Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SO SÁNH HỆ THỐNG KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP CỦA CHĂMPA VỚI HỆ THỐNG KIẾN TRÚC ĂNGCO CỦA CAMPUCHIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 29 trang )

Mơn: VĂN HĨA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH ĐƠNG
NAM Á
Đề tài: SO SÁNH HỆ THỐNG
KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP
CỦA CHĂMPA VỚI HỆ
THỐNG KIẾN TRÚC
ĂNGCO CỦA CAMPUCHIA


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN
CỨU .......................................................................................................................... 2
1.1. Vương quốc Chămpa ...................................................................................... 2
1.1.1. Vị trí địa lí ................................................................................................. 2
1.1.2. Lịch sử hình thành, phát tiển và suy tàn ................................................... 3
1.1.3. Hệ thống kiến trúc đền tháp Chămpa ....................................................... 4
1.2. Vương quốc Campuchia ................................................................................. 7
1.2.1. Vị trí địa lí ................................................................................................. 7
1.2.2. Lịch sử hình thành, phát tiển và suy tàn ................................................... 7
1.2.3. Hệ thống kiến trúc đền Ăngco Campuchia ............................................... 9
CHƯƠNG 2. SO SÁNH HỆ THỐNG KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP CỦA
CHĂMPA VỚI HỆ THỐNG KIẾN TRÚC ĂNGCO CỦA CAMPUCHIA .... 11
2.1. Giống nhau .................................................................................................... 11
2.2 Khác nhau....................................................................................................... 12
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VỀ KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP
CHAMPA VÀ ĂNG-CO CỦA CAMPUCHIA................................................... 16
3.1. Nghệ thuật kiến trúc đền tháp Chămpa ......................................................... 16
3.2. Nghệ thuật kiến trúc Ăngco của Campuchia ................................................ 16
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 20


TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 23
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH ......................................................................................... 24


LỜI MỞ ĐẦU
Việc tìm hiểu so sánh về mặt kiến trúc của hai hệ thống kiến trúc di tích
nào đó ở trong quá khứ hay hiện tại (trong một quốc gia, trong cùng khu vực
hay quốc gia với khu vực…) là một việc làm hết sức rất quan trọng, trước hết
việc làm ấy khơng những góp phần vào việc bảo tồn hay quảng bá di tích;
giới thiệu bạn bè hay làm du lịch… mà việc làm đó cịn mang một ý nghĩa về
mặt khoa học. Ý nghĩa về mặt khoa học ấy giúp chúng ta hé lộ nhiều bản chất
của vấn đề cần thảo luận - Từ vấn đề về nguyên vật liệu, kỹ thuật xây dựng
cũng như phong cách nghệ thuật, đặc biệt là vấn đề trong việc xác định niên
đại và chủ nhân của di tích, trong đó có cả vấn đề về tín ngưỡng - tơn giáo, về
tổ chức chính trị - thiết chế xã hội, cho đến vấn đề về mối quan hệ giao lưu
văn hóa với các nước khu vực cũng như trên thế giới thơng qua phong cách,
di tích và di vật của kiến trúc. Từ việc so sánh, đối chiếu của hai hệ thống
kiến trúc sau khi được nghiên cứu, phần nào giúp chúng ta có cái nhìn tổng
thể về hệ thống các di tích kiến trúc đó.
Nhận thấy được những giá trị khoa học vơ cùng quan trọng của việc tìm
hiểu về mặt kiến của trúc di tích, chúng tơi đã chọn đề tài So sánh hệ thống
kiến trúc đền tháp của Chămpa với hệ thống kiến trúc Angkor của Cămpuchia
để làm đề tài nghiên cứu của mình.
Chúng tơi khơng có điều kiện tham gia khảo sát tại chỗ nên chắc chắn
có một số chi tiết thiếu chính xác khi mơ tả. Chỉ mới có điều kiện được nghe
trên phương tiện truyền thông đại chúng (tivi, youtube…), đọc một số kỷ yếu
trong hội thảo khoa học di tích khảo cổ học Chăm pa, môt số tác phẩm đã
được các học giả công bố và in ấn… Tuy cịn ít ỏi, nhưng đó sẽ là nguồn tư
liệu q giá để nhóm chúng tơi làm cơ sở hoàn thành bài làm tốt hơn.


1


CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN VÀ ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU
1.1. Vương quốc Chămpa
1.1.1. Vị trí địa lí
Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ
Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Từ thế kỷ thứ 10
đến thế kỷ thứ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến động về
biên giới phía bắc với Đại Việt. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ)
của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Ninh, Quảng Bình ngày nay),
Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng
Trạch, Bố Trạch, Tun Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh
Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ nam Quảng Trị ngày nay
trở xuống. Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai
châu Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và
châu Hóa nay là vùng từ nam Quảng Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn. Đến
năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập
phần lớn lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm chỉ bao gồm các tỉnh Phú
Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.
Về phía Tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Ngun và đơi khi
cịn mở rộng sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống
của những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ
định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua
Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam
Bàn thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê đê và từ đây
miền đất này khơng cịn thuộc cương vực của Chăm Pa.
Hiện nay, lãnh thổ của Chăm Pa khơng cịn là một khu vực riêng mà đã
sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, tạo thành một thể thống nhất. Cư dân Chăm

Pa xưa giờ trở thành một trong các cộng đồng dân tộc ở Việt Nam, làm cho
bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam phong phú, đan dạng hơn.
2


