Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

NGHIÊN CỨU MỘ THUYỀN, MỘ GẠCH VÀ MỘ QUÁCH GỖ HÌNH CŨI GIAI ĐOẠN I, II TRƯỚC VÀ SAU CÔNG NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.49 KB, 20 trang )

NGHIÊN CỨU MỘ
THUYỀN, MỘ GẠCH VÀ
MỘ QUÁCH GỖ HÌNH CŨI
GIAI ĐOẠN I, II TRƯỚC
VÀ SAU CÔNG NGUYÊN

1


MỞ ĐẦU
Trong khảo cổ học, việc khai quật và nghiên cứu mộ táng ln ln
được đặt ở vị trí quan trong. Bởi vì thơng qua nghiên cứu mộ táng chúng ta có
thể rút ra được những kết luận khoa học về chủ nhân của ngơi mộ, đời sống
văn hóa và tinh thần của họ khi còn sống, mối giao lưu với bên ngoài…
Những kết luận ấy lại được sử dụng cho nhiều cơng trình nghiên cứu của
nghành khảo cổ học nói riêng và nghành khoa học nói chung. Trong tất cả các
loại mộ táng thì mộ quách gỗ hình củi, mộ thuyền và mộ gạch là ba loại mộ
đặc trưng và tiêu biểu cho nên văn hóa Việt Nam thế kỷ một, hai trước và sau
công nguyên. Mặc dù giai đoạn này cịn có nhiều loại mộ khác nhưng ba loại
mộ trên là những loại mộ thể hiện rõ được đời sống, sinh hoạt và nhưng tục
táng của người dân ở những thế kỷ xa xưa thông qua các di tich khảo cổ về
mộ, những vật dụng tùy táng theo người chết. Và để hiểu rõ hơn về chủ nhân
của các nền văn hóa, thơng qua các di khai quật mộ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về con người và cuộc sống của họ thời xa xưa, vì thế tơi đã chọn đề tài
“Nghiên cứu mộ thuyền, mộ gạch và mộ quách gỗ hình cũi giai đoạn I, II
trước và sau công nguyên” làm đề tài để nghiên cứu.

2


Mộ táng là loại hình khảo cổ đặc trưng thể hiện rõ nét về đời sống, văn


hóa tinh thần và những tập tục sinh hoạt của người dân trong những giai đoạn
trước và sau cơng ngun. Nói về mộ thì có rất nhiều loại, mỗi loại ở từng
giai đoạn từng thời kỳ sẽ khác nhau, nhưng có ba loại mộ đặc trưng ở giai
đoạn trước và đầu công nguyên như mộ thuyền, mộ gạch và mộ quách hình
củi.
Mộ thuyền
Mộ thuyền là tên gọi chung loại mộ có quan tài thân cây khoét rỗng và
còn được gọi là mộ quan tài hình thuyền. Mộ thuyền là loại hình mộ táng mà
quan tài được tạo bởi một thân cây gỗ khoét vũng lòng, hai đầu được chừa lại
khi khoét, hoặc ghép thêm hai miêng váng, bộ phận liên kết giữa tấm thiên và
tấm địa là những lỗ chốt mộng khớp, có hình dáng giông chiếc thuyền độc
mộc.
Mộ thuyền giai đoạn khảo cổ học lịch sử tiếp tục truyền thơng từ văn
hóa Đơng Sơn và mang một số đặc điêm riêng. Mộ thuyền phân bố ở Việt
Nam, Nam Trung Hoa và một số khu vực ở Đông Nam Á. Ở Việt Nam, mộ
thuyền xuất hiện trong văn hóa Đơng Sơn, mộ thuyền tồn tại trong khoảng
thời gian từ thế kỷ IV BC đến những thế kỷ sau cơng ngun và có thể phân
hai giai đoạn, giai đoạn mộ thuyền của văn hóa Đơng Sơn và giai đoạn mộ
thuyền sau văn hóa Đơng Sơn. Mộ thuyền Đông Sơn chỉ phân bố trong một
khu vực nhỏ của văn hóa Đơng Sơn, trong các vùng lầy trũng của châu thổ
Bắc Bộ thuộc địa phận tỉnh Hải Phịng, Hưng n, Thái Bình, Hà Nam, Hà
Tây….
Theo PGS-TS Bùi Văn Liêm, mộ thuyền được chôn trong huyệt khá
sâu, không cịn rõ gị mộ. Một số mộ có cọc ghìm định vị quan tài. Quan tài
mộ là một đoạn thân cây gỗ trịn hoặc gần trịn, kht rỗng hình lịng máng,
hai đầu chừa lại (hoặc ghép thêm ván) làm vách ngăn. Liên kết tấm thiên và
tấm địa là những lỗ chốt hoặc mộng khớp, một số áo quan có 4 tay khiêng 4
góc của tấm thiên và tấm địa.
3



