Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

TÌM HIỂU CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.77 KB, 32 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC DÂN TỘC Ở TRƯỜNG SƠN - TÂY NGUYÊN

ĐỀ TÀI:

CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở LÂM ĐỒNG


MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................... 1
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. .............................................................. 3
2.1 Tổng quan về vùng đất con người lịch sử Tây Nguyên. .......................... 3
2.2 Các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng ............................................................ 8
2.2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ở
Lâm Đồng. .................................................................................................. 8
2.2.2 Các vấn đề dân tộc và dân cư ở Lâm Đồng. .................................... 12
2.3 Một số đặc trưng về dân số của các đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm
Đồng. ............................................................................................................ 20
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 26
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH ................................................................................... 28


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Lâm Đồng là một tỉnh nằm ở phía Nam Tây Ngun, trong đó các đồng
bào dân tộc thiểu số chiếm 23% dân số toàn tỉnh.Và nơi đây có vị trí chiến
lược quan trọng cả về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, là vùng đất giàu về
tài nuyên thiên nhiên, có nhiều thế mạnh, tiềm năng đã và đang được khai
thác để phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lâm
Đồng là nơi sinh sống, cũng là quê hương lâu đời của các anh em Mạ, Cờ Ho,
Chu Ru,... vùng đất có nhiều di sản văn hóa đặc sắc, nhiều phong tực tập quán


tốt đẹp. Là nơi đất lành chim đậu của các đồng bào dân tộc thiểu số đến đây
lập nghiệp.
Mỗi dân tộc có nguồn gốc, lịch sử định cư, trình độ phát triển kinh- tế xã
hội, đặc điểm văn hoá khác nhau. Các dân tộc thiểu số bản địa cư trú rải rác
khắp các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa. Dân tộc CơHo tập trung nhiều ở
Di Linh, Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đam Rông. Dân tộc Mạ cư trú
trong vùng thượng lưu sông Đồng Nai thuộc các huyện Đạ Tẻh, Cát Tiên, Bảo
Lâm. Dân tộc Chu Ru tập trung ở huyện Đơn Dương, Đức Trọng. Dân tộc
M’Nông cư trú ở huyện Lâm Hà, Lạc Dương, Đam Rông. Các dân tộc thiểu
số ở các tỉnh phía Bắc di cư vào năm 1954 tập trung chủ yếu ở Đức Trọng và
số di dân tự do đến sau năm 1975 sống xen kẽ ở các địa bàn.
Lâm Đồng là một tỉnh nhiều thành phần dân tộc nhưng khơng có sự áp
đặt giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số. Cư dân đến Lâm Đồng từ nhiều
địa phương, nhiều vùng, nhiều thời kỳ khác nhau nhưng đã đoàn kết, đùm bọc
lẫn nhau. Mỗi địa phương, mỗi vùng đều có những nét văn hố riêng nên khi
đến sống xen cư, xen canh đã tạo nên một đời sống văn hoá phong phú, đa
dạng, khác với văn hoá truyền thống vùng đồng bằng Bắc bộ và miền Trung.
Chính vì vậy, vùng đất Tây Ngun nói chung cũng như Lâm Đồng nói
riêng là nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Ở đây hình thành nhiều nét
văn hóa khác nhau và đa dang, phong phú hơn. Riêng ở Lâm Đồng, một vùng
đất được coi là nơi đất lành chim đậu của các đồng bào dân tộc thiểu số đến
1


đây lập nghiệp. Vậy tại sao họ lại đến Lâm Đồng? Nguồn gốc của các dân tộc
thiểu số này bắt đầu ở đâu? Khi nào họ di cư tới? Trong xã hội, có nhiều biến
đổi q trình di cư có nhiều thay đổi đã làm ảnh hưởng biến đổi như thế nào
về thành phần tộc người ở đây? Những đặc trung cơ bản của dân tộc thiểu số
ở đây là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu và đi sâu hơn về những vấn đề đó thơng
qua bài tiểu luận: Các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng.


2


PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
2.1 Tổng quan về vùng đất con người lịch sử Tây Nguyên.
- Về vị trí địa lí.
Tây Nguyên là một vùng gồm hệ thống núi, cao nguyên và đồmg bằng
chân núi thuộc phần Trường Sơn Nam của dãy Trường Sơn. Từ khu vực phía
nam dãy Hồnh Sơn(đèo ngang) kéo dọc theo vùng miền núi phía Tây các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú n, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực Tây
Nguyên và lan tỏa xuống vùng miền Đơng Nam Bộ. Nói một cách khác khu
vực này tương ứng với địa bàn cư trú lâu đời của cư dân thượng.
- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.
+ Điều kiện tự nhiên:
Tây Nguyên có địa hình rất đa dạng, gồm nhiều cao nguyên tầng xếp và
núi cao. Địa hình bị chia cắt phức tạp nhưng phân bậc rõ ràng.
Khí hậu của vùng Tây Nguyên rất tiêu biểu cho vành đai nhiệt đới, gió
mùa với đặc trưng nổi bật là nóng ẩm và mưa nhiều mùa(lượng mưa nơi này
khá cao). Nhìn chung, khí hậu ở đây ơn hịa, khơ, mát, ít bão và sương muối.
Có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Tây Nguyên là nơi đầu nguồn nhiều dịng sơng lớn ở Trung Bộ và Nam
Trung Bộ. Có hệ thống sơng ngồi khá phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển các nhà máy thủy điện (hệ thống sông Mê Kông, hệ thống sông
Đồng Nai, hệ thống Sông Ba). Hệ thống sơng suối ao hồ của Tây Ngun có
dạng bậc rất rõ ràng, có nhiều ghềnh thác ở thượng lưu và chủ yếu chịu tác
động của lượng mưa.
+ Rừng và khoáng sản:
Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với

thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú.

