Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.12 KB, 18 trang )

ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC
ĐÁNH NHANH THẮNG
NHANH CỦA THỰC DÂN
PHÁP


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 1
4. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2
6. Bố cục......................................................................................................... 2
1. Quá trình chuẩn bị những điều kiện cần thiết ............................................ 3
1.1. Thời gian chuẩn bị ............................................................................... 3
1.2. Đường lối của Đảng và Nhà Nước ...................................................... 6
1.3. Xây dựng thế trận lâu dài ..................................................................... 8
2. Diễn biến chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp........ 9
2.1. Nguyên nhân ........................................................................................ 9
2.2. Âm mưu ............................................................................................... 9
2.3. Diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947 ................................ 10
2.4. Kết quả ............................................................................................... 13
3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm .............................................................. 14
3.1. Ý nghĩa ............................................................................................... 14
3.2. Bài học kinh nghiệm .......................................................................... 14
4. Kết luận .................................................................................................... 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 16


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam trải qua hằng ngàn năm lịch sử đấu tranh chống giặc
ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Phải đối đầu với nhiều kẻ thù mạnh
song quân và dân ta không hề lùi bước mà luôn anh dũng, bất khuất đấu tranh
chống kẻ thù. Pháp, Mĩ, Nhật, Tưởng, những nước tư bản thực dân với âm
mưu xâm lược đất nước ta; nhưng dù cho chúng có hung tàn đến đâu cũng
đều thất bại trước tinh thần chiến đấu anh dũng của nhân dân ta. Và mở đầu
cho công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập dân tộc
là chúng ta đã đánh bại được chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của
Pháp. Và để hiểu rõ hơn quá trình chuẩn bị và đấu tranh chống Pháp trong
chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” thì nhóm chúng tôi đã chọn đề tài
“đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp “để nghiên
cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Khơng chỉ nhóm chúng tơi chọn chủ đề đánh bại “chiến lược đánh
nhanh thắng nhanh” của Pháp mà trước đó có rất nhiều bài báo, cơng trình
nghiên cứu, các cuốn sách viết về đề tài. Trên báo Đà Nẵng điện tử, nhân kỷ
niệm 70 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng báo đã viết về sự kiện:
Đánh bại chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp, bảo tàng
lịch sử Quốc gia có bài viết: Chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 – đánh bại
“chiến lược đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp vào ngày 9/10/2013, Lê Mậu
Hãn (chủ biên) (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam – Tập 3, Nxb Giáo dục,
Hà Nội,…
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đánh bại “chiến lược đánh nhanh thắng nhanh” của thực
dân Pháp
- Phạm vi: Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947

1



4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp sưu tầm và tổng hợp tài liệu: Thu thập các nguồn thơng
tin có chọn lọc từ internet và sách báo.
- Phương pháp phân tích: Phân tích về q trình chuẩn bị của ta, phân
tích tương quan lực lượng giữa ta và địch…
- Phương pháp liên ngành: Sự liên ngành giữa ngành Lịch Sử học và
Dân Tộc học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giúp hiểu rõ hơn quá trình chuẩn bị những điều kiện cần thiết của ta.
- Làm rõ được tương quan lực lượng giữa ta và Pháp.
- Nêu lên được âm mưu của Pháp khi thực hiện chiến lược “đánh nhanh
thắng nhanh”.
- Trình bày diễn biến của chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.
- Rút ra được ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm.
6. Bố cục
1. Quá trình chuẩn bị những điều kiện cần thiết
2. Diễn biến chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân
Pháp
3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
4. Kết luận

2


CHỦ ĐỀ
ĐÁNH BẠI “CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH”
CỦA PHÁP
1. Quá trình chuẩn bị những điều kiện cần thiết
1.1. Thời gian chuẩn bị