Người ta cũng sử dụng vải, chiếu cói, lá cây để khâm liệm tử thi. Họ
đặt tử thi nằm ngửa, đầu cao, chân tay duỗi thẳng. Những táng thức cơ bản
của chủ nhân mộ thuyền Đơng Sơn là vậy.Trong lịng những con thuyền đầy
tính tâm linh ấy, người Đơng Sơn đặt vào đó rất nhiều đồ quý. Khảo cổ học
cho thấy đại đa số đồ tùy táng là di vật điển hình của văn hóa Đơng Sơn.
Trong hầu hết các ngôi mộ Đông Sơn, đồ tùy táng chôn theo tùy vào giá trị và
ý nghĩa của chúng mà được đặt ở những vị trí thích hợp, hầu như khơng tn
theo một quy luật nào. Thông qua đồ tùy táng cũng như loại hình đồ tùy táng
trong khu vực mộ táng cho thấy vai trò, địa vị của chủ nhân chúng trong xã
hội. Ngay cả khi con người khơng cịn khả năng sống, chiến đấu và lao động
theo đúng nghĩa thực của nó, người Đơng Sơn vẫn tin vào cái tính ngưỡng
riêng của mình về một thế giới bên kia ln diễn ra xong hành, gần giống với
thế giới thực tại. Tục chôn theo đồ tuỳ táng của cư dân văn hóa Đơng Sơn thể
hiện sự gắng kết mật thiết giữa cuộc sống của con người ở hai thế giới, giữa
hai yếu tố hiện thực và tâm linh.
“Một số di vật trong mộ thuyền có đặc trưng riêng như đồng lưỡi xéo
gót nhọn, cuốc sắt, cơng cụ xới đất bằng gỗ... là những nơng cụ thích ứng
canh tác ruộng trũng”, PGS-TS Bùi Văn Liêm cho biết. “Cịn có cả bộ vũ khí
với số lượng nhiều nhất là lao thích ứng với thủy chiến trên thuyền vùng sông
nước. Những trống đồng, thạp đồng hoa mỹ cũng thấy trong mộ thuyền. Đặc
biệt là những di vật tre, gỗ, nứa, lá và vỏ quả bầu”. Cũng theo ơng Liêm,
ngồi di vật bản địa, trong mộ thuyền cịn có một số di vật khác phản ánh mối
giao lưu, tiếp xúc, trao đổi bảo lưu và cách tân văn hóa của cư dân Đơng Sơn
vùng châu thổ sông Hồng.
Chẳng hạn, trong mộ thuyền Việt Khê, các nhà khoa học tìm thấy tới
107 hiện vật, gồm: giáo, lao, dao găm, kiếm, ống bịt đầu cán giáo, rìu, đục,
nạo móc, đũa, dao gọt, thạp, thố, bình, âu, đỉnh, khay, ấm, mi, đèn, trống,
chng, chng dẹt, chng có núm... Các hiện vật gỗ có: mái chèo, cán giáo,
đồ sơn, khuy áo.

4


Đặc biệt, trong mộ thuyền này cịn có cả thạp Việt Khê - một chiếc thạp
quý, và trống đồng Việt Khê. Một hiện vật khác cũng khá lạ lùng là tiêu bản
giũa đồng. Giũa có hình dáng gần giống chiếc bàn chải hiện đại, dài 19 cm.
Những hiện vật trong mộ thuyền Đông Sơn, theo PGS-TS Liêm, cho
thấy luyện kim màu của người thời Đông Sơn khá đa dạng về loại hình. Nó
cũng phong phú về kiểu dáng và đạt đến trình độ khá cao về thành phần hợp
kim và kỹ thuật chế tạo. Luyện kim đen chủ yếu là luyện rèn sắt và sử dụng
đồ sắt trong hoạt động sống hằng ngày cũng như làm vật tùy táng trong các
mộ thuyền.
Thông qua việc nghiên cứu hệ thống mộ thuyền đã được phát hiện các
nhà khảo cổ học Việt Nam đã phân chia lịch sử phát triên của hệ thống mộ
thuyền ra làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: quan tài thân cây khoét rỗng gồm có hai tấm, một tấm
quan tài và một tấm nắp đậy.
- Giai đoạn giữa: là giai đoạn quá độ từ quan tài thân cây khoet rỗng,
gồm bốn tấm, một tấm quan tài, một tấm nắp đậy, phần đầu và phần đuôi
ghép thêm hai tấm ván
- Giai đoạn cuối: quan tài ghép sáu tấm
Có thể nói rằng những đặc điểm của từng giai đoạn trên thể hiện các
giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau trong đời sống cư dân Đông Sơn.
Phân loại mộ thuyền phụ thuộc vào các tiêu chí khác nhau.
-Dựa vào cấu trúc mộ: có hai loại là mộ huyệt đất và mộ trong quan
ngoài quách.
-Dựa vào cấu trúc quan tài, dựa vào tiêu chí mặt cắt ngang của quan tài
để phân chia: quan tài có mặt cắt ngang gần trịn- trịn, quan tài có mặt cắt
ngang gần lục giác- lục giác, quan tài có mặt cắt ngang gần chữ nhật- chữ
nhât.

