bana k’riem ở đây. Đây là chương

mang tính chất nền tảng cho những nội dung được trình bày trong chương 2
và 3 là những nội dung chính của đề tài.
+ Chương 2: Lễ hội mừng lúa mới của người Bana k’riem
Trong chương này tôi tập trung nghiên cứu những nội dung của phần lễ
như: Đưa ra những khái niệm về lễ hội nói chung và lễ hội mừng lúa mới nói
riêng và đưa ra những quan niệm về lễ hộ này. Sau đó là về mặt khơng gian,
thời gian và diễn trình lễ hội diễn ra.
+ Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong lễ hội mừng
lúa mới

4


Chương này làm rõ những biến đổi, những giá trị văn hóa được thể hiện
trong lễ hội mừng lúa mới. Từ kết quả nghiên cứu, đề tài đã đưa ra những giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội.

5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH CỦA NGƯỜI BANA K’RIEM
Ở THÔN HÀ RI, XÃ VĨNH HIỆP, HUYỆN VĨNH THẠNH , TỈNH
BÌNH ĐỊNH
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lí
Vĩnh Thạnh nằm phía tây bắc Bình Định, tây và tây bắc giáp thị xã An
Khê và huyện K’Bang (Gia Lai), Kon Plong (Kon Tum), An Lão, Bình Định;
đơng và đơng bắc nối liền các huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát; phía nam sát
huyện Tây Sơn và Vân Canh. Với độ cao bình quân so với mực nước biển là
700m, chỗ rộng nhất 22km, bề ngang chỗ hẹp nhất 15km. Tồn bộ huyện

Vĩnh Thạnh có 2 thung lũng lớn là thung lũng sống Kôn và thung lũng Suối
Xem. Thung lũng sống Kôn dài 42 km, được chia bỡi 2 dãy núi lớn kéo dài có
nhiều nhánh suối lớn chảy vào như suối Xem, Hà Rơn, Tà Xôm, Nước Trinh
và nhiều nhánh suối khác đổ vào và mạng lưới kênh mương nhân tạo đã tạo
nên cảnh quan đa dạng.
1.1.2 Về lịch sử hình thành
Vĩnh Thạnh vốn là những làng của người dân tộc Ba-na. Khoảng đầu
thế kỷ XVIII, người Kinh lên vùng đất này lập nghiệp dựng xóm ấp cho đến
cuối năm 1945, những làng vùng này thuộc Tổng Vĩnh Thạnh của huyện Bình
Khê (nay là huyện Tây Sơn) và Tổng Kim Sơn của huyện Hoài Ân.
Tháng 4 năm 1947 tỉnh Bình Định lập 4 huyện miền núi: Vân Canh,
Vĩnh Thạnh, Kim Sơn và An Lão. Tên huyện Vĩnh Thạnh bắt đầu từ đó.
Khoảng cuối năm 1952, theo chủ trương của Khu, huyện Vĩnh Thạnh
nhập vào tỉnh Gia-Kon, đến tháng 7-1954 trở về thuộc tỉnh Bình Định. Cho
đến năm 1954 tồn huyện Vĩnh Thạnh gồm 50 làng thuộc 11 xã: Vĩnh An,
Vĩnh Hòa, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Vĩnh Kim, Vĩnh Châu, Vĩnh Trường, Vĩnh
Bình, Vĩnh Nghĩa, Vĩnh Hưng và Vĩnh Thuận.
Cuối năm 1955 nhập 5 làng (Nước Cạn, Đập Mới, Trà Hương, Kon
Roi, Kon Sư) thuộc xã Hoành Sơn của huyện Phù Cát.
Năm 1961, nhằm động viên nhân dân bước vào cuộc chiến đấu mới
chống giặc Mỹ xâm lược và để giữ bí mật, lãnh đạo tỉnh đã lấy tên sơng núi,
6


tên người có cơng đặt tên cho xã (như núi Yang Điêng thay cho tên gọi xã
Vĩnh Hiệp, suối Lơ Pinh là xã Vĩnh Trường, Bok Toih là xã Vĩnh Bình …) và
các chữ cái kèm con số đặt tên cho một số làng vì vậy mới có các tên mật
danh: M6 (làng Lơ Ye), K11 (Kon Kriêng), N3 (Đe Klăng), O5 (Kon
Trinh)…
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do địi

hỏi của các cơng tác chống địch và sản xuất, việc tách, nhập làng ở Vĩnh
Thạnh ln ln xảy ra (cuối năm 1955 tồn huyện có 60 làng, đến năm 1971
cịn 40 làng, đến năm 1974 là 45 làng).
Năm 1976, hai huyện Vĩnh Thạnh và Bình Khê hợp thành huyện Tây
Sơn.
Năm 1982 lập lại huyện Vĩnh Thạnh gồm 6 xã trong đó có 5 xã miền
núi (Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hịa) và xã trung du
Bình Quang.
Năm 1986 tỉnh điều chỉnh địa giới 3 xã Bình Quang, Vĩnh Hiệp, Vĩnh
Hảo thành 4 xã: Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Quang.
Hiện nay tồn huyện có 46 thơn nằm trong 7 xã: Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim,
Vĩnh Hảo,Vĩnh Hòa, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Quang, Vĩnh Thịnh.
1.1.3 Địa hình
Địa thế Vĩnh Thạnh rất hiểm yếu. Hai bên bờ sông Côn là các dãy núi
chập chùng với những đỉnh khá cao như núi Bok Bang ở Vĩnh Kim (975m)
Kon Truch tại Vĩnh Sơn (1.019m).
Đây cũng là thượng nguồn của 3 con sơng lớn của tỉnh Bình Định:
Sông Kim Sơn (một nhánh của sông Lại), sông La Tinh và sông Côn.
Sông Côn dài hơn 171 km bắt nguồn từ các dãy núi cao vùng K'Bang,
An Lão (trung tâm mưa lớn nhất tỉnh Bình Định). Sơng Cơn chảy xuyên suốt
từ bắc đến nam huyện Vĩnh Thạnh, đưa nước tưới về những cánh đồng các
huyện Tây Sơn, An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước và đổ ra đầm Thị Nại. Đây là
tuyến đường sông khá thuận lợi nối vùng cao giàu lâm thổ sản của huyện
Vĩnh Thạnh với các huyện đồng bằng phía nam tỉnh.

