Môn học: NHỮNG PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TRƯỚC CHỦ NGĨA
TƯ BẢN
Đề tài:
Ý KIẾN CÁ NHÂN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM TRƯỚC THỜI PHÁP THUỘC
Phương thức sản xuất là một khái niệm trong học thuyết duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Maxr. Nó có nghĩa nôm na là "cách thức của sản xuất". Theo
Marx, nó là tổ hợp hữu cơ cụ thể của: Lực lượng sản xuất: bao gồm lực lượng
lao động, công cụ và thiết bị lao động, nhà xưởng, công nghệ, nguyên vật liệu
và đất đai được sử dụng. Quan hệ sản xuất bao gồm các quan hệ sở hữu, các
quan hệ kiểm soát và phân chia các tài sản đã được sản xuất trong xã hội,
thông thường được đưa ra trong các hình thức của luật, lệ và các quan hệ giữa
các giai cấp xã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx-Lenin rất quan tâm đến
các vấn đề phương thức sản xuất trong lịch sử tiến hoá của nhân loại. Marx và
Engles trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” viết năm 1845 – 1846, nói rằng
trướng chủ nghĩa tư bản xã hội loài người đã trải qua 3 phương thức sở hữu
cơ bản. “Hình thức sở hữu đầu tiên là hình thức sở hữu Bộ lạc. Nó phù hợp
với giai đoạn chưa phát triển sản xuất, khi người ta sống bằng săn bắn và
đánh cá, bằng chăn nuôi hay nhiều lắm bằng trồng trọt”. “Hình thức sở hữu
thứ hai là hình thức sở hữu cơng xã và sở hữu nhà nước tồn tại trong thời cổ
và ra đời chủ yếu từ sự tập hợp-bằng hiệp ước hay bằng chinh phục – nhiều
Bộ lạc thành một Thị tộc và chế độ nơ lệ vẫn tồn tại ở đó”. “Hình thức sở hữu
thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp. Nếu điểm xuất phát của
thời cổ đại là thành thị và lãnh thổ nhỏ của nó thì điểm xuất phát của thời
trung cổ lại là nông thôn trái với Hy lạp và Rôma, sự phát triển phong kiến
bắt đầu trên một địa vực rộng hơn nhiều Những thế kỷ cuối cùng của Đế quốc
Rôma suy tàn và cuộc chinh phục đế quốc đó bỡi những người dã man đã phá
huỷ một khối lớn những lực lượng sản xuất Đướ ảnh hưởng của chế độ quân
sự của người Giéc manh thì hồn cảnh vốn có đó và cách thức tổ chức trinh
phục do hồn cảnh đó đẻ ra, đã phát triển chế độ sở hữu phong kiến”.
Phương thức sản xuất là một khái niệm trong học thuyết duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác. Bao gồm lực lượng sản xuất: công cụ lao động và thiết bị
lao động, nhà xưởng, công nghệ, nguyên vật liệu và đất đai sử dụng.
Quan hệ sản xuất bao gồm các quan hệ sỡ hữu, các quan hệ quan sát và
phân chia các tài sản được sản xuất trong xã hội, thông thường đưa ra trong
các hình thức của luật, lệ và các quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội.
1
Ý kiến của Leenin trong tác phẩm “Bàn về nhà nước” viết năm 1919
nói rõ ràng và thốt hơn:
“Sự tiến hóa của tất cả các xã hội lồi người qua hàng nghìn năm, ở tất cả
nước, khơng trừ nước nào cả, đã chỉ cho chúng ta thấy tính quy luật chung.
Xác định,tính qn triệt của sự tiến hóa đó: Bắt đầu từ một xã hội khơng có
giai cấp, một xã hội gia trưởng sơ khai, ngun thủy khơng có q tộc, sau
đến là chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ… tiếp sau hình thái đó, có một hình thái
khác lịch sử, chế độ nông nô…”
Các quan điểm về phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam
Từ lâu vấn đề phương thức sản xuất châu Á đã trở thành đề tài nghiên
cứu và tranh luận của giới nghiên cứu Mác xít ở nhiều nước trên thế giới.