Trong q trình thi cơng đập Vành Kiệu thuộc xã Phương Nam (ng
Bí), những người cơng nhân thuỷ lợi đã phát hiện ra 7 quan tài hình thuyền ở
5


dưới độ sâu 2,5m-3,5m. Các mộ thuyền này phân bố rải rác trên cánh đồng
Cầu Đen, gần ngang cửa cảng Bạch Thái Bưởi. Đây là nơi sình lầy, hàng năm
đến mùa mưa thường bị ngập lụt. Về hình dáng, các mộ thuyền cơ bản giống
nhau, đó là hai nửa của một thân cây khoét rỗng ghép lại, hai đầu của tấm địa
có tay khiêng, bốn góc quan tài có lỗ chốt, bên ngồi được đẽo gia cơng. Một
trong các mộ thuyền còn nguyên vẹn cả tấm thiên và tấm địa có kích thước đo
được là dài 2,15m, rộng 0,48m, sâu lòng (tấm địa) 0,41m. Tay khiêng dài
0,20m, rộng 0,08m, dày 0,04m. Trong quan tài, xương cốt còn khá đầy đủ. Tử
thi đặt nằm ngửa, hai tay duỗi thẳng ép dọc thân, chân duỗi thẳng. Toàn thân
người chết được bọc lớp vải thơ, bên ngồi có lớp chiếu cói mỏng. Tay bên
trái đặt một đục sắt, phần chân đặt một hòn đá to, bên trong quan tài còn phát
hiện một mảnh gốm. Cuối năm 1992, khi thi công đập Vành Kiệu sang xã
Phương Đông, các công nhân tiếp tục phát hiện một mộ thuyền, cách khu mộ
thuyền Phương Nam chừng 2km. Theo những người công nhân, khi phát hiện,
mộ chôn ở độ sâu 1,7-2,2m, tử thi đặt nằm ngửa, chân tay duỗi thẳng, xung
quanh xếp hiện vật. Quan tài mộ thuyền tìm thấy ở Phương Đơng đo được
chiều dài 3,60m (tính cả tay khiêng hai đầu). Tấm địa sâu 0,22m, tấm thiên
sâu 0,13m. Bộ phận liên kết tấm thiên và tấm địa là đường mộng khớp chạy
quanh mép quan tài. Di vật chơn theo người chết, đồ đồng có 2 chiếc nhíp, 4
chiếc rìu, 1 mũi tên, 1 giáo, 1 vịng tay, 1 mi và 1 tấm che ngực hình chữ
nhật dài 18cm, rộng 9cm, dày 0,4cm, có 4 lỗ buộc dây. Đồ sắt có 1 vịng tay.
Đồ gỗ có 1 gối hình chữ nhật, 4 góc có lỗ. Đồ đá có một lõi vịng hình trịn.
Với những vũ khí chơn theo, có ý kiến cho rằng người nằm trong mộ khi cịn
sống có thể là một chiến binh dũng cảm. Do được chơn sâu dưới đất sình lầy,
có nhiều khí mê-tan, các vi khuẩn không xâm hại được nên các mộ thuyền đã

tồn tại qua hơn 2.500 năm. Khi đưa lên khỏi mặt đất, thốt khỏi mơi trường
yếm khí, các quan tài này đã nhanh chóng nứt vỡ (giống như các cọc Bạch
Đằng lưu giữ ở Bảo tàng Quảng Yên và Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh hiện nay).

6


Từ đó có thể cho thấy rằng mộ thuyền là một đặc trưng văn hóa của văn
hóa Đơng Sơn.
Mộ gạch
Mộ gạch còn gọi là mộ Hán, phân bố tập trung ở những vùng vốn là
trung tâm các lỵ, sở, quận cai trị của chính quyền phong kiến phương Bắc và
nằm trên các trục giao thơng thủy bộ chính lúc bấy giờ. Bắc Ninh, Bắc Giang
là nơi tập trung mộ gạch đậm đặc nhất với những khu mộ lớn ở Gia Lương,
Thuận Thành, Văn Giang, Quế Võ,…Mộ gạch xa nhất về phía nam hiện đang
được ghi nhận ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Đây là những phát hiện về mộ gạch. Khu vực thôn Đức Sơn được bao
bọc bởi dải núi đá Phượng Hồng ở phía bắc và dịng sơng Đá Vách (sơng
Kinh Thầy) ở phía nam. Đơng Triều nói riêng và Quảng Ninh nói chung là
khu vực phân bố khá nhiều những ngôi mộ gạch cổ trong 10 thế kỷ đầu Công
nguyên. Mộ được phát hiện đầu năm 2011 trong quá trình cải tạo, san bạt đất
đồi trồng các loại cây ăn quả của nhân dân trong khu vực. Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) đã tiến hành khai quật vào
tháng 9 cùng năm. Mộ nằm ở khoảng giữa dãy núi đá Phượng Hồng, cách
chân núi về phía Nam khoảng 300m. Gị mộ là một gò đất cao hơn mặt bằng
xung quanh khoảng 2,50m, đường kính khoảng 14 - 15m. Trên đỉnh gị đã bị
đào phá, chọc thủng một lỗ lớn đủ để người có thể chui vào trong hầm mộ.
Hầm mộ có dạng cuốn vòm, dài theo hướng Bắc - Nam, cửa mở hướng
Nam, mặt bằng mộ có cấu trúc hình chữ thập (+), bố cục làm 3 gian (thất)
chính, các gian ngăn cách và kết nối với nhau bởi các nhịp trụ tường xây cuốn

vịm theo mái. Tồn bộ nền hầm mộ được lát bởi những viên gạch hình chữ
nhật.
- Gian ngoài cùng (tiền thất) dài 1,27m, rộng 1,7m, cao 1,92m. Vòm
cửa tiền thất được xây cuốn vòm bằng 2 lớp gạch cao 1,68m; rộng 1,20m.
Phía trên vịm cửa được xếp cuốn thêm 6 lớp gạch cao 1,35m; rộng 2,20m tạo
thành một vịm cửa giả có độ cao tương ứng với vòm mái gian trung thất,
7