1.1.2. Lịch sử hình thành, phát tiển và suy tàn
Trên cơ sở của văn hoá Sa Huỳnh ở khu vực đồng bằng ven biển miền
Trung và Nam Trung Bộ ngày nay, đã hình thành quốc gia cổ Chămpa.
Thời Bắc thuộc, vùng đất ở phía nam dãy Hồnh Sơn bị nhà Hán xâm
chiếm đặt thành quận Nhật Nam và chia làm 5 huyện để cai trị. Tượng Lâm là
huyện xa nhất (vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay).
Vào cuối thế kỉ II, nhân lúc tình hình Trung Quốc rối loạn, Khu Liên đã
hô hào nhân dân huyện Tượng Lâm nổi dậy giành quyền tự chủ. Cuộc khởi
nghĩa thắng lợi, khu Liên tự lập làm vua, đặt tên nước là Lâm Ấp. Các vua
Lâm Ấp về sau mở rộng lãnh thổ về phía bắc đến sơng Gianh (Quảng Bình),
phía nam đến sơng Dinh (Bình Thuận) và đổi tên nước là Chămpa.
Từ 192 - 1832, quốc gia cổ Chămpa tồn tại độc lập liên tục qua các
vương triều: Lâm Ấp (192 - 605); Chiêm Thành (605 - 1471) và Panduranga
(1471 - 1832).
Cũng như cư dân Việt cổ, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân
Chămpa là nông nghiệp trồng lúa, sử dụng công cụ bằng sắt và sức kéo của
trâu, bò. Họ đã biết sử dụng nguồn nước trong sản xuất. Ngồi nghề nơng, các
nghề thủ cơng, nghề khai thác lâm thủy sản cũng khá phát triển, đặc biệt là kĩ
thuật xây tháp đạt tới trình độ rất cao.
Cư dân Chămpa có các nghề thủ cơng phát triển như nghề dệt, chế tạo
đồ đựng, làm đồ trang sức, vũ khí bằng kim loại, nghề đóng gạch và xây
dựng. Nhiều cơng trình xây dựng nổi tiếng như khu thánh địa Mĩ Sơn, các
tháp Chăm, tượng, các bức chạm nổi.
Chămpa theo thể chế quân chủ. Vua nắm mọi quyền hành về chính trị,
kinh tế, tơn giáo. Giúp việc cho vua có Tể tướng và các đại thần. Cả nước

chia làm 4 khu vực hành chính lớn gọi là châu, dưới châu có huyện, làng.
Kinh đơ Mĩ Sơn ban đầu đóng ở Sin-ha-pu-ra (Trà Kiệu - Quảng Nam), sau
đó dời đến Ira dra-pu-ra (Đồng Dương - Quảng Nam) rồi chuyển tới Vi-giay-a
(Chà Binh Định).
3


Về chữ viết, từ thế kỉ IV, dân tộc Chăm đã có chữ viết bắt nguồn từ chữ
Phạn của Ấn Độ.
Về tôn giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo là hai tơn giáo chính của chủ nhân
vương quốc Chăm Pa xưa.
Trước 1471, tơn giáo chính là Ấn Độ giáo (chủ yếu là Si-va giáo). Biểu
tượng chính của tơn giáo Si-va của người Chăm là linga, mukhalinga,
jatalinga, linga chia tầng và kosa.
Ấn Độ giáo bị gián đoạn từ thế kỷ IX – thế kỷ X khi triều đại Indrapura
theo Phật giáo Đại thừa. Trong thế kỷ X và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở
thành tơn giáo chính của Chăm Pa. Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào ChămPa
từ sau thế kỷ X, nhưng chỉ sau 1471 thì ảnh hưởng mới rõ nét. Vào thế kỷ
XVII, thì hồng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người
Chăm bắt đầu theo đạo này.
Xã hội người Chăm bao gồm các tầng lớp quý tộc, dân tự do, nông dân
lệ thuộc và nô lệ. Nông dân chiếm số đông, làm nông nghiệp, đánh cá và thu
kiếm lâm sản. Cham-pa phát triển trong các thế kỉ X — XV rồi sau đó suy
thối và hội nhập, trở thành một bộ phận của lãnh thổ, cư dân và văn hoá Việt
Nam.
1.1.3. Hệ thống kiến trúc đền tháp Chămpa
Một trong những di sản giá trị nhất mà Champa để lại là hệ thống các
kiến trúc đền tháp Chăm. Trong đó có khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn (Quãng
Nam) được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của LHQ (UNESCO)
cơng nhận là Di sản văn hóa thế giới.

Những đền tháp này được xây dựng trong khoảng thời gian từ cuối thế
kỷ VII đến đầu thế kỷ XVII. Theo tiếng Chăm, các đến tháp Champa này
được gọi là kalan, nghĩa là "lăng". Các lăng này được các đời vua Chăm xây
dựng để thờ cúng các vị thần.

4


Theo số liệu thống kê mới nhất của các nhà nghiên cứu, hiện tại có trên
hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích kiến trúc. Có thể
lập thành bảng như sau:
STT

Tên di tích

Địa điểm

Niên đại

1

Nhóm di tích
Liểu Cốc

xã Hương Xn, huyện Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế

thế kỷ XIII

2


Nhóm tháp Mỹ
Khánh

xã Phú Diên, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên - Huế

thế kỷ VIII

3

Nhóm tháp
Mẫm

xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định

thế kỷ XIII

4

Nhóm tháp
Bằng An

làng Bằng An, xã Điện An,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam

thế kỷ IX - X


5

Nhóm tháp Mỹ
Sơn

xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam

6

Nhóm tháp
Chiên Đàn

làng Chiên Đàn, xã Tam An,
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam

7

Nhóm tháp
Khương Mỹ

làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, thế kỷ X
huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Na

8

Nhóm tháp
Cánh Tiên


xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định

9

Nhóm tháp Phú
Lốc

xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, thế kỷ XIII
tỉnh Bình Định

10

Nhóm tháp
Bánh Ít

thơn Đại Lộc, xã Phước Hiệp,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định

