ĐIỀU KHIỂN SỰ NỞ HOA
CỦA CÂY HOA CÚC
ĐÚNG DỊP TẾT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................................2
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài .....................................................................................2
1.1.1. Nguồn gốc của cây hoa cúc ............................................................................2
1.1.2. Phân loại cây hoa cúc .....................................................................................2
1.1.3. Đặc điểm thực vật học của cây hoa cúc........................................................3
1.2. Tình hình sản xuất hoa cúc trên thế giới và việt nam ..........................................5
1.2.1. Tình hình sản xuất hoa cúc trên thế giới.......................................................5
1.2.2. Tình hình sản xuất hoa cúc ở Việt Nam ........................................................7
Chương 2 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÂY
HOA CÚC ....................................................................................................................10
2.1. Nhiệt độ ...............................................................................................................10
2.1.1. Vai trò của nhiệt độ đến sinh trưởng và phát triển của cây hoa cúc .............10
2.1.2. Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến sự ra hoa ..............................................10
2.1.3. Các phương pháp kiểm soát nhiệt độ............................................................12
2.2. Quang chu kỳ ......................................................................................................12
2.2.1. Phản ứng quang chu kỳ của cây hoa cúc ......................................................13
2.2.2. Ảnh hưởng của quang chu kỳ đến sự ra hoa ở cây hoa cúc..........................14
2.3. Ẩm độ ..................................................................................................................15
2.3.1. Ảnh hưởng của ẩm độ đến sự ra hoa ở cây hoa cúc .....................................15
2.3.2. Các phương pháp kiểm soát ẩm độ ............................................................... 16
2.4. Dinh dưỡng .........................................................................................................17
2.4.1. Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng đến sự ra hoa ở cây hoa cúc ..................17
2.4.2. Các phương pháp bón phân cho cây hoa cúc ...............................................17
2.5. Chất điều tiết sinh trưởng ....................................................................................19
Ảnh hưởng của chất điều tiết sinh trưởng đến sự ra hoa ở cây hoa cúc .................19
Chương 3 ĐIỀU TIẾT SỰ NỞ HOA CỦA CÂY HOA CÚC .................................21
3.1. Nghiên cứu thời vụ trồng các giống hoa cúc ......................................................21
3.2. Điều chính sự ra hoa của cây cúc đúng dịp tết nguyên đán ............................... 21
3.2.1. Điều chính thời gian ra hoa bằng ánh sáng...................................................21
3.2.2. Điều chính thời gian ra hoa bằng chất điều hòa sinh trưởng: .......................25
3.2.3. Điều chỉnh thời gian ra hoa bằng nhiệt độ. ...................................................25
3.2.4. Điều chỉnh thời gian ra hoa bằng việc điều chỉnh dinh dưỡng: ....................25
KẾT LUẬN ..................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................28
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Giá trị xuất nhập khẩu hoa cúc hàng năm của một số nước trên thế giới ...6
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất hoa cúc ở một số tỉnh trong cả nước ................................ 8
năm 2003 .........................................................................................................................9
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Quang chu kỳ hoa cúc ...................................................................................13
Hình 2.2. Hình ảnh các thiết bị kiểm sốt ẩm độ ..........................................................16
Hình 3.1. Chiếu điện cho hoa nếu hoa có nguy cơ nở sớm ...........................................23
Hình 3.2. Hệ thống che sáng .........................................................................................24
Hình 3.3. Tỉa nụ để kích thích hoa sớm.........................................................................26
MỞ ĐẦU
Hoa là một sản phẩm đặc biệt vừa mang giá trị tinh thần vừa mang giá trị kinh tế.
Ngay từ thời xa xưa, con người đã có nhu cầu sử dụng hoa để trang trí làm đẹp thêm cuộc
sống, ngày nay xã hội càng phát triển thì nhu cầu về tinh thần ngày càng tăng. Ngoài việc
sử dụng hoa vào mục đích thẩm mỹ, con người cịn xem việc sản xuất hoa là một ngành
kinh tế có thu nhập cao. Trên thế giới thì thị trường tiêu thụ hoa hết sức rộng lớn nhưng
tập trung chủ yếu ở những nước công nghiệp phát triển như: Anh, Pháp, Hà Lan, Đức,
Thụy Điển, Ý, Nhật...
Ở nước ta, hoa cúc đã du nhập vào từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX. Người Việt
Nam coi hoa cúc là biểu tượng của sự thanh cao và được liệt kê vào loại hoa cao quý và
thiêng liêng vì vậy sử dụng rất nhiều trong việc thờ cúng và một phần dùng làm dược
liệu. Hiện nay cúc có mặt ở khắp nơi từ nơng thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng
bằng. Các vùng trồng nhiều mang tính tập trung là Hà Nội (450 ha), thành phố Hồ Chí
Minh (370 ha), Đà Lạt (160 ha), Hải Phòng (110 ha).