đồng thời tạo độ cao ảo làm tăng vẻ bề thế to lớn của ngơi mộ. Lớp vịm này
đã bị phá hủy một khoảng chính giữa rộng 0,50 - 0,90m, đây có thể là kết quả
của việc đào trộm mộ những năm về trước. Nền tiền thất được lát gạch không
theo quy luật nhất định, một số viên đã bị cậy lên.
- Gian giữa (trung thất) dài 1,80m, rộng 3,65m, cao 3,71m. Ở hai góc
đơng nam và góc tây bắc để thò ra một viên gạch ở độ cao 0,70m (tính từ nền)
làm chỗ để đèn. Điểm đặc biệt của trung thất là vòm mái được xếp cao dần từ
4 phía và chụm lại ở đỉnh mái. Vịm mái trung thất cao, đẹp và cân đối, nổi
bật nhất trong toàn thể cấu trúc mộ. Nền trung thất được lát bởi 49 viên gạch
chữ nhật (7 viên x 7 viên) đặt ngang theo chiều rộng ngơi mộ.
Hai bên phía Đơng và Tây của trung thất lại có 2 gian phụ gọi là 2 nhĩ
thất. Kích thước của hai gian này tương đương nhau: dài 0,92m, rộng 1,02m,
cao 0,86m. Quan sát có thể nhận thấy gian trung thất được xây cầu kỳ và phức
tạp nhất tạo cho cấu trúc mộ có mặt bằng hình chữ thập.
- Gian trong cùng (hậu thất) dài 4,25m, rộng 2,06m, cao 2,40m. Đây là
nơi đặt quan tài, tuy nhiên trong q trình khai quật, chúng tơi khơng tìm thấy
dấu tích của quan tài hay hài cốt. Tại góc Đơng Nam và Tây Nam phía cửa
vào được xây một viên gạch nhô ra cao khoảng 0,50m so với mặt nền dùng
làm nơi đặt đèn giống với trung thất. Hậu bị đào phá nhiều, đất bên ngoài tràn
vào lấp kín cả gian, sau khi bóc tách từng lớp đất đã phát hiện một bệ hình
chữ nhật xếp bằng các loại gạch hình chữ nhật và gạch múi bưởi theo trục Bắc

Nam dài 2,52m, rộng 0,75m, cao còn lại 0,21m, xếp lệch về vách phía Tây
tường mộ, cách tường mộ phía tây 0,30m, cách tường phía đơng khoảng 1m.
Với kích thước và vị trí như hiện thấy, chúng tơi cho rằng đây là bệ đặt quan
tài. Việc khơng tìm thấy dấu vết của quan tài hay hài cốt cho thấy, có thể ngơi
mộ đã được cải táng từ trước đó.
Một điểm đặc biệt nữa ở cấu trúc ngôi mộ này là phía cuối tường mộ
phía Tây (bên phải) của gian hậu thất cũng có một nhĩ thất giống như 2 nhĩ
thất ở gian trung thất. Nền nhĩ thất này cao hơn nền hậu thất 0,43m, dài 1m,
8


rộng 0,70m, cao 0,56m. Đây có thể là ngăn chứa đồ tùy táng, nhưng sau khi
bóc sạch lớp đất bồi thì khơng thu được hiện vật gì, rất có thể các đồ tùy táng
đã bị những kẻ đào trộm mộ lấy đi hoặc đập vỡ vứt ra nền hầm mộ.
Như vậy, mặt bằng cấu trúc của ngơi mộ là hình chữ Thập (+). Độ rộng
của tiền thất và hậu thất xấp xỉ như nhau nhưng hậu thất dài hơn. Điều đặc
biệt ở gian phụ bên phải trong cùng hậu thất cùng với cách xếp kệ quan tài
lệch đã làm chúng ta liên tưởng tới giới tính của chủ nhân ngơi mộ.
Dựa vào cấu trúc mộ cũng như loại hình hiện vật tùy táng và gạch xây
cho thấy ngôi mộ này có niên đại thời Đơng Hán (khoảng thế kỷ I đến III sau
CN).
Tính đến nay số mộ Lục triều tìm thấy tại Việt Nam rất ít. Các hiện vật
tìm thấy tại mộ cũng khá hiếm hoi, bởi đa phần các ngôi mộ khi được giới
chuyên môn phát hiện đã rơi vào tình trạng bị đào bới, đập phá, mất hết hiện
vật. Lý do của việc mộ cổ thường bị đập phá chính là những đồn đốn về giá
trị các hiện vật trong mộ. Nhiều người cho rằng, những hiện vật lâu đời đồng
nghĩa với trị giá lớn về kinh tế. PGS TS Nguyễn Lân Cường cho rằng, những
ngôi mộ Hán tìm thấy ở Việt Nam đều khơng thấy xương cốt (có thể do thời
gian đã lâu nên đã tiêu hết xương cốt và quan tài), các hiện vật cũng không hề
là vàng bạc châu báu mà toàn là đồ sành sứ. Tại hai ngôi mộ phát hiện hồi