3


- Đặc điểm dân cư vùng trường sơn Tây Nguyên.
Thời Pháp thuộc người Kinh bị hạn chế lên vùng Cao nguyên nên các bộ
tộc người Thượng sinh hoạt trong xã hội truyền thống. Mãi đến giữa thế kỷ
XX sau cuộc di cư năm 1954 thì số người Kinh mới tăng dần. Trong số gần
một triệu dân di cư từ miền Bắc thì chính phủ Quốc gia Việt Nam đưa lên
miền cao nguyên 54.551 người, đa số tập trung ở Đà Lạt và Lâm Đồng [1].
Từ đó nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Việt (Kinh) ở Tây
Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nơng.. Chính
quyền Việt Nam Cộng hịa gọi chung những dân tộc này là "đồng bào sắc tộc"
hoặc "người Thượng"; "Thượng" có nghĩa là ở trên, "người Thượng" là người
ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh
sống trên cao nguyên miền Trung. Danh từ này mới phổ biến từ đó thay cho
từ ngữ miệt thị cũ là "mọi".
Tính đến năm 1976, dân số Tây Nguyên là 1.225.000 người, gồm 18 dân
tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 853.820 người (chiếm 69,7% dân
số). Năm 1993 dân số Tây Nguyên là 2.376.854 người, gồm 35 dân tộc, trong
đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.050.569 người (chiếm 44,2% dân số). Năm
2004 dân số Tây Nguyên là 4.668.142 người, gồm 46 dân tộc, trong đó đồng
bào dân tộc thiểu số là 1.181.337 người (chiếm 25,3% dân số) [2]. Riêng
tỉnh Đắc Lắc, từ 350.000 người (1995) tăng lên 1.776.331 người (1999), trong
4 năm tăng 485% [3]. Kết quả này, một phần do gia tăng dân số tự nhiên và
phần lớn do gia tăng cơ học: di dân đến Tây nguyên theo 2 luồng di dân kế
hoạch và di dân tự do. Người dân tộc đang trở thành thiểu số trên chính quê
hương của họ. Sự gia tăng gấp 4 lần dân số và nạn nghèo đói, kém phát triển
và hủy diệt tài nguyên thiên nhiên (gần đây, mỗi năm vẫn có tới gần một

nghìn héc-ta rừng tiếp tục bị phá [4]) đang là những vấn nạn tại Tây Nguyên
và thường xuyên dẫn đến xung đột. Theo kết quả điều tra dân số 01 tháng 04
năm 2009 dân số Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh) là 5.107.437 người, như thế so

4


với năm 1976 đã tăng 3,17 lần, chủ yếu lả tăng cơ học. Đến năm 2011, tổng
dân số của 5 tỉnh Tây Nguyên là khoảng 5.282.000 người.

[1] Lê Đình Chi. Người Thượng Miền Nam Việt Nam. Gardena, CA: Văn Mới, 2006.
tr 549-612
[2] Chính sách dân tộc của Đảng đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, thực
trạng và giải pháp, trên báo Dân Tộc của Uỷ ban Dân Tộc.
[3] Chiến lược bảo vệ sự đa dạng sinh học ở Tây Nguyên.
[4] Phát triển vốn rừng ở Tây Nguyên trên báo quân đội nhân dân, 2006
5


- Đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội.
+ Về kinh tế.
- Kinh tế truyền thống: Các hình thái kinh tế chiếm đoạt (săn bắt, hái
lượm) còn chiếm vị trí chủ yếu. Nơng nghiệp canh tác ruộng khơ và nương
rẫy. Do làm xen canh gốc vụ trên đất rẫy, các cư dân ở đây khơng chỉ trồng
lúa mì mà còn trồng xen kẽ với các loại: kê, cà, ớt... công thêm các rẫy đã
đem đem đủ cho người dân các nhu cầu yếu phẩm hằng ngày. Hiện nay, kinh
tế các dân tộc vùng Tây Nguyên đã vượt qua giai đoạn kinh tế chiếm đoạt và
đã tiến sâu vào giai đoạn kinh tế sản xuất với nền nông nghiệp lệ thuộc vào
thiên nhiên.
- Chăn nuôi: Do điều kiện kinh tế khá phong phú và trong trồng trọt còn

nhiều sản phẩm thừa nên ngành chăn nuôi ở các dân tộc này khá phát triển.
Trâu được nuôi nhiều nhất ở Bắc Bộ. Voi thuần dưỡng và chăn nuôi. Trước
đây Đăk Lắk là nơi cung cấp voi cho tồn Đơng Dương. Voi là tài sản quý
biểu tượng cho niềm kiêu hãnh và sức mạnh. Các vật như lợn, gà dùng để làm
vật tế sinh.
- Nghề thủ công: dệt thổ cẩm, trao đổi hàng hóa. Những cư dân ở Bắc
Tây Ngun như Tà Ơi, Giẻ Triêng, làm nghề gốm không dùng bàn xoay mà
nặn đất thành các băng dài, rồi quấn chồng lên đáy thành hình trụ tùy theo
nồi.
 Trước đây kinh tế mang tính tự cấp, tự túc trong từng bn làng hiện
đời sống từng bước thay đổi. Hiện nay, Tây Nguyên đã có các loại hình kinh
tế trang trại, hoạt động dịch vụ chủ yếu của người Việt. So với các vùng khác
trong cả nước, điều kiện kinh tế - xã hội của Tây Nguyên có nhiều khó khăn,
như là thiếu lao động lành nghề, cơ sở hạ tầng kém phát triển, sự chung đụng
của nhiều sắc dân trong một vùng đất nhỏ và với mức sống còn thấp. Tuy
nhiên, Tây Nguyên có lợi điểm về tài nguyên thiên nhiên. Tây Nguyên có đến
2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, tức chiếm đến 60% đất bazan cả nước, rất