7


Vĩnh Thạnh có tỉnh lộ số 637 dài 57 km chạy từ đơng nam đến tây bắc huyện
- đó là đường từ Vực Bà xuống Kà Sơn lượn theo dòng sơng Cơn nối với

Quốc lộ 19 tại Vườn Xồi. Đường này tạo điều kiện thuận lợi cho quần cư và
phát triển sản xuất.
1.1.4 Khí hậu
Vĩnh Thạnh là một huyện miền núi do điều kiện hồn lưu gió mùa kết
hợp với vị trí địa lý và điều kiện địa hình, đặc biệt là dãy Trường Sơn có ảnh
hưởng lớn đến các yếu tố khí hậu của huyện. Có khí hậu nhiệt đới ẩm, mưa
mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm 26 – 280C. Lượng mưa trung bình năm
1.716 mm, phân bổ theo mùa rõ rệt. Mùa mưa (từ tháng 10 đến tháng 12) tập
trung 70 – 80% lượng mưa cả năm, lại trùng với mùa bão nên thường xuyên
gây ra bão, lụt. Mùa khô kéo dài gây nên hạn hán ở nhiều nơi. Lượng bốc hơi
trung bình hàng năm là 900 – 1.100 mm, chiếm 50 – 55% tổng lượng mưa.
Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 81%.
1.1.5 Đất đai
Vĩnh Thạnh có quĩ đất tự nhiên khá rộng, đứng thứ 2 (sau Vân Canh)
trong 11 huyện, thành phố của tỉnh Bình Định (782,49/6.075,4 km2) chiếm
39% diện tích 3 huyện miền núi của tỉnh và 13% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Vĩnh Thạnh là một vùng tiềm năng kinh tế đa dạng của tỉnh.
Trước hết, chất đất Vĩnh Thạnh khá phong phú có 14 loại. Nhờ các loại
đất tốt Vĩnh Thạnh thích hợp trồng các loại cây cơng nghiệp lâu năm (cà phê,
ca cao, chè), các loại cây ăn quả và các loại mía, mì, thuốc lá, đậu phộng cho
năng suất cao và giữ vị trí quan trọng đối với cả tỉnh.
1.1.6 Nguồn nước
Chưa tới cao điểm nắng nóng mùa hè nhưng hạn hán đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của người dân ở huyện miền núi Vĩnh
Thạnh, tỉnh Bình Định.
Người dân đang phải gồng mình chống chọi với tình trạng thiếu nước
nghiêm trọng nhất từ trước đến nay.
Xã Vĩnh Hòa là một trong những địa phương bị hạn nặng nhất của
huyện Vĩnh Thạnh. Nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sản xuất, đời sống của
8



người dân ở đây là hồ chứa nước thủy lợi Hà Nhe và hệ thống giếng đào theo
cụm dân cư, nhưng hiện nay nguồn nước này đã cạn kiệt.
Hồ có dung tích thiết kế 3,7 triệu m3 nước và phục vụ nhu cầu nước
sản xuất cho trên 100 ha cây trồng của xã Vĩnh Hịa. Tuy nhiên, do thời tiết
khơ hạn, ít mưa từ năm 2015 nên hồ chỉ tích trữ được khoảng 700 nghìn m3
nước, đến nay nước tại hồ chỉ cịn khoảng 80 nghìn m3 (dưới mực nước chết).
Do nguồn nước khơng cịn nên 87 ha sản xuất lúa vụ hè thu của xã sẽ không
sản xuất được.
Tại các xã Vĩnh Thịnh, Vĩnh Thuận và Vĩnh Sơn, tình hình hạn hán
cũng rất nghiêm trọng. Hạn hán ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông
nghiệp, cụ thể, xã Vĩnh Thuận có 31 ha, Vĩnh Thịnh 30 ha và Vĩnh Sơn trên
25 ha diện tích vụ hè thu năm nay không sản xuất được do thiếu nước.
Thiếu nước cũng khiến đời sống sinh hoạt của người dân địa phương bị
đảo lộn. Tại thơn M9, xã Vĩnh Hịa, những giếng nước đào theo c ụm dân cư
đã cạn kiệt (g iếng nước “cụm dân cư” là kết quả thực hiện chủ trương trước
đây của Nhà nước khi thực hiện tái định cư cho nhân dân xã Vĩnh Hòa về sử
dụng nguồn nước ngầm bằng cách làm giếng đào theo từng cụm gia đình, mỗi
giếng phục vụ nước sinh hoạt cho từ 5- 7 hộ).
1.2 Điều kiện xã hội
1.2.1 Về kinh tế
Vĩnh Thạnh là một huyện miền núi của tỉnh Bình Định, trong những
năm qua cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống kinh tế xã hội của nhân dân
trong huyện cũng có nhiều thay đổi. Vốn là một huyện miền núi, đất đai rộng
lớn chủ yếu là đất đồi núi, trình độ sản xuất thấp, việc phát triển kinh tế Nơng
nghiệp nơng thơn cịn gặp nhiều khó khăn.
Đời sống kinh tế của người dân vẫn cịn nhiều khó khăn, tổng hộ nghèo chiếm
49,7%. Cơ cấu kinh tế vẫn còn thấp chưa đủ điều kiện để vượt nghèo đói.
Phần lớn rừng và đất rừng chiếm ưu thế hơn 5.000 ha. Người dân sống

thuần nông sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, cây công nghiệp lâu năm để thu
lợi nhuận như điều (đào), bạch đàn, cây keo và cùng một số ít trồng tiêu để
tăng thêm thu nhập… Cịn có các cây ngắn ngày như lúa, mì (sắn),