11

Nhóm tháp Thủ xã Bình nghi, huyện Tây Sơn,
Thiện
tỉnh Bình Định

thế kỷ XI - XII

thế kỷ XII XIII


thế kỷ XI - X

thế kỷ XII XIII
5


12

Nhóm tháp
Dương Long

xã Tây Bình, huyện Tây Sơn,
tỉnh Bình Định

13

Nhóm tháp
Bình Lâm

xã Phước Hồ, huyện Tuy Phước, thế kỷ XII
tỉnh Bình Định

14

Nhóm tháp Đơi

thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định

15


Nhóm tháp
Nhạn

thành phố Tuy Hịa, tỉnh Phú n thế kỷ XII

16

15
Nhóm
tháp Po Nagar

thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh thế kỷ X - XIII
Hồ

17

Nhóm tháp Hịa làng Tam Tháp, xã Tân Hải,
thế kỷ IX
Lai
huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận

18

Nhóm tháp Po
Klong Garai

phường Đơ Vinh, thành phố Phan thế kỷ XIII Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh
XIV
Thuận


19

Nhóm tháp Po
Rome

làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu,
huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh
Thuận

thế kỷ XVII

20

Nhóm tháp Po
Dam

làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú,
huyện Tuy Phong, tỉnh Bình
Thuận

thế kỷ IX

21

Nhóm tháp
Đồng Dương

Bình Định Bắc, huyện Thăng
Bình. tỉnh Quảng nam


thế kỷ IX

22

Nhóm tháp Po
Sah Inư

phường Phú Hài, thành phố Phan
Thiết, tỉnh Bình Thuận

thế kỷ VIII

23

Nhóm tháp
Yang Praong

Bản Đơn, huyện Ea Sup, tỉnh
Đắk Lắk

thế kỷ XIII

thế kỷ XII XIII

thế kỷ XII

6



1.2. Vương quốc Campuchia
1.2.1. Vị trí địa lí
Hiện nay, Vương quốc Campuchia là một quốc gia nằm trên bán đảo
Đông Dương ở vùng Đông Nam Á, giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Thái
Lan ở phía Tây, Lào ở phía Bắc và Việt Nam ở phía Đơng. Campuchia có
ngơn ngữ chính thức là tiếng Khmer, thuộc nhóm Mơn-Khmer trong hệ Nam
Á.
Trong lịch sử, Capuchia có nhiều thời kỳ và tên gọi khác nhau, phạm vi
lãnh thổ rộng – hẹp cũng có sự khác nhau. Thời kỳ Chân Lạp, tồn tại từ thế kỷ
thứ VI và chấm dứt vào thế kỷ thứ IX (802). Kế tiếp thời Chân Lạp là thời
Angkor với triều đại đế quốc Khmer kéo dài đến thế kỷ XV.
Đế quốc Khmer hay Đế quốc Angkor là một cựu đế quốc rộng lớn
nhất Đông Nam Á (với diện tích lên đến 1 triệu km², gấp 3 lần Việt Nam hiện
nay) đóng trên phần lãnh thổ hiện nay thuộc Campuchia, Miền Nam Việt
Nam, Lào và Thái Lan. Đế quốc Khmer, tách ra từ Vương quốc Chân Lạp, đã
từng cai trị và có phần đất phiên thuộc mà ngày nay thuộc lãnh thổ của các
quốc gia: Lào, Thái Lan và miền nam Việt Nam
Trong quá trình tạo lập nên đế chế này, người Khmer đã có các mối
quan hệ thương mại với đế quốc Java và sau đó với đế quốc Srivijaya giáp
biên giới đế quốc Khmer về phía nam. Di sản lớn nhất của Đế quốc Khmer
là Angkor - kinh đô của Đế quốc này vào thời cực thịnh của nó. Angkor là
chứng tích của sức mạnh và sự thịnh vượng của Đế quốc Khmer và cũng là
hiện thân của nhiều tín ngưỡng mà nó đã mang trong mình.
1.2.2. Lịch sử hình thành, phát tiển và suy tàn
Đất nước Campuchia như một lịng chảo khổng lồ, hình thành trên một
vùng đồng bằng, cao nguyên rộng lớn, xung quanh là rừng và cao nguyên bao
bọc, đáy là Biển Hồ và vùng phụ cận với những cánh đồng phì nhiêu, màu
mỡ.

7



Ở Campuchia, tộc người chiếm đa số là người khmer. Địa bàn sinh
sống đầu tiên là ở phía Bắc nước Campuchia ngày nay. Người khmer giỏi săn
bắn, quen đào ao, đắp hồ trữ nước. Họ đã sớm tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ,
biết khắc bia bằng chữ Phạn. Đến thế kỷ VI, vương quốc của người khmer
được hình thành, sử Tàu gọi là nước Chân Lạp; còn người khmer tự gọi tên
nước mình là Campuchia.
Thời kỳ Ăng-co (802-1432) là thời kỳ phát triển thịnh đặt nhất của
vương quốc. Ăng-co là kinh đô, dduocj xây dựng ở Tây Bắc Biển Hồ. Sau
này, người ta lấy Ăng-co đặt tên cho thời kỳ dài nhất và phát triển nhất của
nước Campuchia phong kiến.
Nhờ sự ổn định vững chắc về kinh tế, xã hội, các vua Campuchia thời
Ăng-co đã không ngừng mở rộng quyền lực của mình ra bên ngồi. Trong các
thế kỷ X-XII, Campuchia trở thành một trong những nước mạnh và ham chiến
trận nhất Đông Nam Á.
Nhưng từ cuối TK XIII, Campuchia bắt đầu suy yếu. Thêm vào đó,
vương quốc Thái Lan thành lập vào thế kỷ XIV đã nhiều lần gây chiến với
Campuchia, tàn phá kinh thành Ăng-co. Sau 5 lần bị người Thái xâm chiếm,
năm 1432, người Khmer phải bỏ kinh đơ Ăng-co, lui về phía Nam Biển Hồ,
tức Phnom Pênh ngày nay. Từ đó, chính quyền phong kiến Campuchia ln
phải đối phó với những cuộc tấn cơng từ bên ngoài và lao vào những vụ mưu
sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Tình hình diễn biến rất phức tạp, suy kiệt và
đến năm 1863, Capuchia bị thực dân Pháp xâm lược.
Trong hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, người Campuchia
dã xây dựng nên một nền văn hóa riêng, hết sức độc đáo.
Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, người khmer đã học chữ phạn của
người Ấn. Sau đó, sáng tạo ra chữ viết của riêng mình trên cơ sở chữ Phạn
của người Ấn Độ. Văn học dân gian và văn học việt phát triển phong phú, đa
dạng với những câu chuyện giàu giá trị nghệ thuật, phản ánh cuộc sống con