Nhằm mục đích làm sáng tỏ chủ nghĩa Mác – Lê nin về sự phát triển của xã
hội, lý giải hàng loạt các vấn đề đang được đặt ra trong lịch sử nhân loại, đó là
con đường phát triển và xây dựng xã hội của các nước Á, Phi, Mỹ la tinh đã
và đang thoát ra khỏi ách thống trị của đế quốc chủ nghĩa, vấn đề phương
thức sản xuất châu Á ngày càng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu Mác
xít ở nhiều nước, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước phát triển phi tư bản và
cả các nước tư bản chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, sau khi miền Bắc được giải phóng hịan tịan (năm 1954),
đất nước ta đối mặt với khơng ít những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã
hội…trong khi đó vấn đề nơng dân và nơng thơn trở thành vấn đề nổi trội.
Cho nên, tìm hiểu làng xã – nông thôn Việt Nam hiện nay cái gì là do lịch sử
xa xưa để lại kể cả mặt tích cực và tiêu cực, đều là bổ ích cho việc cải tạo và
xây dựng chủ nghãi xã hội.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với
đặc điểm của nước ta thì việc nghiên cứu về phương thức sản xuất châu Á nói
chung và phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam nói riêng là rất quan
trọng. Để từ đó chúng ta có thể tìm ra được những di sản tích cực và tiêu cực
của phương thức sản xuất châu Á và đề ra những biện pháp khắc phục hiệu
quả.
2
Nghiên cứu về phương thức sản châu Á, đó là nhiệm vụ đặt ra để nhận
thức lịch sử, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước cịn
mang nhiều tàn dư của xã hội phương đơng cổ đại. Để từ đó có được đánh giá
một cách khoa học và có thái độ, biện pháp xử lý đúng mức. Khơng nhưng
thế, nhiệm vụ đó cịn góp phần làm phong phú học thuyết Mác – Lênin về con
đường phát triển xã hội từ vị trí một nước phương Đơng của mình.
Từ sau năm 1959, hàng loạt các vấn đề về lịch sử Việt Nam đã được
nghiên cứu, trong đó vấn đề lịch sử cổ đại và truyền thống dân tộc được đề
cập đến một cách khá tích cực. Trong giới nghiên cứu bấy giờ, một trong
những người đầu tiên bàn về vấn đề này là Nguyễn Hồng Phong. Dưới góc độ
dân tộc học, Nguyễn Hồng Phong đã viết tác phẩm “xã thôn Việt Nam”
(1959). Với tác phẩm này, mặc dù không nhắc đến phương thức sản xuất châu
Á nhưng tác giả đã đề cập đến nội dung cơ bản của phương thức sản xuất
châu Á là “chú trọng nghiên cứu về những dấu vết của tổ chức xã hội nguyên
thuỷ - công xã thị tộc và công xã nơng thơn cịn tồn tại trong xã thơn Việt
Nam trong cơ sở kinh tế cũng như trong tổ chức xã hội và ý thức tư tưởng”.
Và khẳng định rằng: “đặc điểm của xã hội phương Đông cổ đại là sự tồn tại
rất lâu của cơng xã nơng thơn…”. Cịn ở Việt Nam, Ông cũng khẳng định rõ :
“tới thời Pháp thuộc, trước cách mạng Tháng 8. Trong xã thôn ở Việt Nam
vẫn cịn tồn tại rất nhiều di tích của xã hội nguyên thủy, cụ thể là những di
tích của công xã thị tộc và công xã nông thôn, nhất là công xã nông thôn”.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, vào những năm 1959 – 1960 nhiều
cuộc hội thảo khoa học được mở ra và gây nhiều tranh cải sôi nổi. Bên cạnh
cuộc thảo luận về vấn đề có hay khơng có chế độ chiếm hữu nơ lệ ở Việt
Nam, cịn xuất hiện cơng trình nghiên cứu về xã thôn Việt Nam và tiếp theo là
hàng loạt luận văn, cơng trình mang tính chất thơng tin, hoặc trực tiếp đề cập
đến vấn đề phương thức sản xuất châu Á, về công xã nông thôn, đặc biệt từ
năm 1968 trở đi, vấn đề này được đề cập rộng rãi và có hệ thống.