tháng 4 ở Ciputra, quý nhất là một bình đầu gà tuyệt đẹp nhìn rõ cả mào, mắt
và đi gà. Tuy nhiên, qua tham khảo nhiều nhà sưu tầm cổ vật, những hiện
vật trong các ngôi mộ Hán thường rất rẻ tiền, bởi yếu tố mỹ thuật của đồ gốm
sứ giai đoạn này chưa có độ tinh xảo. Có một số hiện vật cực kỳ đặc biệt được
tìm thấy ở mộ Hán cũng chỉ có giá vài chục triệu đồng.
Tháng 11-2010, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á phối hợp với các cơ
quan văn hóa, Bảo tàng huyện Yên Hưng tiến hành làm vệ sinh, bảo tồn một
hầm mộ gạch lớn có tên gọi dân gian là "Hố Của" tại thôn Năm, xã Sông
Khoai, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Hầm mộ này có niên đại thế kỷ
thứ II sau Cơng ngun, tức là cách chúng ta ngày nay hơn 1.800 năm. Đây là
9


một hầm mộ gạch kiểu Hán được xây dựng bằng hàng ngàn viên gạch lớn (cỡ
trung bình 26x45x7cm). Tất cả gạch xây đều có in hoa văn nổi trên các cạnh
khiến cho hầm mộ như một bức tường phù điêu lộng lẫy. Hầm mộ gồm ba
gian lớn. Gian chính giữa hình chữ nhật mỗi chiều 3-4m. Các tường cạnh của
gian này được xây thẳng đứng cao chừng 3m rồi thu dần vào tạo thành một
đỉnh vịm bốn múi hình thót nhọn, trên đỉnh là một lỗ thoát hồn lên trời. Từ
đỉnh vòm này xuống nền gạch đáy, chiều cao trên 4m.
Đây là một kiểu hầm mộ quý tộc xây theo kiến trúc xếp gạch giật cấp rất
điêu luyện, bắt đầu phổ biến vào thời Đông Hán. Tại hầm mộ "Hố Của" ở
Sơng Khoai, hai phía Bắc, Nam của gian vịm cao chính giữa, người xưa làm
thêm hai gian vịm cuốn nữa. Gian chính ở phía nam dài gần 6m, rộng khoảng
2m, cao 2m là nơi đặt quan tài chủ nhân, gian kia dài 2m, rộng 2m, cao 2m là
nơi chứa đồ tùy táng. Ở mỗi gian đều có một ngách cổng phụ cao và rộng mỗi
chiều một mét. Đồ tùy táng thấy được khá nhiều ở ngách cửa phụ gian chính
giữa. Nền các gian được lát gạch chéo chứ khơng song song với chiều tường
hầm mộ, có nơi dày tới ba lớp gạch.
Giá trị lớn nhất của hầm mộ này là kiến trúc và nghệ thuật. TS Yang

Yong, một chuyên gia về mộ táng thời Hán ở Lĩnh Nam, Trung Quốc khi đến
thăm hầm mộ này đã phải xác nhận, ngay cả ở Trung Quốc cũng rất hiếm
thấy. Nói chung, các hầm mộ gạch đầu Công nguyên ở Việt Nam đều có hoa
văn rìa cạnh. Giá trị nghệ thuật của hoa văn chính là tiêu chí để đánh giá lao
động trí tuệ, nghệ thuật cho hầm mộ, và qua đó đánh giá vị trí xã hội của chủ
nhân. Có thể nói, đây là một hầm mộ được trang trí khá cầu kỳ. Sơ bộ nhận
thấy, gần 100 đồ án khuôn in hoa văn gạch khác nhau. Nét in sâu, sắc, khiến
mỗi viên gạch nổi lên rất rõ nét. Nhiều viên có dấu hiệu ký tự khác lạ, càng
làm tăng tính hấp dẫn của hầm mộ.
Nhưng do quan niệm sai lầm trước đây, người ta cho rằng những hầm
mộ gạch này là của những kẻ xâm lược phương Bắc, từ đó dẫn đến ý thức
khơng gìn giữ, tơn vinh loại hình di sản kiến trúc nghệ thuật có tuổi đời cao
10