người khmer.
8


Nghệ thuật kiến trúc Campuchia gắn chặt với những tôn giáo đã truyền
bá ở đây. Tơn giáo chính của đế chế Khơ-me là Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Thời kỳ đầu, Campuchia tiếp thu văn hóa Hinđu giáo, thế kỷ XII, Phật giáo
Đại thừa lại có ảnh hưởng lớn ở Campuchia. Những cơng trình kiến trúc chịu
sự ảnh hưởng của hai tôn giáo này đã xuất hiện. Nổi tiếng nhất là quần thể
kiến trúc Ăng-co Vát và Ăng-co Thom.
1.2.3. Hệ thống kiến trúc đền Ăngco Campuchia
Hơn 1 thế kỷ trước, dưới những cánh rừng già của tỉnh Siêm Riệp, Tây
Bắc Cam-pu-chia, người ta phát hiện có khoảng 100 ngọn tháp đá khổng lồ
của các ngôi đền bị bỏ hoang suốt nhiều thế kỷ. Đó là quần thể kiến trúc Ăngco, Ăngco là quần thể di tích đền thờ, trước đây từng là kinh đô của Đế chế
Khơ-me. Là một khu vực rộng lớn sở hữu hơn 1.000 ngơi đền có nhiều kích
cỡ khác nhau. Trong đó, nổi tiếng nhất là Ăng-co Vát (Kinh đô Chùa) và
Ăng-co Thom (Kinh đô Lớn) tiêu biểu cho nền văn minh Ăng-co huy hoàng.
Sự hoàn hảo về cấu trúc, sự cân đối và hài hòa về tỷ lệ của các ngôi
đền, tháp cũng như các bức điêu khắc của Ăng-co làm cho cơng trình này
được coi là một trong những đền đài tinh xảo nhất thế giới. Các ngọn tháp
Ăng-co đã trở thành biểu tượng của đất nước Cam-pu-chia xinh đẹp. Năm
1992, quần thể Ăng-co được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của
LHQ (UNESCO) cơng nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Ăng-co Vát được xây dựng vào khoảng năm thứ 5 TrCN. Cơng trình do
vua Su-ry-a-va-man II xây dựng trong vịng 30 năm để làm lăng của mình.
Ăng-co Vát được các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha phát hiện hồi cuối thế kỷ
XVI, đến năm 1860 mới được nhà sưu tầm thực vật người Pháp Hen-ri Mouhut tìm thấy và ghi chép cẩn thận. Cuối thế kỷ XIX, các nhà thám hiểm người
Pháp mới đến Ăng-co Vát và năm 1907, người Thái lần đầu tiên tổ chức du
lịch đến đây.
Bao quanh Ăng-co Vát là một con sông đào thơ mộng, một con đường

rộng, dài tít tắp dẫn đến cổng vào. Cơng trình này gồm các phiến đá xếp liền
9


nhau, tương tự như việc xây dựng Kim tự tháp Ai Cập. Giá trị nhất và cũng là
điều vĩ đại nhất trong Ăng-co Vát là những điêu khắc trên bức tường đá dài
khoảng 2km. Những điêu khắc này mô tả vẻ đẹp lý tưởng, hoàn mĩ của người
phụ nữ Khơme trong những dáng điệu khác nhau của vũ điệu Áp-sa-ra. Khát
vọng sống, khát vọng tình yêu, vẻ đẹp phồn thực in dấu ấn trên những vũ
công Áp-sa-ra.
Tháp trung tâm của Ăng-co Vát cao 213m. Độ cao của tháp này cao
hơn bất cứ một tháp chuông nhà thờ nào ở châu Âu được xây dựng cùng thời.
Bên dưới các tòa tháp lớn là các đường hành lang dài hun hút, mát lạnh với
các khối phù điêu sống động làm cho đá như mềm ra và thấm đẫm linh hồn.
So với Ăng-co Vát, Ăng-co Thom bị đổ nát khá nhiều. Tuy nhiên, nơi
đây cịn sót lại những ngơi đền có kiến trúc cực kỳ độc đáo mà tiêu biểu là
đền Bay-on. Đền được xây dựng theo phong cách kiến trúc Phật giáo, mỗi
tháp bao gồm 4 mặt người bằng đá khổng lồ với nụ cười bí hiểm được chạm
khắc tinh xảo.
Ngơi đền Ta Prom với những bộ rễ cây tùng bao phủ lên tường thành
cổ kính trơng như những chiếc vịi bạch tuộc khổng lồ. Nơi đây đã được Hôli-út chọn làm bối cảnh phim “Bí mật ngơi mộ cổ”.

10


CHƯƠNG 2. SO SÁNH HỆ THỐNG KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP
CỦA CHĂMPA VỚI HỆ THỐNG KIẾN TRÚC ĂNGCO CỦA
CAMPUCHIA
2.1. Giống nhau
- Cả hai hệ thống kiến trúc Chămpa và Khơmer đều ảnh hưởng từ tôn

giáo Balamôn.
- Cả hai hệ thống kiến trúc đều làm nơi thờ cúng các vị thần của Ấn đọ
giáo.
- Đều được xây dựng theo ý muốn của nhà vua.
- Đỉnh của hai hệ thống kiến trúc tháp đều tượng trưng cho đỉnh núi
mêru.
- Tháp đều có cấu trúc vuông, chữ nhật.
- Hệ thống của tháp Chămpa và Angkor đều được chia thành ba phần,
mỗi phần tượng trưng cho ba vị thần khác nhau (Brama, Shiva, Visnu).
+ Phần móng - Brama
+ Phần thân - Visnu
+ Phần đỉnh - Shiva
- Trên những bức phù điêu của hai hệ thống kiến trúc này có phần mơ
tả lại những cảnh tượng trong sử thi Ấn Độ.
- Kỹ thuật xây dựng đền tháp của hai hệ thống kiến trúc đều dựa trên
nguyên tắc: sắp xếp đá ( đối với Angkor Thom, Angkor Wat); gạch trước (
đối với đền tháp Chămpa), sau đó các nghệ nhân mới bắt đầu tiến hành điêu
khắc lên kiến trúc.