Hàng loạt các cuộc thảo luận về phương thức sản xuất châu Á ở Liên
xô (1929 - 1921), (1964-1965), ở Pháp (1962-1963) và nhiều cơng trình
nghiên cứu khác của các học giả trên thế giới đã chứng minh điều đó.
3
Tuy nhiên, cho tới nay, các cuộc thảo luận về phương thức sản xuất
châu Á vẫn chưa kết thúc, các ý kiến về phương thức sản xuất châu Á vẫn cịn
phân tán.
Qua tác phẩm Xã thơn Việt Nam, ta thấy từ năm 1959 đặc điểm của xã
hội phương Đông cổ đại nói chung, của Việt Nam nói riêng, được nhìn nhận
dưới ánh sáng của lý thuyết phương thức sản xuất châu Á và được đề cập một
cách cơ bản.
Với sự khẳng định phương thức sản xuất châu Á đã từng tồn tại trong
lịch sử xã hội Việt Nam, Nguyễn Hồng Phong đã nêu lên được những vấn đề
cơ bản mang tính chất khởi đầu cho việc thảo luận về phương thức sản xuất
châu Á ở Việt Nam.
Sau khi tác phẩm Xã thôn Việt Nam ra đời một năm, ở Việt Nam một
cuộc thảo luận về chế độ chiếm hữu nô lệ được mở ra. Trong cuộc thảo luận
này, vấn đề có hay khơng có chế độ chiếm hữu nơ lệ ở Việt Nam tiếp tục
được thảo luận. Những nhà nghiên cứu đã cố gắn vận dụng học thuyết Mácxít
về 5 hình thái kinh tế xã hội để lý giải vấn đề này, để làm sáng tỏ đặc điểm
của xã hội Việt Nam Cổ đại. Mặc dù phương thức sản xuất châu Á không
được trực tiếp đề cập đến, nhưng qua kết quả thảo luận ngiều người đã sớm
phát hiện ra rằng ở phương Đông Cổ đại, cụ thể là trong lịch sử Việt Nam Cổ
đại quá trình phát triển xã hội có nhiều nét đặc thù mà sơ đồ 5 hình thái kinh
tế khơng bao qt nổi.
Đến đây, sự lúng túng, bế tắc của việc áp dụng lý thuyết sơ đồ 5 hình
thái kinh tế vào lý giải lịch sử xã hội Việt Nam Cổ đại đã thôi thúc giới
nghiên cứu đi sâu hơn nữa để tìm ra một chìa khoá để giải đáp về xã hội Việt
Nam Cổ đại.
Cũng là một trong những người quan tâm nghiên cứu về phương thức
sản xuất châu Á ở Việt Nam, và cũng là người có cùng quan điểm với Lê
Hồng Phong về vấn đề phương thức sản xuất châu Á. Lê Kim Ngân, vào các
năm 1974 – 1975, là một trong những người tham gia nghiên cứu đề tài
“Nông thôn Việt Nam” và qua nhiều cơng trình nghiên cứu khác. Cho đến
năm 1976, trong hội nghị khoa học về xã hội Việt Nam thời Lý Trần, Lê Kim
Ngân mới trình bày cụ thể quan điểm của mình về phương thức sản xuất châu
4
Á. Lê Kim Ngân cho rằng nền kinh tế công xã ở thê kỷ X – XI nằm trong
phạm trù phương thức sản xuất châu Á. Xã hội đó gồm hai giai cấp cơ bản:
giai cấp nông dân công xã là giai cấp bị bốc lột và giai cấp quý tộc là giaic ấp
hưởng sản phẩm thặng dư của công xã. Tác giả đi đến kết luận: “kết cấu kinh
tế của xã hội Việt Nam ở thế kỹ X-XII là kết cấu kinh tế Á Châu tiền phong
kiến”. Mặc khác, tác giả còn cho rằng xã hội Việt Nam chuyển sang giai đọan
Á Châu phong kiến hóa mạnh mẽ vào thế kỷ XIV.