và giá trị lao động nghệ thuật lớn này. Nhiều khu hầm mộ như vậy ở Hà Nội,
Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thanh Hóa… đã bị san bằng trước con mắt ngẩn ngơ
của giới nghiên cứu lịch sử kiến trúc và mỹ thuật. Gần đây, giới khoa học
trong và ngoài nước, đặc biệt cả nhiều chuyên gia khảo cổ, nhân chủng Trung
Quốc đã xác nhận, đa số chủ nhân các hầm mộ như vậy là người Việt. Họ có
thể là những quý tộc, thương nhân Việt hoặc là những quan lại người Việt
dưới thời Bắc thuộc như Lý Cầm, Lý Tiến, Trương Trọng…
Cấu trúc của mộ gạch: Có hai loại mộ được kht vào sườn gị núi (loại
này ít), điển hình như mộ ở Vũng Đơng (Thanh Hóa). Đa phần mộ gạch đều
có gị mộ to lớn, đất đắp đầy gị được lấy ngay tại khu vực xung quanh.Gị mộ
trơng khơng khác lắm so với các đồi gị tự nhiên. Có loại chỉ có một mộ, song
có loại cũng chứa tới bốn, năm mộ và chu vi lên tơi 100m, cao hơn 10m.
Qch mộ đươc xếp bằng gạch, thường có hình chữ nhật, cá biệt có 2
loại hình chữ T và hình chữ L, gạch xây đáy và vách qch có hình chữ nhật,
gạch xây vịm cuốn có hình múi bưởi. Gạch xây ở giai đoạn sớm thường có

kích thước lớn và trang trí hoa văn ở rìa cạnh, trên một số hoa văn cịn thấy
những mơ típ điển hình là của văn hóa Đơng Sơn.
Những ngơi mộ có quy mơ lớn, thường được phân chia thành nhiều
phòng (thất): tiền, trung và hậu. Bên cạnh cịn có những ngăn nhỏ hơn (nhĩ
thất). Giữa các thất được ngăn bởi các tường gạch xây cuốn, đáy mộ được xếp
gạch.
Đố tùy táng như ấn, kiếm, móc đai lưng, gương, trâm… vật dụng hằng
ngày, những mơ hình nhà giếng… được để trong lịng mộ, bên trong và bên
ngoài quách. Bên cạnh những di vật Hán điển hình, hay hiện vật mang phong
cách Hán, cịn có những hiện vật Đông Sơn, hiện vật thể hiện sự tiếp biế văn
hóa Viêt- Hán
Chủ nhân: Mộ gạch là loại mộ điển hình của văn hóa Hán và chủ nhân
của những ngôi mộ này là những quan lại người Hán hoặc dân Hán sang cư
trú ở đây, hoặc quan lại quý tộc Việt đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán.
11


Niên đại: Mộ gạch xuất hiện sớm nhất tù thời Đông Hán và tồn tại qua
đến thời Lục Triều, Tùy Đường và từ thế kỷ X trở về sau thì hầu như khơng
cịn thấy bóng dáng. Theo các nhà nghiên cứu, với khung niên đại không dài
này, mộ gạch không có nguồn gốc và cũng khơng để lại nhưng dấu vết về sau
trên mảnh đất Việt Nam. Mộ gạch cùng chung một số phận với chủ nhân của
chúng.
Mộ quách gỗ hình cũi
Ở thời điểm đầu Cơng ngun khảo cổ học đã phát hiện một số ngơi
mộ có qch cũi, quan tài sót lại một phần thân cây gỗ. Điển hình cho loại mộ
này là ngôi mộ số 2 ở Gia Lương (Tứ Lộc, Hải Dương) vì cịn khá ngun
vẹn. Ba mặt quách được ghép bằng những cây gỗ đẽo khá cẩn thận. Quan tài
là một khối chữ nhật. Tấm thiên và một thành quan tài được chế liền nhau từ
thân của một cây gỗ to nguyên. Kiểu chế tác này được coi là sự tiếp nối kỹ

thuật chế tác mộ thuyền Đông Sơn. Tại những vùng khác của Hải Dương,
Hưng n cũng đã tìm thấy những ngơi mộ có qch hình cũi này và đa số có
niên đại thời Đơng Hán.
Đây là một trong những khảo cổ về mộ quách gỗ hình cũi. Trong các
ngày 18, 19-10-2009, khi thi cơng hạ thấp sườn núi Thành Dền để lấy nguyên
liệu đất, đá san lấp mặt bằng mở rộng khuôn viên Nhà máyxi măng Tân Phú
Xuân ở thôn Quỳ Khê, xã Liên Khê, huyện Thuỷ Ngun, cơng nhân lái máy
xúc vơ tình phát hiện được một ngơi mộ cổ có hình dáng khác lạ.
Mộ cổ này nằm trên sườn núi Thành Dền ngay sát bờ sông Đá Bạc, cách sông
khoảng 60-70m. Núi Thành Dền vốn là một trong những căn cứ đóng quân
của Nhà Mạc trong cuộc xung đột Lê - Mạc hồi cuối thế kỷ XVI. Khu vực núi
Thành Dền hiện đã được cấp cho Nhà máy xi măng Tân Phú Xuân khai thác
nguyên liệu đất, đá. Theo lời kể của nhân dân địa phương, thì trước khi san ủi,
nơi đây là một khe nước chảy mỗi khi trời đổ mưa lớn, không mấy người qua
lại.