11


2.2 Khác nhau
Điểm
khác

Kiến trúc Chămpa

Kiến trúc Angkor


- Lịch sử xây dựng các hệ thống kiến - Angkor Wat được vua vua
trúc đền tháp Champa bắt đầu kéo
Suryavarman II xây dựng vào
dài từ cuối thế kỷ thứ VII đến đầu
thế kỷ XII.
Niên Đại thế kỷ XVII.
- Angkor Thom được vua
Jayavarman VII xây dựng
vào cuối thế kỷ XII.
- Hệ thống kiến trúc đền tháp
Chămpa có quy mơ nhỏ. Chiều cao
của mỗi đền tháp nằm trong khoảng
30m.

- Cả hai tích kiến trúc đều có
quy mơ lớn, đồ sộ. Trong đó:
+ Angkor Wat có chiều cao
của tháp trung tâm là 65m, 4
tháp xung quanh cao 40m,
chu vi của tháp gần 6 km và
diện tích khoảng 200 ha.
+ Angkor Thom rộng 9 km².
- Huy động 1 lực lượng đông
đảo. Bao gồm dân thường, tù
binh và các nghệ nhân
Khơmer tham gia xây dựng
kiến trúc.

Quy mô


- Lực lượng tham gia xây dựng hệ
thống kiến trúc Chămpa không đông
đảo (chủ yếu là do các nghệ nhân
Chăm xây dựng).

- Cả 2 di tích kiến trúc đều
thuộc tỉnh Xiêm RệpCampuchia ngày nay.

- Các hệ thống kiến trúc Chămpa có
mặt hầu hết trên địa bàn cư trú của
12


người Chăm và kéo dài trong suốt
tiến trình lịch sử của Chămpa.

-Vị trí xây Tháp:
+ Các hệ thống kiến trúc đền tháp
+ Xây dựng ở vùng đất rộng,
thường được xây dựng ở những địa
bằng phẳng và gần nơi cư trú
điểm cao thống, gị đồi cao, gần các của con người.
dịng sông và không gần chỗ cư trú
của con người.
- Vật liệu xây dựng:
Hệ thống đền tháp Chămpa được
xây dựng với chất liệu chính là gạch, Đền tháp được xây dựng với
và có sự tham gia một ít từ chất liệu chất liệu chính là đá phiến.
đá (chủ yếu dùng trong điêu khắc
tượng, trang trí tháp).

- Kỹ thuật xây dựng:
Đặc
trưng
Xếp gạch theo mơ hình tháp bằng
kiến trúc chất liệu kết dính.
Các viên gạch được xây so le câu
móc nhau liền khít khơng có mạch
vữa.
Dùng chất nhựa thực vật (có thể là
nhựa cây dầu rái) để liên kết giữa
các viên gạch lại với nhau.

Các nhân công, nghệ nhân
lắp ghép hàng triệu khối đá
lại với nhau.

Giữa các phiến đá được lắp
ghép với nhau bằng kỹ thuật
chốt mộng.

- Kỹ thuật điêu khắc trang trí.
Các nghệ nhân khắc tạc trực tiếp lên
trên kiến trúc gạch.

Các nghệ nhân khắc tạc trực
tiếp lên các phiến đá trên
kiến.

13



Mặt bằng tháp đa số là hình vng
có khơng gian bên trong chật hẹp
thường có cửa duy nhất mở về
hướng đơng (hướng mặt trời mọc) và
các hệ thống di tích đền tháp đều có
cửa giả. Trần được cấu tạo vịm
cuốn, trong lòng tháp đặt 1 bệ thờ
thần bằng đá. Mặt tường ngoài của
tháp thể hiện nghệ thuật chạm khắc,
đẽo gọt cơng phu hình hoa lá, chim
mng, vũ nữ, thần thánh.

Đặc
điểm
Kiến trúc

Kiến trúc nằm giữa 1 con
hào và lớp tường bao dài
3,6km là khu chính điện 3
tầng với kiến trúc hình chữ
nhật, kết nối với nhau bởi
những dãy hành lang sâu
thẳm. Trung tâm của ngôi
đền là tổ hợp 5 tháp với 1
tháp trung tâm và 4 tháp tại 4
góc hình vng.

Tháp Angkor Wat có cửa mở
Các cụm hệ thống kiến trúc đền tháp về hướng tây.

Chămpa đều nằm riêng lẽ, không có
- Angkor Thom:
sự liên kết lại với nhau giữa các đền
tháp, mỗi đền tháp cũng khơng có hệ Các bức tường thành (cao 8
thống hàng rào bao quanh.
m, dài 3 km, bên ngoài là hào
nước) bao quanh một khu
vực rộng 9 km². Tường thành
được xây bằng đá ong.
Tại hướng Đông, Tây, Nam,
Bắc, có một cổng thành.
Tại mỗi góc thành phố là một
Prasat Chrung — điện thờ
đặt tại góc — được xây dựng
bằng sa thạch và để thờ Quán
Thế Âm. Các điện thờ này có
hình chữ thập với một tháp
trung tâm và hướng về phía
đơng.
Bên trong thành có một hệ
thống kênh đào dẫn nước
chảy từ phía Đơng Bắc tới
phía Tây Nam. Khu đất được
bao bọc bởi tường thành có
thể đã là nơi xây dựng các
14


tòa nhà thế tục của thành
phố, nhưng các tòa nhà này

đã khơng cịn tồn tại.