Trong vài năm trở lại đây, do nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nên diện tích
trồng hoa của Đà Lạt đã tăng lên đáng kể, trong đó diện tích trồng hoa cúc chiếm 550 ha
trong tổng diện tích trồng hoa trong tồn tỉnh 3.165 ha. Đặc biệt, ở các vụ Thu Đông và
Đông Xuân nhu cầu về hoa là rất cao để cung cấp cho các dịp lễ, tết.
Để cây hoa cúc ra hoa vào đúng dịp tết thì nhóm chúng tơi xin trình bày chuyên
đề “Điều khiển sự ra hoa ở cây hoa cúc vào đúng dịp tết”.
1
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Nguồn gốc của cây hoa cúc
Cây hoa cúc (Chrysanthemum sp) được định nghĩa từ Chrysos (vàng) và
Anthemum (hoa) bởi Line 1753, là một trong những loại cây trồng làm cảnh lâu đời và
quan trọng nhất trên thế giới. Hoa cúc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản, các
nhà khảo cổ học Trung Quốc đã chứng minh rằng từ đời Khổng Tử người ta đã dùng
hoa cúc để mừng lễ thắng lợi và cây hoa cúc đã đi vào các tác phẩm hội họa, điêu khắc
từ đó. Ở Nhật Bản cúc là một loại hoa quý (quốc hoa) thường được dùng trong các buổi
lễ quan trọng, người Nhật Bản coi cúc là người bạn tâm tình (Đặng Văn Đông và cs,
2003) [4].
Theo tài liệu cổ Trung Quốc thì hoa cúc có cách đây 3.000 năm. Trong văn thơ
Hán cổ, hoa cúc có 30-40 tên gọi khác nhau như: Nữ hoa, Cam hoa, Diên hoa… Hoa
cúc có nguồn gốc từ một số loài hoang dại thuộc loại cúc Dendranthema, trải qua quá
trình chọn lọc lai tạo và trồng trọt, từ những biến dị để có được những giống cúc như
ngày nay (Đặng Văn Đông, 2005) [5].
Ở Việt Nam hoa cúc đã được du nhập từ thế kỷ XV, người Việt Nam coi cúc là
biểu hiện của sự thanh cao, là một trong bốn loài thảo mộc được xếp vào hàng tứ quý
“Tùng, Cúc, Trúc, Mai” hoặc “Mai, Lan, Trúc, Cúc”. (Trương Hữu Tuyên, 1979)
[8]. Hoa cúc không chỉ được ưa chuộng bởi mầu sắc, hình dáng mà cịn đặc tính bền lâu
hơn các loại hoa khác.
1.1.2. Phân loại cây hoa cúc
Hoa cúc là loại cây hai lá mầm (Dicotyledonace) thuộc phân lớp cúc (Asterydae),
bộ cúc (Asterales), họ cúc (Asteraceae), phân họ giống hoa cúc (Asteroideae), chi
Chrysanthemum (Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến, 1988) [1]
Người Việt Nam yêu hoa cúc khơng chỉ do hình dáng mà cịn do có cách sử dụng
rất phong phú. Hoa cúc có màu sắc hoa đa dạng, lâu tàn và khả năng phân cành lớn
nên cúc có thể dùng để cắm lọ hay bấm ngọn, tạo tán để trồng chậu, trang trí
nhà cửa, trồng bồn, trồng chậu ở các khuôn viên, vườn hoa, dùng trong các ngày
sinh nhật, hội nghị, lễ tết, hiếu hỉ... Một số loại cúc như Kim cúc, Bạch cúc còn
được sử dụng vào mục đích làm thuốc chữa đau đầu hay hoa mắt, chóng mặt (Võ
2
Văn Chi, Dương Đức Tiến, 1988) [1]; (Lê Kim Biên, 1984)[2].Năm 1984, Lê Kim
Biên (1984)[2] khi nghiên cứu phân loại họ cúc cho thấy riêng chi Chrysanthemum L
(Đại cúc) ở Việt Nam có 5 lồi, trên thế giới có 200 lồi, và có khoảng 1.000 giống.
Các giống cúc hiện trồng chủ yếu được sử dụng làm hoa hoặc cây cảnh, do đó
hoa thường có kích thước từ trung bình đến to, nhiều màu sắc, như trắng, vàng, đỏ,
tím, hồng... Một số loại cúc thuộc chi Chrysanthemum L được trồng phổ biến như:
- Chrysanthemum cinerieafolium (cúc Trừ Trùng): cây sống dai, có lơng tơ, cao
khoảng 50-7°Cm. Thân mọc thẳng đứng có cạnh lồi, lá mọc cách kiểu lông chim. Hoa
được dùng để chế biến thuốc trừ sâu.