Đầu năm 1946, do Chính phủ Pháp đứng trước tình hình kiệt quệ về
kinh tế và bất ổn về chính trị, ngày càng phụ thuộc vào viện trợ của Mĩ; ở
Việt Nam, chúng vấp phải những cuộc đấu tranh ngoan cường của nhân dân
ta. Về phía Tưởng, đang gặp nhiều khó khăn với Hồng quân Trung Quốc. Do
đó, tại thời điểm nhạy cảm này, Pháp đã mưu tính kế hoạch mua bán quyền
lợi với Anh, Mĩ, Tưởng để được thay chân Anh ở Miền Nam và đưa quân ra
Bắc thay quân Tưởng.
Ngày 28/2/1946, Hiệp định Hoa – Pháp được kí kết ở Trùng Khánh.
Theo đó, Tưởng sẽ nhường quyền cho Pháp vào Bắc Đông Dương để giải
giáp quân Nhật. Đổi lại Pháp phải trao trả cho Trung Hoa các tô giới ở
Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu, Quảng Đông,…
Hiệp ước Hoa – Pháp là sự chà đạp thô bạo đối với độc lập chủ quyền tự
do của Việt Nam. Hiệp ước này đã đặt nhân dân ta trước hai sự lựa chọn:
1. Cầm súng đánh Pháp – tức là cùng một lúc phải đối đầu với hai lực
lượng.
2. Nhanh chóng đuổi quân Tưởng và bọn tay sai, tranh thủ thời gian để
củng cố và phát triển lực lượng.
Đứng trước tình hình đó, ngày 3/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng và quyết định chọn giải pháp
“Hòa để tiến”.
Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt được ký kết giữa
Jean Sainteny, đại diện Chính phủ Cộng hịa Pháp và Hồ Chí Minh cùng Vũ

3


Hồng Khanh, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung của
Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:
- Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp,

có chính phủ, nghị viện, qn đội và tài chính riêng.
- Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đồng ý cho 15.000 quân Pháp
vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm
nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5
năm, mỗi năm rút 3.000 quân.
- Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc thống nhất
với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời
để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và nước ngồi và những quyền lợi kinh tế và văn
hóa của Pháp ở Việt Nam.1
 Ý nghĩa của Hiệp định Sơ bộ
- Bản Hiệp định Việt - Pháp được đánh giá là khởi đầu lịch sử đấu tranh
ngoại giao của nước Việt Nam mới.
- Tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân tộc trong giai đoạn
đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Với Hiệp định này thì đã giúp cho ta nhanh chóng và khơng tốn sức
lực gạt được 180.000 quân Tưởng ra khỏi miền Bắc.
- Hiệp định Sơ bộ cũng góp phần làm giảm sức ép quân sự của Pháp đối
với lực lượng kháng chiến Nam Bộ khi đó.
- Vơ hiệu hóa được âm mưu của đối phương muốn tập trung lực lượng
bóp chết chính quyền non trẻ lúc đó đang thiếu thốn đủ bề.

1

/>A1p-Vi%E1%BB%87t_(1946)

4



- Ta có điều kiện tun truyền về chính nghĩa của ta và có thêm thời
gian quý báu để xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến dài lâu.
- Khẳng định một vị trí của ta ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế.
Hiệp định Sơ bộ đã mang lại một ý nghĩa hết sức quan trọng cho phía ta,
thế nhưng hiệp định chưa ráo mực thì thực dân Pháp đã bội ước. Chúng ra sức
phá hoại Hiệp định, gây chiến ở Nam Bộ, chiếm đóng trái phép và khiêu
chiến nhiều nơi tại Bắc Bộ; đồng thời trì hỗn cuộc đàm phán chính thức ở
Paris như đã cam kết.
Do đấu tranh kiên quyết của ta, cuộc đàm phán chính thức của hai chính
phủ được khai mạc ở Phơngtennơblơ, kéo dài hơn hai tháng nhưng cuối cùng
cũng bị thất bại. Trong khi đó ở Đơng Dương qn Pháp đang tăng cường
khiêu khích, quan hệ Việt – Pháp đang ngày càng căng thẳng và nguy cơ xảy
ra chiến tranh là không thể tránh khỏi.
Để cứu vãn tình hình thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đang là khách của Chính
phủ Pháp, vào đêm 14/9/1946 người đã kí với Pháp Bản Tạm ước với 14 điều
khoản quy định về các vấn đề:
- Đình chỉ chiến sự ở miền Nam.
- Thời gian tiếp tục đàm phán Pháp – Việt vào đầu năm 1947.
- Quan hệ tạm thời về kinh tế và văn hóa giữa hai nước.
Với sự nhượng bộ một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa cho Pháp đây
được xem là sự nhượng bộ cuối cùng mà ta giành cho Pháp.
 Ý nghĩa của Bản Tạm ước:
- Tạm ước 14/9 tôn trọng tinh thần và một số điều khoản của Hiệp định
Sơ bộ 6/3, tạo thêm thời gian hịa hỗn q báu cho chính quyền cách mạng
non trẻ chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
- Đây là một thắng lợi tiếp theo về ngoại giao của chúng ta, nó góp phần
nâng cao uy thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Hai bên cùng có lợi từ Tạm ước này, nếu Pháp thật sự tôn trọng Tạm
ước và nghiêm túc tìm kiếm một hiệp định đầy đủ thì tình hình hồn tồn có
5