9


khoai,chuối ngồi ra nhận khốn bảo vệ rừng và một số nghề làm khai thác.
Về nông nghiệp đã tăng 3,6%-5,7%, về công nghiệp chủ yếu là khai thác gỗ,
thương nghiệp chiếm rất ít.
Chăn ni tổng số heo ni hơn 300 con do người dân biết cách áp
dụng khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi nên đạt hiệu quả rất cao trong th nhập
hàng tháng. Ngày xưa, nuôi heo bằng cách thả rong cịn bây giờ hình thành
nhiều trang trại có quy mô rộng lớn.
1.2.2 Về dân số
Những năm 1945-1990 Vĩnh Thạnh có những thay đổi về địa giới, hành
chính và các biến động về dân số. Trong những năm kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, dân số Vĩnh Thạnh dường như không tăng, khoảng từ 4.300 4.600 người. Nhưng từ năm 1980 trở đi thì liên tục tăng:
1982 là 15.300 người
1988 là 20.600 người
1991 là 23.000 người
Và đến 01-01-2003 là 26.708 người (5.464 hộ).
Vĩnh Thạnh là địa bàn hội tụ hai dân tộc Kinh và Ba-na, trong đó người
Kinh chiếm số đơng (18.962 người), người Ba-na có 7.746 người chiếm 29%
dân số toàn huyện.
1.2.3 Về y tế và giáo dục,quốc phịng an ninh
Tại huyện Vĩnh Thạnh hình thành các trung tâm y tế chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân, trẻ em từ 1-6 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm. Là nơi tập trung đi
kiểm tra sức khỏe của tất cả của bà mẹ và toàn thể nhân dân trong huyện, nơi
tập trung vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình, bên cạnh cơng tác thư

viện bảo vệ chăm sóc trẻ em, cơng ước quyền dành cho trẻ em, phịng chống
suy dinh dưỡng cho trẻ em được quan tâm và phấn đấu thực hiện đạt hiệu quả,
thực hiện tốt việc khám và điều trị. Công tác tuyên truyền quốc gia về phòng
chống bệnh sốt rét, phòng chống sốt rét và bảo vệ môi trường…
Giáo dục: Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng,cơ sở vật chất tại làng
phục vụ cho việc học tập của từng cá nhân học sinh,tạo điều kiện giúp đỡ con
em có gia đình chính sách,diện khó khăn, neo đơn cho con em đồng bào dân
tộc có cơ hội để học tập tốt .

10


Tồn huyện có nhiều cơ sở trường học hình thành phục vụ trong học
tập của từng thơn, xã, huyện.
Quốc phịng an ninh: An ninh trật tự được củng cố đảm bảo an toàn cho
người dân trong huyện, bảo vệ đường phố ngăn chặn các tệ nạn xã hội, giữ
gìn trật tự an tồn giao thơng tạo thành cơ sở lành mạnh. Phục vụ lợi ích cho
dân đáp ứng đúng yêu cầu của dân đề ra.
1.3 Tổng quan về người Bana k’riem ở thôn Hà Ri, xã Vĩnh Hiệp, huyện
Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định
1.3.1 Nguồn gốc
Người Bana là một dân tộc thiểu số thuộc ngữ hệ Môn – Khơme cư trú
tập trung đơng nhất ở 6 huyện miền núi Bình Định như: An Lão,Vân
Canh,Phù Cát,Hoài Ân,Tây Sơn,Vĩnh Thạnh.
Người Bana Kriêm chiếm 20% dân số tại huyện Vĩnh Thạnh và là một
trong 7 dòng Bana sinh sống tại các tỉnh Tây Nguyên, Phú Yên và Binh Định.
Với người Bana Kriêm, họ tự nhận mình là người Bana vùng thấp để phân
biệt với người Bana sống tại các tỉnh Tây Nguyên. Nhưng phong tục tập quán
của họ giữa hai vùng không khác nhau là mấy.
Có một câu chuyện kể về nguồn gốc của người Bana ở Vĩnh thạnh như

sau: “Vào một ngày xa xưa, trên đất Việt, nhà vua bắt người Bana vào rừng
tìm một loại gỗ q có tên là Sui cho vua làm cột cung điện. người Bana đi
vào rừng sâu tìm mãi, tìm mãi mà khơng thấy cây gỗ q đó. Họ trở về tay
khơng. Nhà vua tức giận nấu dầu đổ lên đầu họ. Người Bana sợ hãi chạy tan
tác vào rừng. Trên đường chạy họ mang theo chiếc ghè đựng rượu rất quý. Bị
đói khát và mệt nhọc hành hạ, họ phải đổi chiếc ghè cho bà chủ đất có tên là
Tu lét để lấy đất sinh sống. Vùng đất đó chính là vùng đất miền tây Bình Định
ngày nay. Trong quá trình di cư, xáo trộn, sống xen kẽ, cận cư, tiếp xúc, đan
xen những yếu tố văn hóa khác nhau nhưng Người Bana ở Bình Định (nhất là
người Bana ở Vĩnh Thạnh) hiện nay vẫn giữ được nhiều nét văn hóa của cồng
đồng Ba na nói chung và nét văn hóa đặc sắc riêng tiêu biểu là trang phục
truyền thống.

11


Người Ba Na ở Vĩnh Thạnh sống tập trung gọi là Ba Na Kriêm, Người
Ba Na thường cư trú ở vùng rừng núi cao, độ che phủ của rừng còn nhiều,
thảm thực vật phong phú, đa dạng. Đơn vị xã hội cơ bản của người Ba Na là
plây (làng), do một bộ máy tự quản gồm chủ làng và một số người giúp việc
có nhiệm vụ quản lý, điều hành mọi sinh hoạt của cộng đồng dân cư dựa vào
luật tục vốn có từ ngàn xưa. Người Ba Na có tính cộng đồng cao trong cư trú,
trong sản xuất, trong quan hệ xã hội (đoàn kết, thương yêu đùm bọc, chia sẻ
quyền lợi) nên chưa hề có sự phân hố giai cấp mà chỉ mới có phân hố giàu
nghèo. Xã hội người Ba Na là một xã hội công bằng, thấm đượm tính nhân
văn.
1.3.2 Loại hình cư trú
Các đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và huyện Vĩnh
Thạnh nói riêng loại hình cư trú tập trung trong các buôn làng, hoạt động
nương rẫy là chủ yếu, phần lớn canh tác trồng lúa nước là quan trọng nhất. Về