6


phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà.
Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên.
+ Về văn hóa.
Nền văn hóa ở Tây nguyên rất đa dạng và phong phú. Trong đó có văn
hóa tinh thần và văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất.
+ Văn hóa vật chất chủ yếu là các sinh hoạt hằng ngày, ăn, uống, trang
phục… từ những điều nhỏ nhặt nhất về cuộc sống hằng ngày mà mỗi dân tộc
ở nơi đây tạo nên.
+ Văn hóa tinh thần bao gồm các văn học- nghệ thuật dân gian như

trường ca, truyện cổ, nghệ thuật diển xướng, nghệ thuật tạo hình và các lễ hội
dân gian.
Ngồi ra cịn có Tín Ngưỡng của các dân tộc Tây Nguyên. Thần linh tôn
thờ: theo quan niệm của đồng bào, cả hai thế giới tồn tại, thế giới của người
sống thực và thế giới hư vơ. Cịn rơi rớt tín ngưỡng vật tổ thị tộc (Giarai mài
răng trước). Trong số lực lượng siêu nhiên đồng bào tin có nhiều loại ma quái
và các vị thần (y ang).Thần lớn nhất của cư dân này là ông Trời. Vị thần được
quí trọng nhất đối với đồng bào là thần lúa sau đó là các vị thần núi, thần
rừng, thần cây đa, thần bản mệnh.. Ngoài những thần linh làm điều lành có
những có những siêu linh làm điều dữ. Do cuộc sống phụ thuộc vào thế giới
thần linh nên đồng bào có tục lệ cầu xin thần linh kết thân với mình để tăng
thêm sức mạnh cho bản thân. Khơng có ý niệm thờ cúng tổ tiên mà chủ yếu là
cúng thần: gia đình và bn làng. Lễ đâm trâu là một đặc trưng của vùng văn
hóa Tây Nguyên. Dấu ấn về chiến tranh của các bộ lạc xưa. Nghi thức sát sinh
nghi thức tế thần và cầu mong sự sinh sôi nảy nở.
+ Về xã hội.
Chủ yếu là quan hệ và các thiệt chế cộng đồng, trong đó thì hơn nhân gia
đình, dịng họ và bn làng, một số cộng đồng vẫn sử dụng luật tục. Mỗi buôn
làng có thiết chế tự quản, mỗi làng đều có chủ làng nhằm duy trì cuộc sơng

7


bình thường và an ninh, trật tự cho cả cộng đồng cả bn làng. Ngồi ra cịn
có liên minh bn làng thể hiện sự đồn kết của các bn làng với nhau.
2.2 Các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng
2.2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ở Lâm
Đồng.
A) Điều kiện tự nhiên
+ Vị trí địa lí

Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Ngun có độ cao trung bình
từ 800 - 1.000 m so với mặt nước biển với diện tích tự nhiên 9.772,19 km2,
địa hình tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn ngun, núi cao đồng thời
cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên
khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, thực động vật... và những cảnh quan kỳ
thú cho Lâm Đồng[1]. Phía đơng giáp các tỉnh Khánh Hồ và Ninh Thuận,
Phía tây nam giáp tỉnh Đồng Nai, Phía nam – đơng nam gáp tỉnh Bình Thuận,
Phía bắc giáp tỉnh ĐắK LắK[2]
Lâm Đồng nằm trên 3 cao nguyên và là khu vực đầu nguồn của 7 hệ
thống sông lớn; nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – là khu vực
năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và là thị trường có nhiều tiềm
năng lớn. Tồn tỉnh có thể chia thành 3 vùng với 5 thế mạnh: Phát triển cây
cơng nghiệp dài ngày, lâm nghiệp, khống sản, du lịch - dịch vụ và chăn ni
gia súc.
+ Địa lí, địa mạo
Đặc điểm chung của Lâm Đồng là địa hình cao nguyên tương đối phức
tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung lũng
nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ
nhưỡng, thực động vật... và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng. Đặc
điểm nổi bật của địa hình tỉnh Lâm Đồng là sự phân bậc khá rõ ràng từ bắc
xuống nam. Phía bắc tỉnh là vùng núi cao, vùng cao nguyên Lang Bian với
những đỉnh cao từ 1.300m đến hơn 2.000m như Bi Đúp (2.287m), Lang Bian
8


(2.167m), Phía đơng và tây có dạng địa hình núi thấp (độ cao 500 – 1.000m),
Phía nam là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc và bán
bình ngun.[3]
+ Khí hậu
Lâm Đồng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió

mùa biến thiên theo độ cao, trong năm có 2 mùa rõ rệt; mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ thay đổi rõ rệt giữa các khu vực, càng lên cao nhiệt độ càng
giảm. Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh dao động từ 18 – 250C, thời tiết ơn
hịa và mát mẻ quanh năm, thường ít có những biến động lớn trong chu kỳ
năm.
Lượng mưa trung bình 1.750 – 3.150 mm/năm, độ ẩm tương đối trung
bình cả năm 85 – 87%, số giờ nắng trung bình cả năm 1.890 – 2.500 giờ,
thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng và phát triển các loại cây trồng,
vật ni có nguồn gốc ơn đới. Đặc biệt Lâm Đồng có khí hậu ơn đới ngay
trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình và nằm không xa các trung tâm đô thị
lớn và vùng đồng bằng đông dân.
B)Các nguồn tài nguyên
+ Tài nguyên đất
Lâm Đồng có 9 nhóm đất khác nhau. Đất có độ dốc dưới 250 chiếm trên
50%, đất dốc trên 250chiếm gần 50%. Chất lượng đất đai của Lâm Đồng rất
tốt, khá mầu mỡ, tồn tỉnh có khoảng 255.407 ha đất có khả năng sản xuất
nơng nghiệp, trong đó có 200.000 ha đất bazan tập trung ở cao nguyên Bảo
Lộc – Di Linh thích hợp cho việc trồng cây cơng nghiệp dài ngày. Diện tích
trồng chè và cà phê khoảng 145.000 ha, diện tích trồng rau, hoa khoảng
23.783 ha tập trung tại Đà Lạt, Đơn Dương, Lạc Dương, Đức Trọng, Lâm Hà;
chè, cà phê, rau, hoa ở Lâm Đồng đa dạng về chủng loại, có những loại có giá
trị phẩm cấp cao. Đất có khả năng khai thác thấp vì bị úng ngập hoặc khơ hạn,
tầng đất mỏng có đá lộ đầu hoặc kết vón, độ màu mỡ thấp, hệ số sử dụng
9


khơng cao…Trong diện tích đất lâm nghiệp, đất có rừng chiếm 60%, còn lại
là đất trống đồi núi trọc (khoảng 40%).
+ Tài nguyên rừng

Lâm đồng có 617.000 ha rừng với độ che phủ 63% diện tích tồn tỉnh,
đặc điểm của rừng Lâm Đồng là đặc dụng và phòng hộ. Nguồn tre, nứa, lồ ô
khá dồi dào, trữ lượng lớn, tập trung ở các huyện phía Nam như Đạ Huoai, Đạ
Tẻh, Cát Tiên. Do mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, đất đai phù hợp nên các loại
tre, nứa, lồ ơ có tốc độ tái sinh rất nhanh sau khi khai thác. Diện tích tre, nứa
có đủ khả năng đáp ứng u cầu chế biến khoảng 50.000 tấn bột giấy hàng
năm. Rừng Lâm Đồng rất đa dạng về lồi, có trên 400 cây gỗ, trong đó có một
số lồi gỗ q như: pơmu xanh, cẩm lai, giỏ, sao, thông 2 lá, 3 lá, ngồi ra
cịn có nhiều loại lâm sản có giá trị khác.
Rừng Lâm Đồng phân bố ở thượng nguồn các sơng, suối lớn của khu
vực nên có vai trị quan trọng trong phịng hộ, du lịch nghiên cứu, tham
quan…Diện tích đất có khả năng trồng rừng nguyên liệu khoảng 50.000 –
70.000 ha, thuận lợi cho ngành công nghiệp chế biến bột giấy, giấy.
+ Tài ngun khống sản
Lâm Đồng có 25 loại khống sản, trong đó bơxit, bentonite, cao lanh,
diatomite và than bùn có khả năng khai thác ở qui mơ cơng nghiệp.
Quặng bơxít ở Lâm Đồng có trữ lượng khoảng 1.234 triệu tấn, chất
lượng quặng khá tốt, điều kiện khai thác và vận chuyển khá dễ dàng. Theo số
liệu điều tra, cao lanh ở Lâm Đồng có trữ lượng khoảng 520 triệu tấn, chất
lượng tốt. Loại cao lanh này có khả năng sử dụng làm sứ điện tử, sứ bền nhiệt
cơ, sứ dân dụng cao cấp, gạch samot chịu lửa, chất độn cho công nghiệp chế
biến giấy, sản xuất sunfat alumin,…sét bentonite có trữ lượng trên 4 triệu tấn,
chất lượng tốt, sau khi được hoạt hoá với soda để chuyển sang bentonit kiềm
có thể sử dụng trong kỹ nghệ làm khuôn đúc, chất tẩy rửa trong công nghiệp
dầu mỡ, công nghiệp thực phẩm, chất phụ gia trong sản xuất phân bón tổng
hợp, sản xuất dung dịch bùn khoan dầu khí và khoan cọc nhồi theo tiêu chuẩn
10


của Mỹ và châu Âu. Than nâu và diamite được phát hiện tại nhiều điểm,

nhưng mỏ Đại Lào (Bảo Lộc) là có khả năng khai thác cơng nghiệp với trữ
lượng 8,5 triệu m3, có thể sử dụng làm chất đốt, chất cách nhiệt, phụ gia trong
sản xuất phân bón hoặc phụ gia sản xuất xi măng.

[1] Diện tích, dân số và mật độ dân số 2013 phân theo địa phương. Tổng cục Thống
kê Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
[2] Non nước Việt Nam, Vũ Thế Bình chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, Hà
Nội 2005
[3] Đặc điểm chung của Lâm Đồng là địa hình cao nguyên tương đối phức tạp.
11


2.2.2 Các vấn đề dân tộc và dân cư ở Lâm Đồng.
A) Nguồn gốc chung của các dân tộc ở Lâm Đồng
Vùng đất Lâm Đồng lại là một địa bàn rất quan trọng về mặt nghiên cứu
khoa học xã hội. Đó là một vùng tiếp xúc dân cư ở nhiều hướng: vùng ven
biển cực nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ của phần phía Nam
nước ta. Đó là một vùng còn lưu tồn nhiều đặc trưng của xã hội nguyên thủy
của thời kỳ quá độ từ thị tộc mẫu hệ sang phụ hệ, còn tồn tại hiện tượng đại
gia đình và những đặc trưng văn hóa ngun thủy trong giai đoạn đang tan rã.
Lâm Đồng là vùng dân cư đã diễn ra và đang diễn ra các quá trình giao tiếp
văn hóa, xã hội, ngơn ngữ, dân tộc rất tập trung
Do q trình thiên cư trên bán đảo Đơng Dương, trong một thời kì hàng
vạn năm đã có hai cộng đồng người nguyên thủy sống chung với nhau là
chủng người Mơngơlơit ở phương Nam và chủng người Ơxtralơit. Qua q
trình chung sống lâu dài, và có sự giao thoa giữa hai tộc người này, vì thế dần
dần đã hình thành nên một tộc người mới là người Anhđônêdiên.
Trong cộng đồng người Anhđơnêdiên chia thành hai nhóm khác nhau, có
nhóm nói theo ngữ hệ Mơn – Khơ Me, cịn nhóm khác nói theo ngữ hệ
Malayo –pơlinêxia.