Mặc dù quan điểm này của Lê Kim Ngân mang tính chất tiến bộ.
Nhưng vẫn gây ra nhiều tranh cải của nhiều khuynh hướng khác nhau.
Bước đầu năm 1951 về sau các nhà sử học Việt Nam đã quan tâm đến
việc giải thich về hình thái kin tế xã hội Việt Nam trước thời pháp thuộc. Từ
đó, các nhà sử học Việt Nam đã nêu ra các ý kiến của mình. Vấn đề các ý
kiến có thể chia thành 3 giai đoạn.
+ Giai đoạn từ 1951- 1960:
Thời kỳ này, chỉ có một số bài viết lẻ tẻ, hoặc đăng trên các tạp chí Văn
Sử Địa, hoặc đăng trên các sách lịch sử. Người đầu tiên viết về vấn đề hình
thái kinh tế xã hội Việt Nam trước thời Pháp thuộc là ông Đào Duy Anh.
+ Giai đoạn 2 (là năm 1960):
Năm 1960, đã diễn ra một cuộc tranh luận giữa Viện Sử học và Trường
Đại Học Tổng Hợp Hà Nội về vấn đề “Có hay khơng có chế độ chiếm hữu nô
lệ ở Việt Nam.
Cuộc tranh luận dưới hình thức là các bài cáo tại Hội nghị đã thu hút rất
nhiều nhà nghiên cứu. Trong các hội nghị đó, tập trung các ý kiến, ta thấy có
hai phái, đó là: phái của Viện Sử học và phái của Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội.
Phái Viện Sử học, tiêu biểu là nhà Sử họcVăn Tân, phái này chủ trương
rằng: Việt Nam đã tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ.
Phái Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, người phát biểu chính là ơng
Trần Quốc Vượng, phái này chủ trương là: Việt Nam không tồn tại chế độ
chiếm hữu nô lệ.
5
+ Giai đoạn 3 (1982):
Năm 1982, trên các tạp chí Nghiên cứu Lịch sử đã đăng nhiều bài viết
của các nhà Sử học, tiêu biểu là giáo sư Nguyễn Hồng Phong. Nội dung của
các bài phát biều là Việt Nam đã từng tồn tại phương thức sản xuất châu Á.
Trong các bài viết của các tác giả ba giai đoạn nói trên, về xã hội Việt
Nam trươc thời Pháp thuộc đã từng tồn tại phương thức sản xuất nào? Nhìn
chung, ý kiến của các nhà sử học có thể chia thành 4 loại như sau:
Trước thời Pháp thuộc, Việt Nam đã trải qua thời nguyên thủy rồi tiến
lên chế độ chiếm hữu nô lệ, rồi lên chế độ phong kiến.
Ý kiến của các nhà Sử học tiêu biểu như: Văn Tân, Minh Tranh,
Nguyễn Đổng Chi, Đào Duy Anh, Nguyễn Lương Bích, Mạc Đường.
Trong các số ý kiến của các nhà sử học nói trên, tiêu biều là ơng Văn
Tân. Ơng Văn Tân chủ trương rằng, Việt Nam đã từng trải qua chế độ chiếm
hữu nơ lệ.
Ơng Văn Tân đã căn cứ trong truyện “Họ Hồng Bàng” có nhăc đến nơ
lệ. Căn cứ thứ hai, là ông cho rằng thời kỳ này đồ đồng đã phát triển. Có đồ
đồng có nghĩa là có người khai thác đồng và người luyện đồng mà họ là
những người nô lệ. Căn cứ thứ ba, là ông cho rằng là Loa Thành được xây
dựng từ thời Âu Lạc phải là do sức lao động của nô lệ xây. Căn cứ thứ 4, là
đến thời Lý – Trần quan hệ nô lệ rất phát triển. Căn cứ thứ 5, là các nươc
xung quanh Việt Nam lúc bấy giờ như: Trung Quốc, nước (tỉnh Vân Nam
Trung Quốc ngày nay) đã từng có chế độ nơ lệ và ở phía Nam là các nước
Chiêm Thành, Chân Lạp cũng có nơ lệ, vì vậy, khơng có một lý do gì mà Việt
Nam ở giữa khơng có nơ lệ. Căn cứ thứ 6 mà ông Văn Tân đưa ra là thời Bắc
thuộc, tuy chịu sự thống trị của Trung Quốc, nhưng những kẻ thống trị không
đổi phương thức sản xuất thời Âu Lạc.