nhà ở:
Nhà rông:
Nhà ở của người Ba Na trên đất Bình Định là nhà sàn với hai quy mơ
nhỏ và lớn tuỳ thuộc vào điều kiện của từng hộ gia đình. Nhà rơng là ngơi nhà
cộng đồng thể hiện nét riêng tính cách người Ba Na; là nơi hội họp, tiếp
khách lạ của làng; nơi làm việc của Hội đồng Già làng; nơi thanh niên chưa
vợ và trai góa vợ đến ngủ đêm. Đó cịn là nơi tổ chức các lễ hội cộng đồng,
nơi đêm đêm bên ánh lửa bập bùng, các già làng kể chuyện về nguồn gốc,
truyền thống lịch sử, văn hố dân tộc, về các sự tích, nhân vật anh hùng cho
con cháu nghe. Người Ba Na luôn tự hào, kiêu hãnh về ngôi nhà rông của
làng mình, dân tộc mình.
Nhà sàn:
Làng Hà Ri hiện giờ có hai nhà để phục vụ nhu cầu cuộc sống người
địa phương. Nhà sàn làm bằng chất liệu tự nhiên là để phục vụ người dân nơi
đây trong việc tụ họp ngồi chơi khi trong làng có tổ chức một sự kiện nào đó,
cịn nhà xây là để giao lưu văn hóa giữa các làng với nhau. Khơng chỉ nhà sàn
để cho buôn làng sinh hoạt mà trong từng cá nhân gia đình là nơi hội tụ giữa
các dịng họ trong gia đình, họ hàng với nhau gắn chặt thêm tình cảm. Trong
nhà sàn đó phải có một bên để bếp lửa giành cho sinh hoạt trong gia đình thể
12


hiện tình cảm gần gũi giữa ơng bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình. Dưới
nhà sàn để ni gia súc, chứa củi và dụng cụ lặt vặt dùng trong gia đình.
Hiện nay, chưa có cách nào khác để tìm ra cội nguồn của văn hố lịch
sử tộc người Bana, ngoài việc rút ra và đúc kết những hiểu biết mới về đời
sống tâm linh của họ. Từ đó, đưa ra những kết luận về nguồn gốc hình thành
của dân tộc này. Người Bana ở Việt Nam không theo một tơn giáo chính
thống nào trên thế giới mà theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần, một trong
những tục có nghi thức xa xưa nhất của người Bana là thờ thần nước (Yang

Đak), thần lúa (Yang Sỡri) và thần núi (Yang Kơng). Nước có biểu tượng
Thần chủ là con Rồng (Yang Kơnang Groi) mang tên chủ nước, và lúa có
biểu tượng thần chủ Yang Đai, là vị thần coi giữ lúa gạo và bếp núc. Theo các
nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của người Bana đã sinh con lập nghiệp tại một
vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ trước
cơng nguyên đã có một phần người Bana cư trú chủ yếu là ở vùng rừng núi
Trường Sơn ngày nay.
1.3.3 Trang phục truyền thống
Trang phục truyền thống của các tộc người ở Tây Nguyên nói chung và
đồng bào Bana nói riêng giống như một bức tranh với nhiều họa tiết vàCũng
như các dân tộc anh em chung sống trên dãy Trường Sơn, người Bana Kriêm
(huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định) trong quá trình tồn tại và phát triển đã
kiến tạo cho mình một nét bản sắc văn hóa riêng biệt… Hịa cùng với những
quy luật lịch sử phát triển của kinh tế, xã hội và văn hóa; trang phục của họ
cũng có sự phát triển theo. Từ khâu chế biến nguyên liệu, phương thức làm ra
vải mặc, đến màu sắc, hoa văn… Song, cái độc đáo ở đây dù cho có trải dài
theo năm tháng nhưng trang phục của người Bana Kriêm vẫn giữ gìn và bảo
lưu được những sắc thái riêng của dân tộc mình. hoa văn độc đáo. Đăc biệt
trang phục Bana rất đẹp vì có nhiều hoa văn làm nổi bật đường nét kín đáo
của cơ thể của người phụ nữ.
Trang phục của người Bana Kriêm Hà Ri, Vĩnh Thạnh (Bình Định) rất
giản dị với những đường nét khỏe khoắn nhưng không kém phần duyên
dáng…

13


Cũng như các dân tộc anh em chung sống trên dãy Trường Sơn, người
Bana Kriêm (huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định) trong quá trình tồn tại và
phát triển đã kiến tạo cho mình một nét bản sắc văn hóa riêng biệt… Hòa

cùng với những quy luật lịch sử phát triển của kinh tế, xã hội và văn hóa;
trang phục của họ cũng có sự phát triển theo. Từ khâu chế biến nguyên liệu,
phương thức làm ra vải mặc, đến màu sắc, hoa văn… Song, cái độc đáo ở đây
dù cho có trải dài theo năm tháng nhưng trang phục của người Bana Kriêm
vẫn giữ gìn và bảo lưu được những sắc thái riêng của dân tộc mình.
Từ xa xưa đồng bào Bana Kriêm đã biết trồng bông, kéo sợi, dệt vải.
Công cụ dệt vải đều thô sơ như chiếc cán bông, bật bông, sa quay sợi, sợi vải
trước khi dệt được đem nhuộm, màu sắc để nhuộm sợi đều tìm kiếm từ rễ lá,
vỏ cây tự nhiên, nhưng màu sắc rất đẹp và bền. Trên những bộ đồ truyền
thống của người Bana có ba màu chính: đen, đỏ và trắng. Cịn về hoa văn thì
khá phong phú, tùy theo trình độ tay nghề điêu luyện, mà nghệ nhân dệt nên
những đường nét hoa văn độc đáo.
Ở Bana Kriêm, nam giới thường đóng khố, nữ giới mặc váy, ở trần
hoặc có yếm, đó là lúc trời nóng bức, khi lao động trong nhà; chứ vào những
lúc cần trịnh trọng, đón tiếp khách, hoặc hội hè, vui chơi thì họ mặc áo. Áo
nam và áo nữ có sự phân biệt khá rõ, nhưng chúng đều có cùng một kiểu cắt,
đó là loại áo chui đầu, khơng có ve cổ, cách cắt may loại áo này cũng khá đơn
giản: miếng vải hình chữ nhật được gấp đôi lại, khoét cổ vuông ở đường gấp,
rìa vải hai bên sườn được khâu lại, nếu là áo dài tay thì người ta nối phần vải
làm tay áo.
Váy trang phục dành cho phụ nữ hoàn toàn chỉ là một mảnh vải màu
đen hoặc màu chàm, có dệt trang trí hoa văn, khi mặc chỉ quấn và giắt nối cho
chặt.
Ngồi ra, nam giới khi khơng mặc áo có thể thay thế cho tấm xiêm
choàng chéo từ nách bên này sang vai bên kia. Đối với những chiến binh khi
mang trên mình vũ khí, người ta có thể gấp tấm chồng lại rồi buộc chéo hình
chữ thập trước ngực.
Có dịp thăm buôn làng của người Bana Kriêm Hà Ri,xã Vĩnh Hiệp
tham dự các ngày hội. Điều chắc chắn khi ra về các bạn không thể nào quên
14