Các nhóm người Anhđơnêdiên sống chung với nhau theo chế độ thị tộc
sau đó thì phát triển thành bộ lạc. Trình độ của những nhóm người này phát
triển cao hơn tổ tiên của họ, tuy vẫn dùng đá để chế tác công cụ sản xuất
nhưng họ vẫn biết chế tác đá, lúc đầu là đẽo gọt về sau là mài, và biết làm
chuôi tra cán lỗ tre,..nhờ vậy mà sản xuất của họ ngày càng khá hơn, cuộc
sống đủ ăn hơn lúc trước. Về sau họ lại tìm được vật liệu mới đó chính là
đồng thau. Điều này cũng có thể cho rằng người Anhđơnêdiên là chủ nhân
của nền văn hóa đá mới – đồng thau. Dấu vết thời kì đá mới được tìm thấy ở
di tích Bàu Cạn ở Gia Lai, hay ở lưu vực sơng Đồng Nai, cũng đã tìm thấy
các hiện vật ở hậu kì đá mới thuộc di chỉ Cầu Sắt thuộc tỉnh Đồng Nai, cách

12


ranh giới Lâm Đồng khơng q 100km, đã tìm được nhiều đồ đá và đồ gốm,
rìu, bơn được làm bằng đá Bazan.
Những bằng chứng trên cho ta thấy người Anhđônêdiên đã từng sinh
sống khắp cả miền Nam trên đất nước ta, kể cả Tây Nguyên, vùng ven biển
miền Trung, và lưu vực sông Đồng Nai. Họ đã trải qua thời đại đá mới và đi
vào thời đại đồng thau, chính họ là tổ tiên chung của các dân tộc bản địa ở
Tây Nguyên và miền Trung nói chung.
Sự ra đời của các dân tộc bản địa ở Lâm Đồng nói riêng và miền Nam
nói chung, được gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh. Vào giữa thiên niên kỉ
thứ nhất trước cơng ngun, thì ở lưu vực sơng Đồng Nai và vùng ven biển
Miền Trung đã tìm thấy nhiều dấu vết của cư dân trong nền văn hóa Sa
Huỳnh.
Những di chỉ của nền văn hóa Sa Huỳnh đã nổi bật lên rất nhiều đặc
trưng như những rìu đá có vai, những nét đặc sắc trong gốm Sa Huỳnh, và
trong các di chie mộ táng. Điều này đã xác nhận, cách đây 3000 năm, trên lưu
vực sông Đồng Nai mà lãnh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn, đã có những bộ

lạc sinh sống với nền văn hóa đồng – sắt.
B) Sự biến đổi về thành phần tộc người thiểu số ở Lâm Đồng.
Lâm Đồng là một tỉnh đa dân tộc, theo thống kê năm 1959, Lâm Đồng
có khoảng gần 20 tên gọi các thành phần tộc người ở địa phương. Tên gọi của
các nhóm thường thay đổi theo tiến trình lịch sử. Và do nhưng yếu tố tác động
từ lịch sử, quá trình di cư, thì vấn đề dân tộc là một trong những khía cạnh
phức tạp nhất sau ngày giải phóng. Tuy nhiên tính đến thời điểm năm 2009,
trên địa bàn tồn tỉnh Lâm Đồng có 43 dân tộc khác nhau.
+ Dân tộc Cờ Ho
Sau ngày giải phóng năm 1975, các nà nghiên cứu dân tộc học đều có
khuynh hướng thống nhất xếp nhóm người Srê, Chil, Nộp, Lạch, Cờ Dịn vào
nhóm người Cờ Ho.

13


Hiện nay Người Cơ Ho cư trú tập trung tại tỉnh Lâm Đồng (145.665
người, chiếm 12,3% dân số toàn tỉnh và 87,7% tổng số người Cơ Ho tại Việt
Nam), và được chia thành nhiều nhóm địa phương như Srê, Chil, Nộp, Lạch,
Cờ Dịn.[1]
Nhóm người Srê chiếm dân số đơng nhất,tập trung chủ yếu ở huyện Di
Linh, Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương ngày nay.
Nhóm Chil trước đây là một bộ phận của người M’nơng, do những yếu
tố từ chính sách cai trị của chính sách thực dân Pháp, đã làm tăng thêm sự
chia rẽ dân tộc, chính vì vậy đã tạo nên tâm lý tộc ngưới và tách người Chil ra
khỏi người M’nông. Họ cư trú chủ yếu ở vùng phía Nam tỉnh Đak Lak ngày
nay.. Sống du canh, du cư, về sau thì họ đã dần xuống phía nam(vùng bắc và
đông bắc thành phố Đà Lạt). Và hiện nay chủ yếu cư trú trên địa bàn các
huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành
phố Đà Lạt.