- Chrysanthemum indicum (Cúc Vàng hay Kim Cúc): được trồng nhiều ở Châu
Á, có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản. Cây dạng thân cỏ, sống lâu năm, cây có
thể cao hơn 100 cm.
- Chrysanthemum morifolium (Cúc Trắng): có nguồn gốc từ Trung Quốc, được
trồng ở vùng núi Nam trung bộ và các tỉnh miền Bắc Việt Nam, được dùng làm
thuốc hay cây cảnh. Thân dạng thân cỏ, sống lâu năm hay một năm.
Trên thực tế thế giới có tới 7.000 giống cúc đã đưa vào sử dụng với sự đa dạng về
chủng loại, màu sắc vô cùng phong phú (Anderson N. O., 1987) [11]
Chrysanthemum macimum (cúc Trắng Lớn): có nguồn gốc từ châu Âu được
trồng rộng rãi trên thế giới với mục đích làm hoa cắt hoặc trồng ở bồn lớn. Cây sống
lâu năm, cao từ 70-100 cm.
- Chrysanthemum conirium (rau Cải Cúc, cúc Tần Ơ): có nguồn gốc từ vùng
Trung Cận Đơng, cây sống hàng năm, thân mọc thẳng đứng, phân nhánh thành bụi, cây
cao đến 120 cm.
Năm 1993, Trần Hợp [19] đã phân loại cây hoa cúc thuộc nhóm cây thân cỏ có
hoa làm cảnh và cũng đã đưa ra một số loài hoa cúc trồng ở Việt Nam như cây Tần Ô
(rau Cúc C.coronarium Linn), cây Cúc Trắng (C.morifolium), cây Cúc Vàng
(C.indicum) và cúc Trừ Trùng (C. cinerieafoliumvis).
Như vậy, trong chi Chrysanthemum có rất nhiều lồi và nhiều chủng giống
khác nhau nhưng việc phân loại cúc vẫn chưa được thống nhất.
1.1.3. Đặc điểm thực vật học của cây hoa cúc
1.1.3.1. Rễ
Theo Nguyễn Xuân Linh (1998) [4], rễ cây hoa cúc thuộc loại chùm, rễ cây ít ăn
3
sâu mà phát triển theo chiều ngang. Khối lượng bộ rễ lớn do sinh nhiều rễ phụ và
lông hút, nên khả năng hút nước và dinh dưỡng mạnh. Những rễ này mọc ở mấu của
thân cây còn gọi là mắt, ở những phần sát trên mặt đất.
1.1.3.2. Thân
Theo Van Ruiten và cs (1984) [15] thì chiều cao cây, mức độ phân cành, độ mềm
hoặc cứng phụ thuộc rất lớn vào đặc tính di truyền của giống. Giống cúc cao hay thấp
phụ thuộc rất lớn vào đặc tính di truyền của giống. Giống cúc thấp nhất chỉ cao 20-3ºCm,
còn giống cúc cao nhất, có thể cao trên 3m. Các giống thấp, phân cành nhiều thích hợp
trồng trong chậu, làm thảm hoa. Các giống thân dài, thường phân cành ít, thích hợp trồng
trên nền đất hoặc trên nền giàn cao. Giống thân cao, ít cành thích hợp với việc trồng hoa
cắt cành. Giống phân cành nhiều, cành nhỏ và mềm thích hợp với việc tạo hình trồng trong
chậu cảnh.
1.1.3.3. Lá
Theo Cockshull (1972) thì lá cây hoa cúc mọc cách và thành vịng xoắn trên
thân. Lá phẳng hoặc hơi nghiêng về phía trên hoặc hơi bị gấp. Trên một cành thì gần
gốc nhỏ, càng lên phía trên lá càng to dần. Kích thước lá thường thay đổi theo điều
kiện ngoại cảnh và kỹ thuật trồng trọt. Cây sinh trưởng kém thì lá nhỏ, mỏng, cứng
hơi chếch về phía trên, màu xanh nhạt khơng bóng hoặc hơi vàng. Đủ dinh dưỡng,
cây sinh trưởng khỏe, lá to và mềm, phiến lá dày, chóp lá hơi cong xuống, lá xanh
thẫm và bóng. Lá hoa cúc thường sống được 70-90 ngày, hiệu suất quang hợp của lá
mạnh nhất là ở lá thứ 4 tính từ đỉnh ngọn trở xuống.