những cô gái, chàng trai xinh đẹp trong bộ trang phục truyền thống duyên
dáng với bao sắc màu của núi rừng uyển chuyển trong điệu xoang, tiếng cồng,
hòa cùng với khách vui say thâu đêm suốt sáng bên ché rượu cần, bập bùng
dưới ánh lửa của nhà rông buôn làng.
Trang phục ngày lễ gồm: Váy và áo của người phụ nữ cịn đàn ơng mặc
khố là chủ yếu. Có sự tách biệt nhau khơng hịa thành làm một. Cách trang trí
hoa văn giữ váy và áo có sự giống nhau làm thành một bộ giữa màu sắc có sự
hịa quyện lẫn nhau. Có thể nói đây là một cơng trình dệt,thêu kết hợp với
nghệ thuật,khi có lễ hội đặc biệt thì họ đều mặc lễ phục này.
1.3.4 Ẩm thực
Các món ăn đồng bào Bana chủ yếu được chế biến từ những con vật mà
họ chăn nuôi hay săn bắn như gà,lợn rừng,chim...cùng với các loại nông sản
mà họ trồng hái lượm giống như bao tộc người khác trên mảnh đất Việt Nam.
Những hương sắc của núi rừng có những chế biến riêng và cái khơng khí cộng
đồng cũng như đặc trưng văn hóa độc đáo đã làm nên một nghệ thuật rất khác
lạ, bí ẩn.
Hầu hết các món ăn của đồng bào Bana đều được chế biến tương đối
đơn giản, khơng sử dụng nhiều gia vị. Chính vì thế, các món ăn dễ giữ được
hương vị, độ ngọt của nguyên liệu, thực phẩm chế biến. Đồng bào cũng ưu
tiên sử dụng một số loại gia vị được làm từ các loại lá cây rừng. Cũng như
người Kinh, muối là gia vị không thể thiếu trong căn bếp của người Bana
K’riêm. Trong văn hóa ẩm thực truyền thống của người Bana K’riêm Vĩnh
Hiệp các món nướng, luộc và canh giữ vị trí then chốt.
Món nướng thường được người Bana K’riêm thực hiện theo nhiều cách
khác nhau như: xuyên qua thanh tre nhọn để nướng, nướng trong ống tre,
giang, lồ ơ; gói trong các loại lá rồi nướng… Về đồ uống thì có lẽ rượu cần là
món khơng thể thiếu trong tất cả các sự kiện quan trọng của mỗi gia đình
cũng như cộng đồng. Ghè rượu cần luôn hiện diện trong các lễ hội làng, đám

cưới, lễ mừng lúa mới… và cả khi có khách quý tới thăm nhà.
Tinh hoa ẩm thực của người Bana K’riêm được thể hiện rõ nhất trong
lễ cưới hỏi. Trong lễ cưới người ta thường chuẩn bị khá nhiều món ăn với số

15


lượng lớn, nhưng chủ đạo nhất vẫn là các món ăn chế biến từ thịt trâu và thịt
heo. Thịt gà thường chỉ góp mặt trong lễ cúng trong đám cưới. Cách làm thịt
gà của đồng bào Bana K’riêm khác với người Kinh. Nếu như người Kinh
thường cắt tiết gà - trụng nước sơi - vặt lơng, thì người Bana K’ riêm lại cắt
tiết xong rồi đem nướng trên bếp lửa, nướng ngun cả lơng (tương tự như
thui), sau đó đem ra vặt số lơng cịn sót lại.
Thịt heo nướng và thịt heo nấu canh xơ mít xanh là hai món quen thuộc
trong đám cưới của người Bana. Cách chế biến và làm thịt heo cũng có những
nét khác biệt với người Kinh. Heo sau khi chọc tiết xong được đưa lên bếp
thui, sau đó treo lên cây cao, rồi vừa thui tiếp vừa cạo lông mà không trần qua
nước sôi như người Kinh vẫn làm. Tương tự, cách thức mổ heo, pha thịt của
đồng bào cũng khác - vì khn khổ trang báo có hạn, nếu có dịp người viết sẽ
quay lại sau. Ngồi món thịt heo nướng, đồng bào cịn chế biến món thịt heo
luộc, một số món kèm với rau luộc, măng xào… để ăn kèm cho đỡ ngán.
Đồng bào dân tộc người Bana k’riêm ở làng Hà Ri nói riêng và huyện
Vĩnh Thạnh nói chung cũng có những phong tục tập quán truyền thống đặc
sắc, tiêu biểu như:
Tục cưới xin
Để đi đến Lễ cưới, trước hết là làm Lễ dạm hỏi. Lễ này thường được
tiến hành trước ngày cưới vài ngày. Khi gia đình hai bên ưng thuận, gia đình
nhà trai nhờ ơng mai cùng với lễ vật: Trầu, cau, vịng cườm trao cho cơ dâu
làm lễ đính ước. Trong buổi cúng ơng mai trao cho cơ dâu tương lai một chiếc
vịng tượng trưng cho lời đính ước của nhà trai. Sau khi thống nhất, hai bên