12


Ngơi mộ có kết cấu rất kiên cố, quy mơ vừa phải, gồm hai phần: quách
và áo quan, được chôn ở độ sâu cách mặt đất khoảng 5-6m. Quách là bộ phận
bảo vệ ngoài cùng của mộ được làm hoàn toàn bằng các tấm gỗm lim lớn
(3,65m x 0,4m x 0,15m và 1,5m x 0,3m x 0,15m) ghép lại với nhau bằng các
mộng ngồm khít chặt. Qch hình hộp chữ nhật có kích thước 3,65m x 1,5m
x 0,85m, khơng có hệ thống sàn và chia thành các ngăn đặt đồ tuỳ táng như
các mộ cùng loại và phía trên có nắp quách kiểu nhà một mái, dốc từ nam
sang Bắc, ngăn không cho đất đá rơi vào (mái quách đã bị phá do máy xúc
đụng phải, làm biến dạng hoàn tồn).
Qch đặt theo hướng Tây - Đơng (song song với dịng chảy của sơng
Đá Bạc). Khi các nhà chun mơn có mặt tại hiện trường thì xung quanh mộ

đã bị đào bới, nắp quách bị dỡ bỏ hoàn toàn, thành qch phía bắc, phía đơng
đã bị đổ hoặc dỡ bỏ, hợp chất bùn loãng dùng để bảo quản áo quan và đồ tuỳ
táng đã tràn cả ra ngoài, nắp quan tài bị xô lệch, bùn đất tràn đầy tấm địa. Có
nghĩa là, mộ đã bị biến dạng, quan tài bị xê dịch, khơng tìm thấy dấu vết của
huyệt mộ, rất khó khăn cho cơng tác nghiên cứu, xử lý khoa học. . Đồ tuỳ
táng chôn theo được xếp đặt lộn xộn ở khoang giáp thành phía Nam và hai
đầu quách. Nhóm cán bộ khai quật thu được: 7 chiếc mâm bồng bằng gỗ
(đường kính 0,48m, phía dưới có 3 chân, chính giữa lịng nổi khối ụ trịn), 4-5
pho tượng người cách điệu bằng gỗ, phong cách đơn giản như tượng nhà mồ
Tây Nguyên, mai gỗ, đĩa gỗ, chén gỗ, lược gỗ và hơn hai chục di vật là lọ,
bình, vị, chum, bát... bằng đất nung, hoa văn trang trí chủ yếu là hình tổ ong,
khắc vạch. Ngồi ra, người ta cịn tìm thấy một số quả cau và vết tích của
những lá trầu không.
Quan tài là một thân cây gỗ lớn, đường kính xấp xỉ 0,6m, dài 2,95m.
Tấm địa và tấm thiên của áo quan được chế tạo liền nhau từ một cây gỗ
nguyên và vẫn giữ được kỹ thuật kht hình lịng thuyền của loại hình mộ
thuyền truyền thống của văn hố Đơng Sơn. Hai tấm thiên và địa khớp với
nhau bằng mộng, phía đầu của tấm địa được đục một lỗ tròn, sâu. Trong quan
13


tài hầu như khơng cịn dấu vết của xương cốt và khơng tìm được bất cứ một di
vật nào ngồi vết tích của chiếu cói phủ trên hài cốt.
Thơng thường, thành quách mộ kiểu này được vây bởi nhiều tầng gỗ
gắn kết với nhau bằng các mộng ngoàm, khiến dễ liên tưởng đến những chiếc
cũi lợn khá phổ biến trong các gia đình nơng thơn trước đây. Tuy qch và áo
quan mộ Thành Dền vẫn lưu vết của kỹ thuật dùng dao, rìu đẽo gọt, nhưng đã
thấy xuất hiện của kỹ thuật cưa, mài và kỹ thuật ghép tấm nên quan qch có
dáng hình khá hiện đại. Dấu ấn con thuyền lưu lại khá rõ, khiến người ta dễ
dàng liên tưởng những mộ quan tài thuyền có niên đại muộn hoặc là dạng

chuyển biến trung gian giữa quan tài thuyền sang quan tài sáu tấm hình hộp.
Theo các nhà khảo cổ học, những mộ quách gỗ hình cũi ở những thế kỷ đầu
công nguyên như mộ Thành Dền chỉ thấy phân bố ở một phạm vi hẹp: Ninh
Giang, Tứ Lộc (Hải Dương) mà thôi, khiến việc xác định chủ nhân của chúng
đầy khó khăn, phức tạp trong khi tư liệu về nhân chủng học hồn tồn khơng
có trong tay. Với mộ cổ Thành Dền, thì đây là lần đầu tiên loại hình mộ táng
này được tìm thấy ở Hải Phịng. Kỹ thuật chôn cất này xuất hiện đột ngột và
chấm dứt mau chóng ở những thế kỷ đầu Cơng ngun, để rồi lại đột ngột tái
hiện và chấm dứt mau chóng ở thế kỷ XIII, XIV với một khơng gian rộng lớn
hơn nhưng chưa tìm thấy các bước phát triển trung gian, đang là vấn đề làm
đau đầu các nhà khảo cổ học nước nhà.
Về kỹ thuật chôn, nhờ kết quả nghiên cứu tại thực địa và phỏng vấn tìm
hiểu những người trực tiếp phát hiện, đào bới, chúng tôi xin nêu giả thiết
nghiên cứu như sau: người xưa đã tạo huyệt mộ bằng cách đào hầm mộ sâu
vào trong lòng núi, rồi dùng bè mảng đưa quách gỗ và quan tài vào; trước hết,
nền quách được lèn chặt, rồi đặt cũi và dùng đất sét trắng gia cố chung quanh;
tiếp đến là đặt quan tài ngay ngắn trong lòng quách, xếp đồ tuỳ táng, rồi đổ
đầy quách một lớp bùn hợp chất bảo quản, lắp mái che; cuối cùng là dùng
hàng nghìn mét khối đất, đá lấp kín cửa hầm mộ (theo những người trực tiếp
tham gia đào bới khẳng định có thấy dấu vết của lối vào huyệt mộ). Theo kết
14