thể phát triển theo hướng tích cực, tránh được chiến tranh, mở ra một thời kỳ
mới tươi sáng trong lịch sử quan hệ hai quốc gia và người Mỹ sau này sẽ ít
điều kiện can thiệp vào Việt Nam.
Như vậy, trong hồn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng ta đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự linh hoạt, sáng suốt, táo bạo, khôn khéo để
giải quyết tất cả mọi khó khăn nhằm giữ vững chính quyền nhân dân và chuẩn
bị cho một cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài mà Người biết không thể nào
tránh khỏi.
1.2. Đường lối của Đảng và Nhà Nước
Đứng trước sự phản bội và nhiều hành động gây chiến, phá hoại của
Pháp thì phía bên ta đã vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự, chính trị, kinh
tế, tài chính vừa ra sức chiến đấu chống quân địch. Đảng và Chính phủ kêu
gọi đồng bào cả nước bình tĩnh kéo dài thời gian hịa hỗn có lợi cho ta.
Nhưng khi sự khiêu khích của giặc đã đến mức tột cùng thì buộc chúng ta
phải cầm vũ khí kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do.
Trong hai ngày 18 - 19/ 12/1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định phát động cuộc toàn quốc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đề ra 2 đường lối kháng chiến.
Sáng ngày 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã gửi cho
các mặt trận và các khu bức điện có đoạn: “Giặc Pháp đã hạ tối hậu thư địi
tước vũ khí của qn đội, tự vệ và cơng an ta. Chính phủ đã bác tối hậu thư
ấy. Như vậy chỉ trong 24 giờ là cùng chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị
của Trung ương là: “Tất cả hãy sẵn sàng”. 2
Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi tồn quốc
kháng chiến”: “…Bất kì đàn ơng hay đàn bà, bất kì người già, người trẻ,

Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân – Nxb
Thanh niên, Hà Nội, Tr.26.

2

6


không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh Pháp để cứu Tổ quốc…”.

Nội dung “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sơng đất
nước, là mệnh lệnh cách mạng tiến công, giục giã và soi đường chỉ lối cho
nhân dân Việt Nam đứng dậy cứu nước với một ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh” và một thái độ chính trị dứt khốt, kiên định “Thà hi sinh tất cả
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Đúng 20h03 ngày 19/12/1946, đèn điện toàn thành phố phụt tắt, pháo
đài Láng (Hà Nội) nổ súng phát ra hiệu lệnh tổng tiến qn, chính thức báo
hiệu cuộc chiến tranh Đơng Dương lần thứ nhất bắt đầu. Tối 20h30, Chính
phủ Việt Nam đã phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Bộ trưởng Quốc
Phòng – Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh chiến đấu:
“Tổ quốc lâm nguy!
Giờ chiến đấu đã đến, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân
danh Bộ trưởng Bộ Quốc phịng – Tổng chỉ huy, tơi hạ lệnh cho tồn thể bộ
7


đội, vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung – Nam – Bắc phải nhất tề đứng
dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước, hi sinh chiến đấu đến giọt
máu cuối cùng, tiêu diệt thực dân Pháp.
Quyết chiến!”

Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” (4/1947) của Tổng bí thư
Trường Chinh đã nêu bật được đường lối kháng chiến của Đảng “kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự giúp đỡ của
nước ngoài”.
1.3. Xây dựng thế trận lâu dài
 Mặt trận chiến đấu
- Tổng di chuyển lên Việt Bắc:
Với sự đấu tranh dũng cảm của dân quân tự vệ, chiến sĩ tại thủ đô cũng
như các tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan đầu não của ta di chuyển
lên căn cứ Việt Bắc.
Cuối tháng 11 đầu tháng 12/1946, các thành phố, địa phương đều đã
được lệnh di chuyển các kho tàng, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất vũ khí ra
ngoại thành, về nơng thơn, lên rừng núi, đề phòng chiến sự lan rộng.
Từ sau đêm 19/12/1946, tiến hành đợt “tổng di chuyển” triệt để, rộng
lớn.
Quân chính quy Việt Minh cũng được lệnh rút khỏi Hà Nội để bảo toàn
lực lượng, chỉ để lại các đơn vị tự vệ chiến đấu, công an xung phong và vệ
quốc đoàn phối hợp với nhân dân Hà Nội tổ chức đánh trả và kìm chân quân
Pháp.
Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, Bộ tổng
chỉ huy di chuyển lên khu an toàn Việt Bắc tất cả đều được “đội công tác đặc
biệt” do ông Trần Đăng Ninh Uỷ viên Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ huy,
nghiên cứu xác định từ trước.