Người Lạch sống ở xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành
phố Đà Lạt. Do có nhiều điều kiện giao lưu tiếp xúc với người kinh nên đời
sống kinh tế của nhóm này khá tiến bộ so với các nhóm khác.
Nhóm Nộp cư trú ở vùng phía Nam Di Linh. Do q trình giao lưu văn
hóa xã hội lâu đời với các cư dân ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên
nhóm người Nộp vẫn cịn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của dân tộc đó như
tục ăn trầu và trồng trầu cau.
Nhóm người Cờ Dịn cư trú miền núi phía đơng nam huyện Di Linh, kệ
cận với địa bàn cư trú của người Nộp, tập trung đơng nhất ở xã Trang Hịa,
Gia Hòa, thuộc huyện Di Linh.
Sản xuất và đời sống của người Cờ Ho chủ yếu là trồng trọt, tùy theo đặc
điểm địa lí và xã hội của từn nhóm người thì hoạt động kinh tế có những đặc
trưng khác nhau. (người Chil, Cờ Dòn, Nộp cư trú chủ yếu ở vùng núi cao,
trước đây là phát rẫy, phát rừng, trồng ngô, lúa rẫy, khoai, sắn làm nguồn
lương thực chủ yếu. Còn đối với người Srê là trồng lúa trên ruộng nướng nên
14


lúa là lương thục chính của họ). Trong gia đình người Cờ Ho thường ni
trâu, bị là chủ yếu, dùng để làm sức kéo và giết mổ trong những ngày tế lễ.

[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225.
15


+ Dân tộc Mạ
Người Mạ là một dân tộc thiểu số bản địa ở tỉnh Lâm Đồng.
Theo thống kê địa phương vào năm 1977, ở Lâm Đồng Người Mạ có
trên 19.000 người. theo những tài liệu dân tộc học, trước kia người Mạ, Cờ

Ho, M’nông tồn tại những sắc thái rất gần gũi nhau, tiếng nói chung của họ
cùng một ngữ hệ Môn – Khơ me.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Người Mạ cư trú tại
tỉnh: Lâm Đồng (31.869 người, địa bàn cư trú của người Mạ nằm ở vùng
trung và thượng lưu sông Đồng Nai[1].
Trước đây do ít có điều kiện tiếp xúc với người Kinh, lại cư trú ở vùng
sâu, vùng xa, nên người Mạ rất ít biết tiếng phổ thơng, nhất là ở nữ giới với
người trên 60 tuổi. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp phần lớn
nhiều Bon của người Mạ trở thành căn cứ cách mạng và một số nơi khác
thuộc vùng tạm bị chiếm, cho nên việc tiếp xúc với người Kinh ngày càng
được mở rộng và thường xuyên hơn. Qua 25 năm sau ngày giải phóng, nhiều
người Mạ đã biết sử dụng tiếng phổ thơng và chữ quốc ngữ một cách thuần
thục hơn trước, nhất là giới trẻ.
Theo đa số người Mạ và phần lớn dân cư láng giềng thuộc nhóm ngơn
ngữ Mơn Khơ me thì tộc danh ‘Mạ” có nghĩa là phương thức sinh hoạt kinh tế
của những người làm nương rẫy. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng
đồng tộc người Mạ được chia thành các nhóm địa phương như Mạ Ngăn, Mạ
Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.
Mạ Ngăn được quan niệm là người Mạ chính Tơng. Họ có địa bàn cư trú
ở lưu vực sơng Đa Dâng, nằm ở phía bắc B’Lao, trên địa phận các xã Lộc
Bắc, Lộc Lâm, thị trấn Đạ Tẻh thuộc huyện Bảo Lộc, Bảo Lâm, Đạ Tẻh.
Mạ Tô cư trú ở vùng thượng lưu sông La Ngà, nằm trên cao nguyên
huyện Bảo Lộc.
Mạ Krung là nhóm người Mạ ở vùng Bình Sơn Ngun. Họ có địa bàn
cư trú từ Tây Nam Bảo Lộc đến vùng Định Quán tỉnh Đồng Nai.
16


Mạ Xốp là người Mạ sống ở vùng đất phiến (Xốp có nghĩa là đất phiến)
thuộc địa phận xã Lộc Bắc và một phần của huyện Đạ Tẻh.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, nơi cư trú cũng như cơ cấu cộng
đồng dân tộc Mạ có những biến đổi nhất định, dẫn đến sự cư trú xen kẽ với
các đồng bào dân tộc khác.

[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225. Truy cập
ngày 10 tháng 2 năm 2011.
17


+ Dân tộc M’Nơng
Năm 1977, người Mnơng có số dân ở Lâm Đồng khoảng 4.687 người.
Người Mnông ở Lâm Đồng trước kia là một bộ phận của người Mnông ở
vừng Lạc Thiện, tỉnh Dak Lak di cư đến vùng núi Lâm Viên vào đầu thế kỉ
XX, khi thực dân Pháp mở rộng chinh phục các bộ lạc ở miền Nam Tây
Nguyên.
Cho đến hiện nay, theo tổng điều tra dân số đến năm 2009 có 9.099
người M’nơng tại Lâm Đồng, cư trú tập trung ở vùng thượng lưu sông Knông
Knô, nằm về phía Bắc cao nguyên LangBiang, thuộc địa bàn huyện Lạc
Dương, Đức Trọng và Lâm Hà[1].
Dân tộc M’nơng thuộc nhóm nhân chủng Anhđơnêdiên, có tầm vóc thấp,
nước da ngăm đen, mơi hơi dày, rau thưa, mắt nâu đen, tóc đen thẳng, nhiều
người có tóc uống cong.
Ngơn ngữ M’nơng thuộc nhóm nhân chủng Mơn khơ me ở miền núi phía
Nam, vốn từ vựng M’nông chịu sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, thuộc nhóm
Malayo – pơlinexia.
Trong q trình lịch sử phát triển, do địa bàn cư trú phân tán trên vùng
rừng núi hiểm trở, việc giao lưu giữa các vùng người M’nông rất khó khăn, vì
vậy đã chí người M’nơng thành nhiều nhóm địa phương như M’nơng Gar,
Mnơng Chil, M’nơng Nơng, Mnơng Prâng, M’Nơng Bu nor,....