Trên cơ sở căn cứ trên, ông Văn Tân đã đưa ra kết luận rằng Việt Nam
đã từng tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ.
Về thời gian, ông Văn Tân cho rằng, từ thời Văn Lang – Âu Lạc đến
chiến thắng Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 là xã hội Việt Nam đã
tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ.
6
Ý kiến của ông Nguyễn Đổng Chi cho rằng, trước thời Bắc thuộc xã
hội Việt Nam từ xã hội nguyên thủy và đến giai đoạn cuối chuyển sang chế độ
chiếm hữu nô lệ.
Thời Bắc thuộc là thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Giai đoạn cuối của thời kỳ
Băc thuộc là vào thời Khúc Thừa Dụ (thế kỷ X) xã hội Việt Nam chuyển sang
chế độ phong kiến.
Ý kiến của ông Minh Tranh cho rằng, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Việt
Nam kết thúc vào những năm 40 – lúc Mã Viện đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng lúc đó xã hội Việt Nam bước sang chế độ phong kiến.
Ông Đào Duy Anh cho rằng, vào cuối thời Hùng Vương, ở Việt Nam
xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ. Nước Âu Lạc mặc dù tồn tại 30 năm cũng
là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đến đầu thời Bắc thuộc cũng là chế độ chiếm
hữu nô lệ và đến khi Đông Hán chinh phục xã hội Việt Nam từ xã hội nơ lệ
sang chế độ phong kiến.
Ơng Nguyễn Lương Bích cho rằng, ranh giới giữa nơ lệ và phong kiến
ở Việt Nam là năm 544, năm nước Vạn Xuân thành lập.
Ông Mạc Đường cho rằng, các dân tộc thiểu số Việt Nam như người
Thái, người Mường, người Êđê…đều có chế độ chiếm hữu nơ lệ. Vì vậy
khơng có lý do gì mà dân tộc Việt Nam khơng tồn tại chế độ chiếm hữu nơ lệ.
Nhìn chung, các ý kiến trên của các nhà sử học đều cho rằng Việt Nam đã
từng tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ, hợp với quy luật quốc tế, nhưng về móc
thời gian nào thì khơng thống nhất.
Việt Nam trước thời Pháp thuộc không trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ
Ý kiến này là của các ông Trần Quốc Vượng, Chu Thiên, Hà Văn Tấn,
Vương Hoàng Tuyên ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và ông Trương
Hữu Quýnh ở Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
Ý kiến là của ông Trần Quốc Vượng, Chu Thiên cho rằng, thời Hùng
Vương và thời An Dương Vương, trong xã hội lúc bấy giờ cịn tồn tại nơ lệ,
nhưng xã hội đương thời vẫn là xã hội nguyên thủy.
7
Thứ 2, là thời Bắc thuộc không phải là chế độ chiếm hữu nô lệ. Không
thể lấy chế độ nô tỳ thời Lý – Trần để chứng minh xã hội Việt Nam là chế độ
chiếm hữu nô lệ.
Thứ 3, nhà nước Âu Lạc là nhà nước mới phôi thai chứ chưa phải là
nhà nước thực sự.
Vì vậy, theo ý kiến của các ơng Trần Quốc Vượng và Chu Thiên thì xã
hội Việt Nam từ quá độ xã hội nguyên thủy sang xã hội phong kiến và quá
trình hình thành xã hội phong kiến ở Việt Nam bao gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn một, là từ năm 180 TCN đến năm 40 sau công nguyên
Giai đoạn hai, là từ năm 40 – 541, đây là giai đoạn giai cấp giai cấp
phong kiến Việt Nam hình thành và quan hệ phong kiến Việt Nam phát triển.