gia đình tiến hành chuẩn bị cho lễ cưới chính thức sẽ diễn ra vào một ngày
gần nhất đã được ấn định. Một điều khá thú vị trong quan niệm của người
Bana K’riêm Vĩnh Thạnh đó là từ sau lễ hỏi cô dâu và chú rể kiêng không
được gặp nhau, chỉ được gặp nhau khi đến lễ cúng nhận cô dâu chính thức.
Tiếp đến là Lễ ơng mai được tiến hành vào sáng ngày đầu tiên diễn ra
đám cưới. Ông mai và thầy cúng đến nhà trai rất sớm. Họ bắt tay vào chuẩn bị
một số đồ dùng và vật phẩm phục vụ cho các nghi thức chuẩn bị diễn ra trong
đám cưới. Khi mọi việc chuẩn bị cho lễ cúng hoàn tất, người cha của chú rể sẽ
đeo vào cổ lần lượt 3 chiếc vòng làm bằng sáp ong cho thầy cúng và hai ông
16


mai. Theo quan niệm của người Bana thì sáp ong tượng trưng cho ơng trời
(bởi vì sáp ong chính là tinh hoa của trời đất, của mn lồi hoa kết tinh
thành). Sau lễ cúng ông mai là đến lễ cúng báo tin những người đã khuất có
liên quan đến dịng họ. Điều đặc biệt là trong các nghi thức cúng này đều chỉ
có cha chú rể tham gia, người mẹ không được tham gia, phải chăng ở đây
phản ánh chế độ phụ hệ đã chiếm lĩnh rõ nét trong ý thức hệ của cộng đồng
người Ba na K’riêm Hà Ri Vĩnh Thạnh. Sau lễ cúng này thì các nghi thức
chính của một đám cưới mới thật sự bắt đầu, đó chính là lễ cưới.
Lễ cưới gồm rất nhiều lễ nhỏ khác đi kèm, như: Lễ cúng rước và thử
cồng chiêng; Lễ giới thiệu dòng họ nhà trai về đám cưới, Lễ mừng những
người giúp đám cưới, Lễ rượu ghè mừng các dòng họ trong làng, Lễ mời cơm
dân làng. Sau khi các lễ trên được tiến hành xong thì sẽ cử hành lễ rước dâu.
Lễ rước dâu là một nghi thức khá quan trọng. Đội hình múa là những
cơ gái bận các bộ váy truyền thống với nhiều sắc màu rực rỡ, và đeo đủ thứ
trang sức. Đội hình cồng chiêng của nam thì chọn cho mình những chiếc khố,
chiếc áo đẹp nhất. Những cơ gái trong đội hình múa vừa đi vừa múa uyển
chuyển theo nhịp cồng chiêng do đội hình nam đánh. Tất cả tạo nên một bầu
khơng khí rất vui nhộn và đẹp mắt. Ngồi đội hình múa và đội hình cồng

chiêng thì khơng thể khơng kể đến hai nhân vật đi cùng, đó là Pơ rak và Pơ
man. Pơ rak là nhân vật nam, là hóa thân của một già làng; Pơ man là nhân
vật nữ, là hóa thân của một con ma xấu xí.
Khi đồn rước đi ngang qua cổng nhà cơ dâu thì cơ dâu và đồn người
nhà gái nhập vào phía sau đồn rước (khơng có chú rể đi cùng đồn rước
giống như ở dân tộc Kinh). Lúc này cô dâu phải đeo sẵn một gùi bó củi sau
lưng để đem về nhà chồng. Điều này thể hiện sự siêng năng, làm nương rẫy
giỏi của cơ dâu. Bó củi cũng chính là lễ vật ra mắt nhà trai của cô dâu. Sau
nghi thức này là một loạt các nghi thức khác được diễn ra tại nhà trai như: Lễ
cô dâu bước qua cửa (sợi chỉ); Lễ mời trầu nhà gái; Lễ đi múc nước; Lễ giã
gạo; Lễ uống rượu cần cô dâu; Lễ cúng rượu mời nhà gái ăn cơm, Lễ cúng
dãy ghè rượu để mời bà con dòng họ uống. Tiếp đến là Lễ cúng cơ dâu chú rể
chính thức thành vợ chồng.

17


Lễ cúng cơ dâu chú rể chính thức thành vợ chồng (được tổ chức vào
buổi tối): Đây là nghi lễ quan trọng nhất của đám cưới. Đến nghi lễ này thì
chú rể mới được xuất hiện cùng cơ dâu. Cũng tại nghi lễ này thì chiếc đi
heo được đeo vào cổ trước ngực thầy cúng, bên cạnh vòng sáp ong. Đi heo
tượng trưng cho chó sói (quyền uy) nhưng cũng là để gây cười cho mọi người
để đám cưới được vui hơn. Thầy cúng đọc bài cúng báo tin cho các Giàng
dịng họ chứng kiến cơ dâu chú rể chính thức thành vợ chồng. Ngay sáng sớm
hôm sau sẽ tiến hành các nghi thức: Lễ cô dâu chú rể đi xúc cá, Lễ đi lao động
(làm rẫy). Đây được xem là các hoạt động lao động đầu tiên của cô dâu khi về
nhà chồng. Tiếp đến là các nghi thức Lễ đạp tro, Lễ lại mặt nhà trai và nhà
gái.
Lễ cưới nhà gái: Thường được tiến hành song song với lễ cưới ở nhà
trai. Các món ăn chuẩn bị cho đám cưới, các nghi thức cúng tương tự như nhà

trai.
Việc nghiên cứu phong tục đám cưới truyền thống của người Bana nói
chung và Bana K’riêm vùng Hà Ri, Vĩnh Thạnh nói riêng giúp chúng ta có
một cái nhìn tổng quan và sâu sắc về một giá trị truyền thống của cộng đồng
người này. Qua đó, góp phần bảo lưu và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở tỉnh ta.
Trong đám cưới của người Bana K’riêm ở làng Hà Ri, vui nhất và được
chờ đợi nhiều nhất là Lễ mời cơm dân làng. Tất cả đồ ăn sẽ được bày ra để
mời tất cả bà con dân làng cùng ăn. Không cần ai bảo ai, người thì xới cơm,
người thì tách các xâu thịt nướng, người thì múc canh xơ mít… mỗi người
một tay; rồi từng nhóm ngồi lại, cùng nhau ăn chung, vui tiệc đám cưới. Từ
những cụ già cho đến những em bé đều tham gia một cách rất nhiệt tình.
Trước khi đến dự lễ mời cơm, nhà nào trong làng cũng gùi đến một ghè rượu
cần để chung vui với đám cưới cơ dâu chú rể, do đó số lượng ghè rượu bà con
đem đến rất nhiều, có khi cả hơn trăm ghè. Rượu này sẽ được dùng để mời
khách tham dự lễ vui đám cưới vào buổi tối. Nhà nào cũng muốn mời khách
uống ghè rượu của nhà mình càng nhiều thì càng mang lại may mắn.