Do có rất nhiều nhóm địa khác nhau, nên cộng đồng người M’nông
phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M’nông miền Đông, và phương
ngữ M’nông miền Tây. Sự khác nhau về 2 phương ngữ này không đáng kể,
giữa các phương ngữ đó đều dễ nghe và hiểu tiếng nói của nhau.

[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225.
18


+ Dân tộc Churu
Vào năm 1977, tại Lâm Đồng người Chu Ru có dân số là 7.906
người[1].
Theo các nhà nghiên cứu, trước đây thì người Chu Ru và người Chăm
cũng có những đặc điểm chung. Theo số đơng các cụ già người Chu Ru ở
Lâm Đồng, trước đây họ vốn là một nhóm con cháu của người Chăm đã từng
sinh sống ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, nhưng vì lý do lịch sử, một số
người phải rời bỏ quê hương để tìm vùng đất mới, những người di dân đầu
tiên ấy tự đặt cho mình là Chu Ru. Chính họ là những người mang theo nghề
làm ruộng và làm gốm đến những địa bàn cư trú chủ yếu hiện nay ở Đơn
Dương[2].
Hiên nay Người Chu Ru cư trú chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng (18.631 người,
Tại Lâm Đồng, Người Chu Ru sống tập trung tại huyện Đơn Dương, Đức
Trọng và Bảo Lâm, Lạc Dương. Đa số người Chu Ru nói theo ngơn ngữ
Malayo – poolinexia. Tuy nhiên do cư trú lân cận với người Cờ Ho, nên một
bộ phận của người Chu Ru cũng nói tiếng Cờ Ho, thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn
Khơ me.
 Lâm Đồng là một vùng dân cư – dân tộc có nhiều sắc thái phong phú,
tiêu biểu cho vùng Tây Nguyên. Với diện tích hạn hẹp so với các tỉnh khác ở
Tây Nguyên, nhưng mật độ dân cư Lâm Đồng lại gấp hai lần so với các tỉnh

Dak Lak, Gia Lai và Kon Tum.
Tóm lại là một vùng dân cư dân tộc đã và đang diễn ra những q trình
xã hội sâu rộng, có tác động đến mọi khía cạnh đời sống đời sống ở dịa
phương, nhất là đối với các đồng bào dân tộc thiểu số ít người.Vì vậy lâm
đồng là một trong những vùn dân cư có những đặc điểm tiêu biểu cho những
vùng dân tộc khác ở miền Nam Việt Nam về mặt quan hệ xã hội và những
biến động tộc người.
[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225.
[2] Nguyễn Văn Lợi, Sự phân loại và tình hình phân phối ngơn ngữ các dân tộc miền
Nam nước ta, tạp chí Ngơn ngữ học 1-1997, tr.50, 52)
19


2.3 Một số đặc trưng về dân số của các đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm
Đồng.
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,.. của các dân
tộc thiểu số tại ở Lâm Đồng, cùng với điều kiện sống, mức sống của các
dân tộc đồng bào thiểu đang dần được cải thiện trong những những năm
gần đây.
Số người khơng biết chữ ở Lâm Đồng vẫn cịn nhiều (năm 1979 có
65.574 người). Tuy vậy tỷ lệ biết đọc, biết viết trong vòng 10 năm(19791989) tăng lên từ 79,43% lên 84,22%. Tuy mức độ của người biết chữ không
tăng cao lắm nhưng vẫn được cải thiện tốt so với lúc trước. Nếu so với các
tỉnh Tây nguyên thì tỷ lệ người biết chữ ở Lâm Đồng còn khá hơn: năm 1989
ở Đắc Lắc tỷ lệ người biết chữ là 77,35%, Gia Lai Kontum là 55,66.
Trình độ văn hóa của dân cư từ 10 tuổi trở lên ở Lâm Đồng từ 1979 đến
nay được nâng cao rõ rệt. Đồng thời số người có trình độ cao đẳng, đại học
cũng tăng lên nhanh, từ l,52% lên 4,43% cho thấy công tác giáo dục, đào tạo
có nhiều tiến bộ trong giai đoạn 1979- 1989.
Trình độ văn hóa giữa nam và nữ có sự cách biệt khá lớn, tỷ lệ người đã

từng đến trường nam giới cao hơn nữ giới. Sự cách biệt này đang được thu
hẹp dần. Năm 1979, số người đã và đang học phổ thông của nam giới là
79,92%, còn ở nữ giới chỉ là 69,82%, đến năm 1989 tỷ lệ này của nam giới là
83, 12% và của nữ giới là 8 l%.
Nghề nghiệp của dân số phần lớn phụ thuộc vào các điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương. Lâm Đồng là một tỉnh nơng nghiệp, vì vậy phần lớn dân
số từ 13 tuổi trở lên có cơng việc chính là nơng nghiệp, chiếm 77,28% dân số. Các
ngành nghề phi nơng nghiệp cịn chiếm tỷ trọng thấp như: công nghiệp chiếm
7,0%, thương nghiệp chiếm 5,39%. Những năm gần đây tỷ trọng GDP trong nông
nghiệp giảm dần, tỉ trọng du lịch, dịch vụ và công nghiệp đang tăng dần lên.