Bộ mái Tháp: Được thể hiện trên 3
dạng chính.
1. Mái tháp nhiều tầng thu nhỏ lên
cao ( có mặt trong mọi thời kỳ xây
dựng).
Kết Cấu

1. Mái tháp thu nhỏ lên cao
(đối với tháp Angkor Wat).

2. Mái tháp thu nhỏ lên cao
2. Mái tháp khối hộp (có mặt TK XII
có mặt người (đối với tháp
- XIII) trên tháp Dương Long, tháp
Angkor Thom).
đơi.
3. Mái tháp uốn cong hình yên ngựa
( cơ mặt TK X - XIV).

Phong
cách
nghệ
thuật

- Phong cách Hòa Lai và phong cách - Angkor Wat thuộc phong
Đồng Dương (TK 9).
cách kiến trúc Khmer.
- Phong cách Mỹ Sơn A1 (TK 10).

- Phong cách Bình Định (Tk 11 13).
Là nơi thờ thần Siva, các vị vua
Chămpa, mẹ xứ sở Inư Ponaga.

Đối
tượng
thờ tự

- Angkor Thom thuộc phong
cách kiến trúc Bayon.

Lúc đầu Angkor Wat được
vua dự kiến xây dựng làm
nơi lăng mộ của vua ở. Về
sau, do hoàn cảnh nên
Angkor được dùng làm nơi
thờ thần Vinus. Thế kỷ thứ
XVII trở về sau có thờ thêm
Phật.

15


CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VỀ KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP
CHAMPA VÀ ĂNG-CO CỦA CAMPUCHIA
3.1. Nghệ thuật kiến trúc đền tháp Chămpa
- Là kiệt tác về tài năng và sự sáng tạo của con người.
- Từ vay mượn phong cách Ấn Độ, tháp Chăm đã đi đến chổ hòa quyện
và phối kết khá nhiều sáng tạo mang dấu ấn và tính cách bản địa Chăm và văn
hóa nơng nghiệp khu vực.

- Thể hiện sự tài tình trong lĩnh vực kiến trúc khi tự tạo ra nét riêng độc
đáo cho chính mình.
3.2. Nghệ thuật kiến trúc Ăngco của Campuchia
Gốc của từ Angkor theo tiếng Phạn là Nagara, nghĩa là kinh đô. Người
Khmer phát âm từ kinh đô là Nokor. Người Pháp đọc và ghi lại là Angkor. Từ
đó, tên riêng Angkor trở nên thông dụng trong sách vở.
Angkor là một thời kỳ huy hoàng nhất của dân tộc Khmer kéo dài từ
năm 802 tới năm 1431. Nhưng nói tới Angkor, người ta nghĩ ngay đến một đô
thị với hơn 100 đền tháp kỳ vĩ, niềm tự hào của nền nghệ thuật kiến trúc
khơng chỉ của dân tộc Khmer mà cịn của cả nhân loại. Lịch sử của Angkor là
lịch sử hình thành, phát triển và hoàn thiện loại kiến trúc đền tháp độc đáo có
một khơng hai của dân tộc Khmer.
- Angkor Wat - Cơng trình đặc sắc.
Angkor Wat được coi là cơng trình lớn nhất, đặc sắc nhất của tồn thể
khu Angkor, một biểu tượng cho sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc
Khmer của người Campuchia và nghệ thuật kiến trúc Hindu của nền Văn hóa
Ấn Độ.
Sự hoàn hảo của Angkor Wat trong sắp đặt, sự cân bằng và số lượng
lớn những bức phù điêu, tượng đã khiến nó trở thành một trong những cơng
trình kiến trúc tôn giáo lớn nhất hiện nay.
Angkor Wat không chỉ tạo nên ấn tượng do mức độ hồnh tráng của nó
mà còn do sự sắp đặt và thiết kế bên trong Đền cũng hết sức hoàn hảo. Vượt
16


qua lối đi và qua cổng chính mới chỉ là qua được lớp tường ngoài. Đi vào sâu
hơn là một trong 3 căn phịng đồng tâm với hàng nghìn bức phù điêu, tượng
có vẻ mặt dữ tợn và dãy hành lang dài tới 400 m. Đi tiếp vào trong và lên cao,
khu trung tâm hiện ra mờ mờ với một điện thiêng có hình tháp nhìn giống như
một đài sen khổng lồ cao tới hơn 200m.

Angkor Wat còn là một cơng trình phù điêu có lịch sử lâu đời nhất của
thế giới. Trên mỗi bức tường đá của Đền đều có khắc hình ảnh mà mỗi nhà
nghiên cứu đều có thể tìm thấy ở đó nguồn tư liệu q giá về tôn giáo, lịch sử
và xã hội. Quần thể di tích Angkor - Niềm tự hào của đất nước Campuchia
Nổi trội nhất là những bức phù điêu về các truyền thuyết của đạo Hindu và
các vũ công Apsara. Không ở đâu khác chúng ta có thể tìm thấy những cơng
trình điêu khắc về điệu múa dân tộc này của Campuchia sinh động và chi tiết
như ở các bức tường của đền Angkor Wat. Những đường nét mềm mại của cơ
thể các vũ công cũng như các động tác được khắc hoạ tỉ mỉ, tuy là ở trên đá
nhưng không hề cứng nhắc, biểu hiện nhân sinh quan đầy chất nhân văn và
thẩm mỹ của người Khmer cổ xưa. Cũng như các thủ đơ khác trên thế giới,
khu đền Angkor nói chung và đền Angkor Wat nói riêng được xây dựng trong
một tầm nhìn quân sự của các vị vua trị vì; đồng thời cũng biểu hiện sự kết
hợp hài hồ trong Văn hóa phương Đơng. Bao quanh khu đền là một đường
hào ngập nước nhằm tránh cho khu vực trung tâm không bị ngoại bang tấn
công. Đường hào này hiện nay vẫn tồn tại nhưng đã được mang ý nghĩa khác,
nó bổ sung tính thẩm mỹ cho những tồ tháp đá. Cùng với hàng cây thốt nốt
xung quanh đền Angkor hiện diện hài hoà như một tổng thể giữa trời, đất và
nước.
Angkor bị lãng quên cho đến thế kỉ thứ XIX. Một nhà nghiên cứu lịch
sử người Pháp đã khám phá lại di tích Angkor và từ đó, cái tên Angkor sống
lại trong tâm trí của người dân Campuchia như một biểu tượng về một quá
khứ vàng son đã lùi xa nhưng cần trân trọng.