18


1.3.5 Lễ hội truyền thống
Các đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và đồng bào
dân tộc thiều số Vĩnh Thạnh nói riêng đặc biệt đồng bào Bana k’riem Hà Ri,
Vĩnh Hiệp còn lưu giữ được một hệ thống lễ hội rất độc đáo, gắn liền với đời
sống văn hóa, sản xuất và tâm linh của họ. Có một số lễ hội tiêu biểu như:
1.3.5.1 Lễ bỏ mả
Lễ hội bỏ mả (bỏ nhà mồ) thường diễn ra từ 3 đến 7 ngày, nhưng khơng
khí tưng bừng, chuẩn bị cho ngày lễ đã có trước đó cả hàng tháng trời, xưa kia
đến vài ba tháng. Trai làng vào rừng đốn gỗ tốt, chặt trúc (trảy), cắt tranh đem

về khu nhà mồ. Khi mà việc chuẩn bị đã được tươm tất, già làng làm lễ cúng
và chọn ngày, chọn nghệ nhân đẽo tượng, làm nhà mồ, trang trí hoa văn nhà
mồ. Ai có rượu đem rượu, ai có heo góp heo, mọi người đều chung sức chung
lịng để mùa lễ hội của làng được trọn vẹn.
Ngày khai lễ, mở đầu của lễ bỏ mả là ngày dỡ nhà mồ cũ để dựng nhà
mồ mới. Giai đoạn này thường diễn ra gọn trong một đến hai ngày. Khi đã
hoàn tất, nhà mới đã dựng và trang trí xong, tượng nhà mồ đã đặt vào vị trí thì
già làng làm lễ với ý niệm thông báo cho Atâu (linh hồn người chết) đã hồn
tất việc dựng nhà mồ, sau đó mọi người ăn uống, nhảy múa, đánh cồng
chiêng.
Ngày tiếp theo là giai đoạn chính của lễ, tức là làm lễ tiễn đưa Atâu về
thế giới bên kia, thế giới của ông bà tổ tiên. Tờ mờ sáng, mọi người đã tề tựu
ở nhà rơng để thịt trâu, bị… Già làng cúng Giàng, thần linh, sau đó cùng dân
làng đem thịt rượu tới khu nhà mồ, tế lễ vong hồn người quá cố về với tiên tổ.
Già làng hành lễ xong, thân nhân người quá cố vào nhà mồ khóc lần cuối và
chia biệt. Trong khơng gian nghi lễ đó, nhiều hoạt động khác cùng nối tiếp
diễn ra như hòa tấu cồng chiêng, cùng xoang, chung vui ca hát, vít cần rượu.
Tiếp đến ngày sau nữa, nghi thức lễ lại được diễn ra ở các bếp nhà sàn
của các chủ gia, hay còn gọi là lễ rửa nồi. Thực chất là ngày gia chủ thết đãi
bà con họ hàng, bạn bè trong và ngoài làng. Những người thân, bè bạn của
thân nhân người đã chết cùng đem họ ra suối tắm gội, với ý niệm rửa hết mọi
ràng buộc đối với kẻ quá cố. Sau đó dân làng cùng nhau ăn uống nhảy múa

19


theo tiết tấu cồng chiêng lúc đằm thắm, lúc rộn ràng thúc giục. Nhiều mối
quan hệ tình cảm được thiết lập, bày tỏ để rồi đồng cảm và hiểu nhau hơn, đặc
biệt là nam nữ thanh niên một dịp để cùng nhau hẹn ước. Khi điệu nhạc cồng
chiêng hòa vang thì những cơ gái, chàng trai liên kết thành những vịng xoang

uyển chuyển. Giờ đây thì khơng cịn âm hưởng của nghi thức tang lễ mà tự do
cùng chung vui, cho phép những thành viên có khả năng nổi trội hơn, biểu
diễn tài nghệ trước đám đông. Âm vang cồng chiêng lúc trầm lúc bỗng, vòng
xoang lúc ẩn lúc hiện, lũ làng cùng vui say thâu đêm suốt sáng…
Lễ hội bỏ mả là dịp tiễn đưa linh hồn người quá cố, buồn vui hòa trộn;
song niềm vui được bộc lộ mạnh hơn vì người sống đã làm trịn trách nhiệm
của mình đối với người thân qua đời và khơng lo hồn ma (Atâu) quấy nhiễu,
làm hại cuộc sống con người. Dịp lễ là thời điểm thông báo với cộng đồng về
sự giải phóng người "góa" trước tục lệ; để các nghệ nhân sáng tạo nghệ thuật
đặc sắc, những tượng nhà mồ, nghệ thuật cồng chiêng, múa hát… Tục lệ bỏ
mả là lễ hội quan trọng trong đời sống xã hội của người Bana. Song lễ hội này
đã bị mai một và ở nhiều địa phương khơng cịn tồn tại; cịn chăng ở những
làng rẻo cao như Kon Truch xã Vĩnh Sơn huyện Vĩnh Thạnh, Kon Trú xã Bok
Tới huyện Hoài Ân…
Trong những năm gần đây, lễ hội bỏ mả đã được khôi phục lại ở một số
bản làng Bana cùng với việc triển khai các ngày hội văn hóa của các dân tộc
miền núi do chính quyền các cấp tổ chức. Việc các gia đình dù giàu hay
nghèo, dù lễ vật là trâu bò hay con gà, dù làm nhà mồ to đẹp, nhiều tượng nhà
mồ hay chỉ là nhà tranh đơn sơ nhưng họ sẽ thấy thanh thản, tâm hồn được
cởi mở vì đã làm trịn bổn phận đối với người quá cố, đối với tổ tiên.
1.3.5.2 Lễ cúng nước
Nhà máy thủy điện Định Bình nằm trên con sơng Côn là biểu tượng
cho cuộc sống mới, hiện đại hơn của họ. Tuy nhiên ông không giấu nổi sự lo
lắng khi những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình đang dần dần bị
mất đi.
Ngơi nhà rơng – biểu tượng của văn hóa cộng đồng, nơi linh thiếng
nhất của người Bana Kriêm cũng đang bị mái tơn hóa. Bây giờ hiếm khi lắm
mới thấy được một ngôi nhà rông nguyên bản như xưa.
20