8


Tại căn cứ Việt Bắc, phía quân giới của ta đã chuyển lên căn cứ 4 vạn
tấn máy móc, vật tư ngun liệu, lập bình cơng xưởng chế tạo vũ khí; các nhà

máy, bệnh viện được di dời lên căn cứ, các y bác sĩ vừa nghiên cứu vừa tham
gia chiến đấu trong đó có bác sĩ Đặng Việt Ngữ đã chế tạo thành công thuốc
kháng sinh; về quân sự có giáo sư Trần Đại Nghĩa người con ưu tú của dân
tộc đã có cơng chế tạo một số loại vũ khí phục vụ cho chiến đấu.
- Tiêu thổ kháng chiến: Tại các thành phố, địa phương thì quân ta đã đốt
lương thực, phá các phương tiện trọng yếu, giao thông, liên lạc, kỷ nghệ…
Chúng ta “phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho quân Pháp không lợi dụng
được” và đã kìm chân địch tại đây.
 Mặt trận xây dựng
Bên cạnh xây dựng thế trận chiến đấu thì quân và dân ta cũng ra sức
củng cố trên mặt trận xây dựng.
Đảng và Chính phủ ta đã thức tỉnh nhân dân ta hướng về kháng chiến.
Do yêu cầu về lương thực cho kháng chiến nên việc sản xuất được duy trì, các
phong trào bình dân học vụ, y tế, văn hóa vẫn được đảm bảo. Bên cạnh đó ta
cũng xây dựng các cơ sở chính trị trong các thành thị, thị trấn tạm chiến.
Tất cả những hoạt động trên đã giúp cho ta giành được thế chủ động sẵn
sàng đối phó với cuộc tiến công của kẻ thù.
2. Diễn biến chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp
2.1. Nguyên nhân
Trước những thắng lợi của ta trên mặt trận chiến đấu và mặt trận xây
dựng, trong khi đó thực dân Pháp lại gặp phải những khó khăn về mọi mặt,
thêm vào là gánh nặng của cuộc chiến tranh Đông Dương.
→ Thực dân Pháp thấy cần phải kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược
bằng một “cuộc chiến tranh chớp nhoáng”.
2.2. Âm mưu
Với dã tâm cướp nước ta lần nữa, đầu năm 1947, Pháp chuyển sang
chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” nhằm mau chóng kết thúc chiến tranh.
9



Giữa năm 1947, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn
bị kế hoạch tiến công lên Việt Bắc nhằm mục tiêu:
+ Chụp bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến
+ Đánh quỵ bộ đội chủ lực Việt Nam + Triệt phá căn cứ địa Việt Bắc
+ Khóa chặt biên giới Việt – Trung
Kế hoạch này do tướng Salăng vạch ra và được Chính phủ Pháp phê
chuẩn tháng 7/1947.
2.3. Diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947
Việt Bắc là một liên khu nằm ở phía Bắc của Bắc Bộ, bao gồm 17 tỉnh
(Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà
Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai,
Quảng Yên, Hải Ninh, Tuyên Quang) và châu Mai Đà.
Địa hình chủ yếu là rừng núi, một phần trung du. Rừng núi Việt Bắc
trùng điệp, địa hình hiểm trở, đường bộ và đường thuỷ ít và độc đạo.
Phía đơng bắc có đường số 4 chạy dọc theo biên giới Việt - Trung từ Móng
Cái đến Cao Bằng. Đường số 3 từ Hà Nội chạy lên giữa lòng chiến khu Việt
Bắc, đi Thái Nguyên, lên Bắc Cạn và tới Cao Bằng. Đường số 2 từ Hà Nội lên
Việt Trì, Phú Thọ, tới Tuyên Quang, Hà Giang. Đường thuỷ dọc sơng Hồng
lên ngã ba Việt Trì, rẽ theo sơng Lơ lên Tun Quang, rẽ theo sơng Gâm tới
Chiêm

Hố.