17


Từ thành cổ đổ nát, Campuchia đã tôn tạo lại các đền đài và tồ tháp.
Điều này có ý nghĩa trước hết về mặt tâm linh đối với bản thân người dân
Campuchia bởi nó khơi phục lại lịch sử đã mất đI; cịn đối với thế giới thì nó

mở ra một cách cửa mới cho việc tiếp xúc với một nền Văn hóa đầy bí ẩn
trong lịch sử.
Do ý nghĩa lịch sử và Văn hóa của Angkor Wat, năm 1992, UNESCO
đã công nhận đền Angkor Wat và cả khu vực Angkor là di sản Văn hóa thế
giới.
- Angkor Thom: Thành phố “nghìn khn mặt”.
Cách khơng xa Angkor Wat là đơ thị cổ Angkor Thom, nơi có thể sánh
được với thành Rome cổ đại về cả kích thước lẫn dân số. Nó cũng được bao
quanh bởi dãy hào rộng 100 m và tường cao 8m.
Angkor Thom được vua Jayavarman VII xây dựng sau Angkor Wat gần
100 năm. Angkor Thom cũng có sức hấp dẫn huyền bí khơng kém Angkor
Wat. Giữa quang cảnh đổ nát, đi quanh những tảng đá lớn nằm ngổn ngang ở
đền Bayon, nhìn lên mọi hướng, du khách lúc nào cũng thấy tượng đầu người
mỉm cười bí hiểm. Có tổng cộng 256 gương mặt đá trên 54 tháp nhìn khắp
hướng ở đền Bayon.
Về ý nghĩa, Angkor Thom là vũ trụ thu nhỏ, được chia thành 4 phần bởi
các trục chính. Đền Bayon nằm chính giữa trung tâm các trục và được coi như
sự kết nối giữa trời và đất. Tuy nhiên, “tâm điểm” của thành phố chính là đền
Bayon. Nếu Angkor Wat khiến người ta phải sửng sốt vì sự hùng vĩ thì đền
Bayon lại là sự khác biệt đến mức kỳ lạ.
Những ngọn tháp trong đền thể hiện hơn 200 khuôn mặt của vua
Jayavarman (người tự coi là hiện thân của Phật Boddhisatva) đang nhìn chằm
chằm. Hai bức tượng tướng canh cửa đựơc dựng bên lối vào của đền. Một
người có khn mặt hiền hồ cầm đinh ba cịn người kia khn mặt dữ tợn,
cầm gậy.

18


Các cột vng trong điện được trang trí với những hình ảnh vũ cơng và

Apsara (nữ thần). Những dãy tường ngoài của đền là các bức phù điêu cũng
thể hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người Khmer thế kỉ XII, từ cảnh
gặt lúa đến cảnh chiến đấu.
Đường vào cửa Angkor Thom rất ấn tượng. Hai bên là các tượng thần
ôm thân con rắn bảy đầu dài khoảng vài trăm thước dọc hai bên cửa vào thành
phố cổ này.
Trung tâm của thành phố Angkor Thom là đền Bayon, với bốn cửa theo
bốn hướng. Kế đền Bayon về phía Tây Bắc là cung điện vua Phimeanakas; từ
đó cũng có một trục chạy về phía Đơng ra một cửa nữa gọi là cửa “Chiến
thắng”. Angkor Thom vì thế có hai trung tâm thể hiện hai thời kỳ lịch sử xây
dựng khác nhau.

19


KẾT LUẬN
1. Đối với hệ thống kiến trúc Chămpa
Trong di sản văn hóa chăm để lại, tháp Chămpa là loại hình kiến trúc
tơn giáo duy nhất cịn lại cho đến ngày nay. Có mặt theo suốt chiều dài lịch sử
Chăm, tháp hiện diện khắp nơi trên địa bàn cư trú của người Chăm trong lịch
sử, sừng sững vươn cao trên vùng đất cao nguyên bao la đại ngàn, nghiêng
mình soi bóng trên các dịng sơng và lung linh tỏa sáng dọc dải đất ven biển
miền trung. Trải qua bao thăng trầm biến động của xã hội, sự tàn phá của tự
nhiên, cho đến nay, các đền tháp còn khoảng 60 chiếc, bên cạnh đó là hàng
trăm phế tích kiến trúc tháp. Mặc dù cịn khơng nhiều so với số lượng kiến
trúc tháp được dựng xây trong lịch sử nhưng sự kỳ vĩ của mỗi ngọn tháp, vẻ
đẹp thanh tú hài hịa của hình khối, sự nuột nà tinh tế trong điêu khắc, mỗi
tháp Chăm được coi là một tác phẩm nghệ thuật hồn chỉnh, góp nên sự độc
đáo làm phong phú sinh động nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của dân tộc
Chăm, văn hóa Chăm trong lịch sử. Chính vì thế, hơn một thế kỷ nay, tháp