20


Nam giới thường đảm nhận các công việc nặng hay có yêu cầu kỹ thuật
phức tạp như trong việc khai khống, cơ khí, điện-điện tử với tỷ trọng làm
việc là 2,05%. trong khi đó phụ nữ làm việc ở ngành này chỉ chiếm 0,09%.
Nữ giới, phần lớn làm các công việc ít nặng nề như trong ngành dược,
may mặc chiếm đến 4%, cịn nam giới ở ngành này chỉ có 0,72%, hoặc trong
nghề buôn bán, dịch vụ nữ giới làm việc chiếm 8,18%, còn nam giới chỉ
2,70%.
Từ những số liệu trên cho thấy đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các
nguwoif đồng bào thiểu số ở Lâm Đồng đang dần cải thiện dần trong những
năm gần đây, tuy không đáng kể nhưng cũng là một bước tiến mới cho các
đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây.
Hai là, các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng nói riêng và Tây Nguyên nói
chung, đang sống trong vùng có vị trí quan trọng chiến lược về chính trị,
kinh tế, an ninh, quốc phịng, mơi trường sinh thái của đất nước.
Lâm Đồng là một tỉnh có tiềm năng rất to lớn để phát triển cây công
nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc, mặt khác, với những cảnh đẹp của

thiên nhiên khí hậu ơn hịa mát mẻ, Lâm Đồng có nhiều khả năng để phát
triển nghành du lịch và là nơi nghỉ dưỡng khá hấp dẫn đối với nước ta như Đà
Lạt là một trong những thành phố có khí hậu ôn hòa mát mẻ, được coi là 1
trong những thành phố đã và đang phát triển với nhiều tiềm năng về du lịch
nghĩ dưỡng, có nhiều nét văn hóa độc đáo, hội tụ nhiều nền văn hóa của các
dân tộc thiểu số ở đây. Tạo nên một khu du lịch nổi tiếng mang đậm bản sắc
văn hóa.
Nhìn chung với địa hình, thiên nhiên và khí hậu như ở Lâm Đồng, sẽ có
nhiều hứa hẹn trong tương lai đối với các dân cư, dân tộc sinh sống tại đây.
Ba là, Lâm Đồng là nơi gặp gỡ của nhiều luồng dân cư, nơi giao lưu
văn hóa của nhiều tộc người, do vậy các tộc người Lâm Đồng và văn hóa
của cư dân Lâm Đồng là bức thảm nhiều màu sắc.

21


Sự Giao lưu ảnh hưởng văn hóa giữa các tộc người nội Lâm Đồng và với
sự tác động bên ngoài có ảnh hưởng nhiều mặt cả tích cực và tiêu cực. Tuy
nhiên trước nhất, giao lưu, ảnh hưởng góp phần thúc đẩy q trình xích lại
gần nhau và hiểu biết giữa các dân tộc, là tác nhân quan trọng thúc đẩy nhanh
q trình biến đổi văn hóa truyền thống các dân tộc, khiến cho nhiều hiện
tượng và giá trị văn hóa mới đã thâm nhập và phát huy tác dụng trong đời
sống, như về ngôn ngữ, chữ viết, giáo dục, khoa học, về ăn, mặc, ở, đi lại,
sinh hoạt văn hóa và vui chơi giải trí...
Tuy nhiên, do cường độ và phạm vi của giao lưu, ảnh hưởng mạnh mẽ,
đã tạo ra sự choáng ngợp, nhiễu loạn giữa cái mới và cũ, cái hiện đại và cái cổ
truyền. Có thể thấy được sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau tạo
nên sự phát triển hòa hợp nhưng cũng đem lại nhiều hạn chế(Trong một
chuyến đi thực tập khi làm về sự biến đổi về văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Đặc biệt là dân tộc Kho, nhiều văn hóa đã bị mai một và mất đi như cồng

chiêng nhiều nơi đã mất hoàn toàn…. Rồi về trang phục truyền thống, khi họ
chung sống cùng người Kinh thì trang phục của họ cũng khơng cịn mặc mà
thay vào đó là trang phục của người Kinh.)
Bốn là các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng có truyền thống đồn kết,
gắn bó lâu đời, đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm,
bảo vệ Tổ quốc.
Với truyền thống cách mạng lâu đời, nhất là trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, đã làm cho mối tình đoan kết giữa đồng bào anh
em các dân tộc trong khu vực Lâm Đồng, cũng như với tất cả các anh em dân
tộc khác bên ngoài ngày càng thêm gắn bó. Phong trào đấu tranh chống Pháp
của các dân tộc ít người ở Lâm Đồng và Tây Nguyên là sự tham gia tích cực
cuộc khởi nghĩa của Trương Cơng Định năm 1862 (khi Pháp chiếm đóng sáu
tỉnh Nam Bộ) của đồng bào Stiêng ở Sơng Bé và Biên Hịa, đồng bào Châu
ro, đồng bào Mnông ở Lâm Đồng, Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên đã
cùng với nghĩa quân người Việt và người Khơme tấn công quân Pháp ở tỉnh
22


lỵ tỉnh Tây Ninh, giết chết tên tỉnh trưởng La Clôse (Lar Clauze) và độ 10
ngày sau, tên trung tá Macsedơ đem một lực lượng viễn chinh khá mạnh đến
ứng cứu cũng bị nghĩa quân tiêu diệt gọn. Dựa vào địa thế rừng núi hiểm trở,
và nhất là sự giúp đỡ, đùm bọc của đồng bào các dân tộc ít người, nghĩa quân
của ta đánh Pháp hàng chục năm liền, tiêu hao nhiều sinh lực của chúng.Các
dân tộc dựa vào nhau với một tinh thần mới, tinh thàn đoàn kết tương trợ lẫn
nhau và bình đẳng thực sự. Đó là q trình hịa hợp dân tộc trong đại gia đình
các dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

23



×