Khí hậu Việt Bắc khắc nghiệt, mùa đông lạnh giá, mùa hè nắng nóng mưa
nhiều.
Với điều kiện tự nhiên của Việt Bắc đã mang lại những thuận lợi và khó khăn
cho ta cũng như cho quân địch.
2.3.1. Sự tương quan lực lượng giữa Việt Nam – Pháp
2.3.1.1. Về phía Việt Nam
 Khó khăn


10


Về kinh tế, nông nghiệp lạc hậu, hậu quả chiến tranh càng làm kiệt quệ.
Do sự bao vây cấm vận của các nước đế quốc nên các nước ta chưa được các
nước dân chủ trên thế giới công nhận.
Về quân sự, phía Việt Minh thì lực lượng qn đội trên tồn quốc có
105.990 người (Bắc Bộ có 45.802 người); biên chế thành 20 trung đồn, có
hai trung đồn 147 và 165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của
Bộ. Trang bị của các đơn vị đều thiếu thốn và khơng thống nhất, có gì dùng
nấy. Một tiểu đoàn thường chỉ được trang bị tương đương với 1 đại đội của
Pháp, với 2 đại liên, 1-2 súng cối 60mm, tám trung liên, 140 đến 160 súng
trường đủ các kiểu (Nhật, Nga, Pháp); hơn một nửa quân số phải dùng các vũ
khí thơ sơ như súng kíp tự chế và cả gươm giáo, cung tên... Chỉ có một số tiểu
đồn của Bộ là có pháo 20mm, trung liên 13,2 mm, 12,7 mm và súng cối
81mm. Vũ khí chống tăng thì rất thơ sơ (chỉ có duy nhất 2 thứ đó là lựu đạn
và bom ba càng), xe cơ giới và phi cơ thì khơng hề có.
 Thuận lợi
Điểm mạnh duy nhất là tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian
khổ hy sinh của bộ đội và sự hỗ trợ, đùm bọc của nhân dân địa phương cùng
với sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng và Nhà nước.
2.3.1.2. Về phía Pháp
 Thuận lợi:
Có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lâu đời; lực lượng tham chiến là quân
nhà nghề được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, vừa thắng
trận trong thế chiến thứ II. Được sự ủng hộ của Anh và Mĩ nên tiềm lực kinh
tế và quân sự càng thêm mạnh.
Lực lượng Pháp tham gia tiến cơng trên 15 nghìn quân, gồm:
Năm trung đoàn bộ binh: Trung đoàn Maroc số 6, trung đoàn bộ binh

thuộc địa Maroc (RICM), trung đoàn bộ binh thuộc địa số 4 (4e - RIC), trung
đoàn bộ binh Lê dương số 3 (3e REI) và một trung đồn do Cơ-xtơ (Coste)
chỉ huy.
11


Ba tiểu đoàn dù, hai tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đồn cơng binh, ba đại
đội cơ giới,
Hai phi đội với 40 máy bay, ba thuỷ đội xung kích với 40 tàu, xuồng.
 Khó khăn:
Vì đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa nên đã vấp phải sự phản ứng ngày
càng mạnh mẽ của nhân dân chính quốc cũng như thế giới. Do cuộc chiến
tranh xâm lược diễn ra cách xa nước Pháp nên việc tiếp tế lương thực thực
phẩm, vũ khí đạn dược gặp rất nhiều khó khăn. Tuy là nước thắng trận trong
thế chiến thứ II nhưng kinh tế nước Pháp cũng sa sút nhiều, chính trị xã hội
cũng bất ổn. Giới cầm quyền Chính phủ Pháp bấy giờ luôn phải đối mặt với
phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của lực lượng dân chủ tiến bộ ở
chính quốc.
2.3.2. Diễn biến

Lược đồ diễn biến chiến dịch biên giới Việt Bắc 1947
12


Theo kế hoạch đã định trước, địch chia thành 3 cánh qn tấn cơng Việt
Bắc:
Ngày 7/10/1947, binh đồn dù do Xôvanhắc chỉ huy lần lượt đổ quân
xuống thị xã Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn. Cùng ngày, binh đoàn cơ giới do
Bôphơrê chỉ huy từ Lạng Sơn ngược đường số 4 lên Na Sầm, Thất Khê đánh
lên Cao Bằng rồi vịng xuống Bắc Kạn.