Giai đoạn ba, là từ thế kỷ VI – thế kỷ X, đây là giai đoạn chín muồi giai
cấp phong kiến ở Việt Nam.
Ý kiến của Hà Văn Tấn cho rằng là khơng có chế độ nơ lệ ở Việt Nam.
Ông phản bác lại ý kiến của ông Văn Tân, Minh Tranh, Nguyễn Đổng Chi…
cho đồ đồng ở Việt Nam có từ thời ngun thủy, khơng phải có đồ đồng là có
nơ lệ. Ơng chứng minh rằng, thời Hùng Vương các thành viên trong công xã
bị bốc lột như nơ lệ.
Ý kiến của ơng Vương Hồng Tun đã phản bác lại ý kiến của ơng
Mạc Đường. Ơng Vương Hoàng tuyên cho rằng: người Thái từ Vân Nam
(Trung Quốc) di cư vào Tây Băc Việt Nam sớm nhất là cuối thế kỷ VII. Vì
vậy, khơng thể lấy chế độ xã hội người Thái có chế độ chiếm hữu nô lệ làm
căn cứ chứng minh. Hơn nữa, thực sự người Thái, Mường, Êđê khơng có chế
độ chiếm hữu nơ lệ.
Tóm lại, các ý kiến trên cho rằng, xã hội Việt Nam chuyển thẳng từ xã
hội nguyên thủy lên chế độ phong kiến, không trả qua chế độ chiếm hữu nơ
lệ.
Ý kiến mới của ơng Nguyễn Lương Bích và ơng Trần Quốc Vượng
8
Ông Nguyễn Lương Bích cho rằng, ở Việt Nam tồn tại phương thức
sản xuất châu Á. Phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam tồn tại cho đến khi
thực dân Pháp xâm lược.
Ơng Trần Quốc Vượng cũng có ý kiến tương tự, là xã hội Việt Nam từ
thế kỷ XIX trở về trước là xã hội tiểu nông truyền thống nằm trong khung
cảnh của một phương thức sản xuất châu Á. Ý kiến này của ông Trần Quốc
Vượng phát biểu năm 1989.
Xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nguyên thủy, lên phương thức sản
xuất châu Á rồi lên xã hội nguyên thủy
Đây là ý kiến của một loại bài viết từ năm 1982, thảo luận về phương
thức sản xuất châu Á ở Việt Nam.
Giai đoạn này, phần lớn các học giả đều nghiêng hướng xã hội Việt
Nam đã tồn tại phương thức sản xuất châu Á .
Ý kiến tiêu biểu là Giao sư Nguyễn Hồng Phong, trong bài viết về
phương thức sản xuất châu Á – lý thuyết và thực tiễn, gồm các ý như sau:
- Phương thức sản xuất châu Á là phương thức sản xuất riêng biệt,
ngang bằng với xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản. Do vậy, lịch sử từ xưa tới
nay đã trải qua sáu phương thức sản xuất chứ không phải năm phương thức
sản xuất.
- Giao sư Nguyễn Hồng Phong đã nêu ra định nghĩa phương thức sản
xuất châu Á như sau: “Phương thức sản xuất châu Á là trên cơ sở của chế độ
sỡ hữu nhà nước về ruộng đất, giai cấp quý tộc quan liêu bốc lột và trấn áp
các cơng xã ngun thủy dưới hình thức tơ thuế do nông dân công xã nộp”.
- Xã hội phương thức sản xuất châu Á chuyển sang xã hội phong kiến
chừng nào đại bộ phận ruộng đất thuộc về sỡ hữu tư nhân.
Áp dụng vào Việt Nam, ông cho rằng đến thế kỷ XV, xã hội Việt Nam
vẫn là xã hội phương thức sản xuất châu Á.
Ông Phan Huy Lê cho rằng, xã hội Việt Nam thời nguyên thủy đã bước
vào thời kỳ mang hình thức Á châu, khơng qua chế độ chiếm hữu nô lệ , tiến
thẳng lên xã hội phong kiến. Tiếp đó, ơng nói rằng, xã hơi thời Hùng Vương
là xã hội có giai cấp sơ kỳ mang hình thức Á châu.