quả điều tra của Viện khảo cổ học ở Điệu Tú (Liên Khê - Thuỷ Nguyên),
những người dân đào mộ địa phương cho biết cứ khoảng 3 mộ gạch thì có
một ngơi mộ đất. Như vậy, người ta có thể ước tính ở khu vực này có tới hàng
trăm ngơi mộ huyệt đất bị đào trộm.
Có thể khẳng định mộ “qch gỗ hình cũi” Thành Dền có niên đại thế
kỷ II - III sau Công nguyên, việc phát hiện này đã cung cấp nguồn tư liệu quý
đối với việc nghiên cứu về tập tục mai táng của người Việt cổ.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, cốt lõi của mộ quách gỗ vẫn là quan
tài hình thuyền. quan tài thuyền được bao bọc thêm một lớp quách chỉ có thể
là một bước phát triển của phong tục chôn cất hoặc chỉ là biểu hiện mức độ
sang trọng cầu kỳ của những chủ nhân giàu có hơn mà thơi. Mộ qch gỗ theo
một số nhà nghiên cứu là sự diễn biến phát triển của cùng một loại hình mộ
quan tài hình thuyền.
Dựa vào cấu trúc nhiều khoang giống như mộ gạch của quách gỗ và bộ
tùy táng di vật Hán chôn theo như gương, âu, đỉnh đồng, lon, hũ,… cũng như
niên đại xuất hiện của loại mộ này từ đầu công ngun, có ý kiến cho rằng
giữa mộ qch gỗ hình củi và mộ thuyền Đơng Sơn có những khác biệt rõ
ràng và có thể những chủ nhân của những ngơi mộ quách gỗ là của quan lại
hoặc dân binh nhà Hán bị Việt hóa hoặc của một vài quý tộc giàu có người
Việt bị Hán hóa. Dù trong trương hợp nào ta vẫn thấy loại hình mộ này thể
hiên sử tiếp xúc và đan xen giữa hai nền văn hóa Đơng Sơn và Hán để tạo nên
những nét văn hóa riêng trong giai đoạn đầu công nguyên.

15


KÊT LUẬN
Có thể nói, mộ trong giai đoạn cuối và đầu Cơng ngun là những hình
thức mai táng rất đặc biệt của cư dân Việt cổ. Mặc dù tồn tại bên rất nhiều các
loại hình mộ táng khác, nhưng mộ thuyền Đơng Sơn, mộ gach hay mộ qch
gỗ hình cũi luôn được coi là đỉnh cao trong nhận thức tâm linh người Việt. Nó
phản ánh đời sống, nét văn hố tín ngưỡng đặc trưng của người Việt. Mộ
thuyền, mộ gạch hay mộ qch hình cũi khơng chỉ tồn tại trong một giai đoạn
nhất định mà có một sức sống trường tồn. Mặc dù quá trình tiếp xúc thâm
nhập lẫn nhau giữa hai nền văn hoá là văn hoá bản địa và văn hố Hán là một
q trình lâu dài hàng chục thế kỷ. Những người sáng tạo nên loại hình mộ
thuyền, mộ gạch hay mộ quách gỗ hình cũi lúc nào cũng tồn tại bên cạnh loại

hình mộ, đặc biệt với mộ thuyền kể cả khi người Hán ra sức đồng hố, thì loại
hình mộ thuyền vẫn được bảo lưu. Ở dân tộc nào cũng vậy, cũng đều có một
nét văn hoa riêng và luôn tồn tai song song với con người qua từng giai đoạn,
từng thời kỳ.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Bảo, Lê Xuân Hưng (2008), Khảo cổ học Việt Nam
2. Lê Xuân Hưng (2015), Bài giảng tóm tắt khảo cổ học lịch sử Việt
Nam
3. Nhiều tác giả (1989), Những phát hiện mới về khảo cổ học năm
1989, NXB Viện khảo cổ học
4. Nhiều tác giả (1995), Những phát hiện mới về khảo cổ học năm
1994, NXB Khoa học xã hôi
5. Nhiều tác giả (1995), Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 199,
NXB Khoa học xã hôi

TRANG WEB THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />
17


PHỤ LỤC

Bảo vật quốc gia Mộ thuyền Việt Khê - một mộ thuyền Đơng Sơn nổi tiếng

Quan tài hình thuyền phát hiện tại phường Phương Nam, Phương Đơng
(ng Bí) năm 1992 (hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh).

18


Hai ngôi mộ một lớn một nhỏ nằm song song với nhau. Ảnh: Nguyễn Hưng.

Cán bộ Viện khảo cổ khai quật tại giếng cổ chiều 18/4. Ảnh: Nguyễn Hưng.

19


Mộ quách gỗ hình củi ở Thủy Nguyên
20



×