Lễ vật cúng cũng rất đơn giản. Hai ché rượu ngon, 3 con gà, trầu cau và
bánh tét… Nhưng mọi thứ đều được lựa chọn và chuẩn bị kỹ từ trước. Bởi
một năm, người Bana Kriêm chỉ tổ chức cúng một lần vào tháng 4 âm lịch. Lễ
cúng sẽ được diễn ra tại đầu nguồn, nơi cung cấp nước cho cả làng. Mục đích
là để cầu mong thần nước, thần núi … đưa nước sạch mãi mãi đến cho dân
làng.
Người Bana Kriêm có thói quen đi rừng đi rẫy từ sáng đến tối mới về.
Bởi vậy, tất cả thông báo của làng, của xã đều được ghi trên những bản thông
báo đơn giản như thế này. Cách làm này đã trở thành nếp sinh hoạt thú vị của
người dân làng Hà Ri.
Những người già ở đây cho biết, trước đây làng không tổ chức lễ cúng
nước ở đây. Bởi người trong làng không dùng nguồn nước của con suối Cắc
này. Chỉ khi đến năm 2004, nhà nước đầu tư xây dựng cho xã một nhà máy
nước, thì đây mới trở thành địa điểm tổ chức lễ cúng nước của làng.
Theo quan niệm của người Banna, cái gì cũng có nguồn có cội…. Mình
phải nhớ và biết ơn…
Những người già đã bắt đầu các công việc để tổ chức cúng. Mỗi người
được phân công một việc khác nhau. Cái quan trong nhất là làm giá cúng.
Tiếng Bana Kriêm gọi là pơ mng. Tùy theo tính chất cúng con ma hay các
vị thần, kích thước và sự cầu kỳ cũng khác nhau. Thân giá cúng được làm từ
cây mang mang. Đây là một loại cây quý chỉ có trong rừng. Giá đỡ các loại đồ
cúng được đan bằng tre. Chúng tôi đi nhiều nơi nhưng chưa thấy ở đâu có bàn
cúng như vậy.
Ngày xưa tập quán của người Bana Kriêm làm gì cũng nướng sống.
Cho đến tận bây giờ, khi tổ chức lễ cúng, người già vẫn dùng cách như vậy.
Trong khi chờ các lễ vật cúng chuẩn bị xong, những người già thanh
thủ thư giãn. Dường như vào phút giây này trong lịng họ nhẹ nhõm nhất.
Hình như ai cũng muốn hưởng những phút giây thanh bình này...
Khi mọi thứ đã chuẩn bị xong, lễ cúng nước mới bắt đầu. Tham gia lêc

cúng gồm thấy cúng, già làng và những bậc cao niên…

21


Đầu tiên, phải cúng con ma làng. Lễ vật gồm có nến sáp ong, rượu, tim gan
cật và lá trầu đã qt vơi. Mọi người đứng thành vịng trịn xung quanh và
cùng nhau đọc bài cúng.
“Hôm nay là ngày cúng nguồn nước trong làng. Làng có rượu, tim gan
cật… Làng mời con ma uống con ma ăn. Hãy ăn bằng miệng bằng cằm bằng
chân… Hãy để nguồn nước cung cấp cho dân làng cho nước quanh năm. Hãy
để nước sạch đừng để bẩn đừng để khô cạn. Nếu dân làng sử dụng khơng tốt
thì con ma đừng trách đừng la ó. Dân làng luôn luôn biết ơn và hàng năm
tiếp tục cúng. Có điều kiện hơn dân làng sẽ cúng lớn hơn.”
Thầy cúng sẽ đọc bài khấn mời con ma lên uống rượu.
“Chúng tôi đã cúng rượu. Con ma đừng trách chúng tôi. Hãy để nguồn nước
mãi mãi cho chúng tôi. Năm sau mọi người sẽ cúng nữa”.
Những người già tập trung thành vòng tròn xung quanh ché rượu và
đọc bài cúng con ma một lần nữa….
Như thế lễ cúng con ma mới kết thúc. Lúc này mọi người sẽ thưởng
thức hương vị của ché rượu cần hảo hạng. Những câu chuyện vui xung quanh
chuyện nguồn nước được đưa ra bàn luận. Thầy cúng sẽ chia lộc cúng con
ma cho mọi người. Đó chính là lễ vật vừa mới cúng xong gồm thịt gà, bánh
tét… Mọi người phải ăn hết phần của mình. Như vậy mới biểu hiện tấm lịng
chân thành của mình với con ma….
Trong lễ cúng nước, quan trọng nhất là cúng thần núi Kông A Lanh,
tức là thần ni đưỡng nguồn nước. Chỉ có 5 người gồm thầy cúng, già làng
và 3 người uy tín khác mới được tham gia. Mọi người sẽ đọc bài khấn mời vị
thần cai quản nguồn nước về dự lễ cúng. Thầy cúng vừa đọc bài khấn vừa hắt
rượu vào gía cúng.

“Hơm nay làng đem rượu gà nếu thần núi giữ cho nước không cạn không
khô. Cây cối xung quanh không lấm bẩn, lá cây khơng làm bẩn dịng nước.
hàng năm dân làng sẽ cúng lơn gà cho thần”.
Lúc này, một cây nến làm bằng sáp ong mới đuợc thắp sáng. Nó biểu
tượng kết nối giữa âm và dương, dãn đường cho linh hồn của vị thần về
chứng kiến buổi cúng hôm nay.
22


×