9
Ông Văn Tạo, trong tác phẩm Phương thức sản xuất châu Á – lý luận…
(1996), cho rằng: “Qua nghiên cứu, tơi khẳng định là trong xã hội Việt Nam
có phương thức sản xuất châu Á tồn tại cho đến thế kỷ XII. Thế kỷ này coi
như giao thời giữa phương thức sản xuất châu Á chuyển sang chế độ phong
kiến. Phải đến thế kỷ XIII, khi nhà nước chính thức ban bố chính sách cho các
làng xã bán cơng điền làm tư điền (1254) thì sự chuyển giai đoạn chính thức
được thực hiện”.
Như vậy, ý kiến của ông Văn Tạo là việc bán ruộng đất công sang ruộng
đất tư (1254) là cái mốc. Ông cho rằng phương thức sản xuất châu Á có bốn
đặc trưng sau:
- Chế độ sở hữu công cộng về ruộng đất ( ruộng công)
- Nhà nước chun chế phương Đơng
- Cơng xã nơng nghiệp
- Tính trì trệ bảo thủ
Tóm lại, nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất là Viêt Nam đã tồn tại chế
độ chiếm hữu nơ lệ, nhưng mốc thời gian thì khơng thống nhất.
Như vậy, vào năm 1960, có nhiều người cho rằng xã hội Việt Nam tồn
tại chiếm hữu nơ lệ, sau đó lên xã hội phong kiến. Sau cuộc thảo luận đó
(1960), khơng có ý kiến kết luận đúng hay sai. Vì vậy, họ đều cho rằng ở Việt
Nam từ xã hội nguyên thủy chuyển lên phương thức sản xuất châu Á, nhưng
phái này chia thành hai ý kiến: một là xã hội Việt Nam từ xã hội nguyên thủy
chuyển lên phương thức sản xuất châu Á rồi lên xã hội phong kiến : hai là xã
hội Việt Nam từ xã hội nguyên thủy lên phương thức sản xuất châu Á rồi bị
Pháp xâm lược.
Người ta thường gọi lịch sử Việt Nam là lịch sử cổ trung đại, nhưng cổ
đại, trung đại ở đâu thì khơng xác định được.
Thử góp một ý kiến về hình thái kinh tế xã hội ở phương Đông và Việt
Nam từ thời cổ trung đại.
. Đặc trưng của chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phông kiến.
- Đặc trưng của chế độ chiếm hữu nô lệ: Chế độ chiếm hữu nô lệ là chế
độ mà trong đó có hai giai cấp đối kháng chủ yếu là: Chủ nô và nô lệ
Giai cấp nô lệ giữ vai trị chủ yếu trong sản xuất cịn chủ nơ là giai cấp
chiếm hữu tư liệu sản xuất và lực lượng sản xuất.
10
- Đặc trưng của chế độ phong kiến: Chế độ phong kiến là chế độ xã
hơi mà trong đó có hai giai cấp chủ yếu là: địa chủ và nông dân. Hình thức
bốc lột của địa chủ đối với nơng dân là địa tơ.
Về hình thái kinh tế xã hội ở Việt Nam trước thời pháp thuộc
Qua các cuộc thảo luận, các nhà sử học Việt Nam đã có 4 ý kiến sau
đây trình bày trên:
Xã hội nguyên thủy – chiếm hữu nô lệ : Văn Tân
Xã hội nguyên thủy – phong kiến : Trần Quốc Vượng
Xã hội nguyên thủy – phương thức sản xuất châu Á : Nguyễn Lương
Bích, Trần Quốc Vượng
Xã hội nguyên thủy – phương thức sản xuất châu Á – phong kiến :
Nguyễn Hồng Phong, Văn Tạo, Phan Huy Lê
Tổng hợp các ý kiến trên, ta thấy các nhà nghiên cứu đặt phương thức
sản xuất châu Á trước phương thức sản xuất phong kiến. Đặc điểm của
phương thức sản xuất chấu Á là ruộng đất công, phương thức sản xuất phong
kiến là ruộng đất tư. Mốc chuyển đổi giữa hai thời kỳ hoặc là đầu thời Bắc
thuộc hoặc thế kỷ XIII, XIV, XV.