Ngày 9/10, một binh đồn hỗn hợp bộ binh và lính thủy đánh bộ do
Commuyan chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng sông Lô lên Tuyên Quang,
Chiêm Hóa để đánh vào Đài Thị.
Ngay sau khi địch tổ chức tấn công Việt Bắc, ngày 15/10/1947, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị: “Phải phá tan cuộc tấn cơng mùa
đơng của giặc Pháp”. Sau đó ta triển khai lực lượng đánh địch trên 3 mặt
trận:
Mặt trận sơng Lơ – Chiêm Hóa: Qn ta chặn đánh địch hàng chục trận,
nổi bật là các trận Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau, đánh đắm nhiều tàu
chiến, ca nô và diệt địch.
Mặt trận đường số 4: Quân ta đánh nhiều trận phục kích, đặc biệt là trận
Bơng Lau ngày 30/10/1947 phá hỏng nhiều xe của giặc, diệt nhiều địch, thu
nhiều vũ khí.
Mặt trận đường số 3: Quân ta đánh phục kích, tập kích, địa lơi trên 20
trận lớn nhỏ ở Chợ Mới, Chợ Đồn,…
Các gọng kìm của Pháp lần lượt bị bẻ gảy, buộc chúng phải rút chạy
khỏi Việt Bắc.
2.4. Kết quả
Quân ta đã loại khỏi chiến trường hơn 7.200 tên địch, bắn rơi 18 máy
bay, đánh chìm 54 tàu, xuồng, phá hủy 255 xe các loại, thu 25 khẩu pháo, hơn
200 súng bộ binh, quân ta hy sinh 260 người, bị thương 168 cán bộ, chiến sĩ.
Tuy vẫn kiểm soát được tuyến biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn và
chiếm đóng một số nơi, phá hủy một số kho tàng, làng bản của ta, nhưng thực
13


dân Pháp vẫn không đạt được những mục tiêu chiến lược đã đề ra. Cơ quan
đầu não của ta được bảo vệ an toàn.
→ Sau 75 ngày chiến đấu anh dũng và quyết liệt, chiến lược “đánh
nhanh thắng nhanh” của Pháp đã bị ta đánh bại, buộc Pháp phải rút lui và

bảo vệ vững chắc được độc lập tự do dân tộc.
3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
3.1. Ý nghĩa
- Đây là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của ta giành được thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Chiến thắng này đã chứng minh sự đúng đắn về đường lối kháng chiến
lâu dài của Đảng, chứng minh sự vững chắc của căn cứ Việt Bắc.
- Tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân và sự đoàn kết dân tộc.
- Sau chiến thắng ta có thêm điều kiện để xây dựng và phát triển lực
lượng kháng chiến “tồn quốc, tồn dân, tồn diện, trường kì, tự lực cánh
sinh”.
- Căn cứ Việt Bắc vẫn giữ vững, bộ đội chủ lực ngày càng trưởng thành.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai đoạn mới: Pháp buộc
phải chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh lâu dài” với ta.
- Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc đã chứng tỏ rằng lực lượng của ta
ngày càng hùng mạnh, lực lượng của địch ngày càng suy yếu, cuộc chiến thay
đổi theo chiều hướng có lợi cho ta.
3.2. Bài học kinh nghiệm
- Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến tồn dân, tồn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong tồn Đảng tồn dân. Cụ thể là “lấy
ngắn nuôi dài, lấy chiến tranh nhân dân chống lại chiến tranh đế quốc”.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, chủ động đề
ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng
tạo.

14


- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu quả
lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

4. Kết luận
Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 (từ 7/10/1947 đến
22/12/1947) là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt
Nam trong chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng
chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của Việt Minh, lập ngụy quyền toàn quốc và
đặt ách thống trị thực dân trên toàn bộ nước Việt Nam: đồng thời khóa chặt
biên giới Việt – Trung, ngăn chặn đường liên lạc giữa Việt Nam và quốc tế.
Với quá trình đấu tranh gian khổ và hi sinh của quân và dân ta đã đánh
bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp. Chiến thắng này đã đánh
dấu một mốc son trong lịch sử chống Pháp của dân tộc.
Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947, làm phá tan kế hoạch “tấn cơng
chớp nhống” để kết thúc chiến tranh của Pháp. Một lần nữa chứng minh
đường lối và sự chỉ đạo kháng chiến của Đảng là đúng đắn, đánh dấu bước
trưởng thành mới của quân đội ta, đã đưa quân ta từ thế phòng ngự bị động
lên thế giằng co trên chiến trường với thực dân Pháp.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội
nhân dân – Nxb Thanh niên, Hà Nội.
2. Lê Mậu Hãn (Chủ biên) 2001, Đại cương lịch sử Việt Nam tập 3, Nxb
giáo dục Hà Nội.
3. Bùi Thị Thoa (2017), bài giảng tóm tắt Lịch sử hiện đại Việt Nam,
Trường Đại học Đà Lạt.

16




×