Chăm được nhiều thế hệ học giả quan tâm nghiên cứu và có nhiều cơng trình
đạt được thành tựu to lớn. Kế thừa những kết quả nghiên cứu đạt được trong
thời gian qua, bằng những tư liệu mới, những kết quả nghiên cứu, khai quật
khảo cổ học trong nhiều năm qua, dựa vào những kiến trúc vẫn còn, những
bằng chứng vật chất, các nhà nghiên cứu tập hợp, thống kê khảo tả những
kiến trúc hiện biết với lịng mong muốn sắp xếp lại trình tự xây dựng các kiến
trúc tháp hiện còn một cách hợp lý và tìm ra tiến trình phát triển của loại hình
kiến trúc này, góp phần dựng lại lịch sử kiến trúc tháp Chămpa.
2. Đối với hệ thống kiến trúc Angkor
- Đối với Angkor Wat
Angkor Wat là một quần thể đền đài tại Campuchia và là di tích tơn
giáo lớn nhất thế giới, rộng 162.6 hecta (1,626,000 mét vuông). Ban đầu nó
được xây dựng như một đền thờ Ấn Độ giáo dành của Đế quốc Khmer, và dần
dần chuyển thành đền thờ Phật giáo vào cuối thế kỷ 12. Vua Khmer
20


Suryavarman II xây dựng Angkor Wat vào đầu thế kỷ 12 tại Yaśodharapura
(Angkor ngày nay), thủ đô của Đế quốc Khmer như là đền thờ và lăng mộ của
ông. Khác với truyền thống theo theo đạo Shaiva (thờ thần Shiva) của các vị
vua tiền nhiệm, Angkor Wat thờ thần Vishnu. Được bảo tồn tốt nhất trong
khu vực, Angkor Wat là ngơi đền duy nhất vẫn giữ được vị trí trung tâm tôn
giáo. Ngôi đền là đỉnh cao của phong cách kiến trúc Khmer. Nó đã trở thành
biểu tượng của đất nước Campuchia, xuất hiện trên quốc kỳ và là điểm thu
hút du khách hàng đầu đất nước.
Angkor Wat là sự kết hợp của hai nét cơ bản của kiến trúc Khmer: kiến
trúc đền-núi cùng với những dãy hành lang dài và nhỏ hẹp. Kiến trúc này
tượng trưng cho Núi Meru, quê hương của các vị thần trong truyền thuyết Ấn
Độ giáo: nằm giữa một con hào và lớp tường bao dài 3.6 km (2.2 dặm) là khu
chính điện ba tầng với kiến trúc hình chữ nhật, kết nối với nhau bởi những

dãy hành lang sâu thẳm. Trung tâm của ngôi đền là tổ hợp 5 tháp với một tháp
trung tâm và bốn tháp tại bốn góc hình vng. Khơng giống những ngôi đền
theo phong cách Angkor khác, Angkor quay mặt về phía Tây và vẫn chưa có
cách giải thích thống nhất về ý nghĩa của điều này. Ngôi đền được ngưỡng mộ
bởi vẻ hùng vĩ và hài hòa của kiến trúc, sự phong phú của nghệ thuật điêu
khắc và số lượng lớn các vị thần được trang hoàng trên những bức tường đá.
Tên hiện đại của ngôi đền, Angkor Wat, nghĩa là "Thành phố Đền" hay
"Thành phố của những ngôi Đền" trong tiếng Khmer; Angkor, nghĩa là "thành
phố" hay "thủ đô", được bắt nguồn từ từ tiếng Phạn nagara trong tiếng bản xứ.
Wat nghĩa là "sân đền" trong tiếng Khmer
- Đối với Angkor Thom
Angkor Thom là thành phố thủ đô cuối cùng và lâu dài nhất của Đế
quốc Khmer. Thành được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ XII.
Thành rộng 9 km², bên trong có nhiều đền thờ từ các thời kỳ trước cũng như
các đền thời được Jayavarman và những người nối nghiệp ông xây dựng. Tại
trung tâm thành là ngôi đền quốc gia của Jayavarman, đền Bayon, với các di
21


tích khác quần tụ quanh khu quảng trường Chiến thắng nằm ngay phía Bắc
đền.
Đây là một di sản thế giới nên thu hút rất nhiều du khách trong và quốc
tế đến đây tham quan và khám phá vẻ quyền bí của ngôi đền. Ngôi đền càng
ngày trở nên nổi tiếng thế giới, hầu hết các du khách đi du lịch Campuchia
đều ghé tham quan khám phá ngôi đền Bayon, ngôi đền đã góp phần phát
triển ngành du lịch tại Campuchia hiện nay.
Tóm lại, trong tiến trình lịch sử của mình, người Chăm ở Việt Nam và
người Khơmer ở Campuchia đã để lại cho nhân loại những di sản văn hóa thế
giới thật kỳ vĩ và đồ sộ. Những di sản ấy đều mang một ảnh hưởng từ ấn Ấn
Độ giáo.


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Xuân Tịnh (chủ biên), Di tích Chăm ở Quảng Nam, Nxb. Đà
Nẵng, 1998.
2. Phạm Đức Dương (chủ biên), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh
Đơng Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 2000.
3. Lưu Trần Tiêu (chủ biên), Gìn giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền
văn hóa Chăm, Nxb. Văn hóa Dân tộc - Hà Nội, 2000.
4. Lê Đình Phụng (chủ biên), Di tích Văn hóa Chăm ở Bình Định, Nxb.
Khoa học xã hội Hà Nội, 2002.
5. Ngô Văn Doanh (chủ biên), Văn hóa cổ Chămpa, Nxb. Văn hóa Dân
tộc - Hà Nội, 2003.
6. Lê Đình Phụng (chủ biên), Kiến trúc - Điêu khắc ở Mỹ Sơn. Di sản
văn hóa thế giới, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 2004.
7. Lê Đình Phụng (chủ biên), Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Tháp Chămpa,
Nxb. Văn hóa - Thơng tin Hà Nội, 2005.
8. Lương Ninh (chủ biên), Vương quốc Chămpa, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2006.
9. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
Dục, 2008.
10.
11.
12.

23



×