Về các ý kiến sau, ta có nhận xét:
- Vấn đề về ruộng đất tư ở Việt Nam khơng phải có những mốc thời
gian này, mà có từ rất xớm – đầu thời Bắc thuộc. Thời Bắc thuộc đã có hai
hình thức bốc lột giữa tơ và thuế.
- Nếu nói, phương thức sản xuất châu Á là một phương thức sản xuất
riêng biệt, ngang bằng với phương thức sản xuất phong kiến thì có nghĩa là
vua Lý là một giai cấp khác, vua Lê là một giai cấp khác, giai cấp lao động
sản xuất thời Lý khác với giai cấp lao động sản xuất thời Lê.
- Đối chiếu xã hội Việt Nam ta thấy trước và sau các mốc lịch sử nói
trên về bản chất xã hội là như nhau, không khác nhau, như vậy, khơng thể có
sự kiện ở Việt Nam đã chuyển từ phương thức sản xuất châu Á lên xã hội
phong kiến vào các mốc thời gian trên. Do đó, các ý kiến: Xã hội nguyên thủy
– phong kiến – tư bản; xã hội nguyên thủy – phương thức sản xuất châu Á –
tư bản, tưởng là hai ý kiến khác nhau nhưng thực chất nó chỉ là một ý kiến.
11
Kết luận
Qua việc khảo sát thực tế tình hình quan hệ giai cấp, chế độ ruộng đất,
phương thức bốc lột…ở các nước phương Đông thời cổ trung đại, chúng ta
thấy rằng, ở phương Đơng chỉ có một phương thức chung bốc lột tô và thuế
đối với nông dân.
Ở Việt Nam, là một nước phương Đơng, nên tình hình cũng tương tự,
tức sau khi nhà nước ra đời cũng có một quan hệ sản xuất, một phương thức
bốc lột là thuế và tô đối với những người sản xuất là nông dân.
Nếu gọi phương thức sản xuất châu Á cũng được gọi phương thức sản xuất
phương Đông cũng được, phương thức sản xuất châu Á ở nay khác với
phương thức sản xuất châu Á của các tác giả khác:
- Các tác giả khác chỉ có ruộng đất cơng, ở nay vừa là ruộng đất cơng
vừa là ruộng đất tư, hình thức bốc lột vừa thuế vừa tô.
- Về chế độ phong kiến cũng khác với tác giả khác chỉ là bốc lột tô,
thuế. Nhưng dựa vào ý kiến của Mác, thuế nộp cho nhà nước về bản chất
cũng là tơ, vì vậy, Nhà nước bốc lột thuế đối với nông dân cũng là bốc lột tô,
đều nằm trong phạm trù phong kiến.
- Xã hội Việt Nam thời cổ đại cũng không qua sự thống trị của phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ nhưng ở phương Tây mà ở Việt Nam mà nó chỉ
mới manh nha xuất hiện giai cấp nơ lệ gia trưởng cho nên chưa có địa vị chủ
quyền trong xã hội. Do vậy, khơng thể nói ở Việt Nam trải qua sự thống trị
của chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo quan điểm của chủ
nghĩa Marx phải là tầng lớp làm ra của cải vật chất cho xã hội và chiếm một
ví trí nhất định trong xã hội đó mới thật sự thống trị và xã hội mới trải qua
thời kỳ thống trị của nó, ở đâu thì chúng ta cũng biết sự xuất hiện nô lệ gia
trưởng hay nô tỳ ở phương Đơng nói chung và Việt Nam nói riểng . Như vậy,
ở Việt Nam cũng như phương Đông trước chủ nghĩa tư bản đã trải qua 3 hình
thái kinh tế xã hội đó là: cơng xã ngun thủy, phương thức sản xuất châu á,
chế độ phong kiến ở Việt Nam phương thức sản xuất châu Á kéo dài từ khi
bắt đầu xuất hiện nhà nước Văn Lang – Âu Lạc đến thế kỷ XII.
12