1.1.3.4. Hoa và quả
Các tác giả Quách Trí Cương, Trương Vỹ (Dẫn theo Đặng Văn Đơng,
2005)[5] khi
nghiên cứu
về hình dạng hoa
cúc
đã cho rằng cây họ
cúc
(Asteracea) rất đặc trưng bởi có cụm hoa đầu trạng. Cụm hoa đầu trạng rất điển
hình là trục chính của cụm hoa phát triển rộng ra thành hình đĩa phẳng hoặc lồi, trên
đó có các hoa khơng cuống sắp xếp xít nhau, phía ngồi cụm hoa có các lá bắc xếp
thành vịng, cả cụm hoa có dạng như một bơng hoa.
Hoa cúc có thể lưỡng tính hoặc đơn tính. Hoa có nhiều màu sắc và đường
kính rất đa dạng, đường kính có thể từ 1,5-12 cm. Hình dạng của hoa có thể là đơn
hoặc kép, thường mọc nhiều hoa trên một cành, phát sinh từ những nách lá. Hoa
cúc tuy là lưỡng tính nhưng thường không thể thụ phấn cùng hoa, nếu muốn lấy hạt
4
giống thì phải tiến hành thụ phấn nhân tạo (Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến, 1988) [1].
Theo các tác giả Qch Trí Cương, Trương Vỹ (Dẫn theo Đặng Văn Đơng, 2005)[5]
thì quả cúc rất nhỏ, dài chừng 2-3mm, rộng 0,7-1,5mm, trọng lượng 1.000 hạt khoảng
1g, có nhiều hình dạng khác nhau như hình kim, hình gậy, hình trứng, hình trịn dài…
thẳng hoặc hơi cong, hai đầu cùng bằng, hoặc một đầu nhọn, trên mặt có 5-8 vết dọc
nơng, màu nâu nhạt hoặc đậm, vỏ quả mỏng. Theo Lê Kim Biên (1984)[2] thì quả
cúc dạng quả bế khơ, hình trụ hơi dẹt, hạt có phơi thẳng và khơng có nội nhũ.
1.2. Tình hình sản xuất hoa cúc trên thế giới và việt nam
1.2.1. Tình hình sản xuất hoa cúc trên thế giới
Sản xuất hoa đã mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế các nước trồng hoa trên thế
giới. Diện tích trồng hoa trên thế giới ngày càng mở rộng và không ngừng tăng lên.
Theo báo cáo năm 2005 của FAO, giá trị sản lượng hoa, cây cảnh của toàn thế
giới năm 1995 đạt 45 tỷ USD, đến năm 2004 tăng lên 56 tỷ USD (tốc độ tăng bình
quân năm là 20%). Trên thế giới có 3 thị trường tiêu thụ hoa chính là Mỹ, các
nước châu Âu và Nhật Bản (Buschman và cộng sự, 2005)[12]. Hàng năm, giá
trị xuất khẩu hoa cắt trên thế giới khoảng 25 tỷ USD, đứng đầu trong 4 nước xuất
khẩu hoa trên thế giới là Hà Lan 1.590 triệu USD, Cô-lôm-bi-a 430 triệu USD, Kê-ny70 triệu USD và Ixraen 135 triệu USD (Nguyễn Văn Tấp, 2008)[10].
Hoa cúc là một trong 5 loại hoa cắt cành phổ biến nhất trên thế giới. Cây hoa cúc
thu hút người tiêu dùng đặc biệt ở màu sắc phong phú: trắng, vàng, xanh, đỏ, tím,
hồng, da cam... Khơng những vậy, hình dáng và kích cỡ hoa cũng rất đa dạng cùng với
khả năng có thể điều khiển cho ra hoa tạo nguồn hàng hóa quanh năm đã khiến cho hoa
cúc trở thành loài hoa được tiêu thụ đứng thứ hai trên thị trường thế giới (sau hoa hồng)
(Đặng Ngọc Chi, 2006) [3].
Năm 2006, có 4 nước sản xuất hoa cúc trên thế giới đạt sản lượng cao nhất
là Hà Lan đứng đầu với sản lượng 1,5 tỷ cành, Côlômbia là 900 triệu cành, Mê-hi-cô
và I-ta-li-a đạt 300 triệu cành (Erik Van Berkum, 2007) [13].
Nhật Bản hiện đang dẫn đầu tại châu Á về sản xuất và tiêu thụ hoa cúc, hàng
năm Nhật Bản tiêu thụ khoảng gần 4.000 triệu Euro để phục vụ nhu cầu hoa trong
nước (Jo Wijnands, 2005). Người dân Nhật Bản ưa thích hoa cúc và cúc trở thành là
loài hoa quan trọng nhất tại Nhật Bản chiếm tới 36% sản phẩm nông nghiệp, mỗi
năm Nhật Bản sản xuất khoảng hơn hai trăm triệu cành hoa phục vụ nhu cầu
5
trong nước và xuất khẩu. Diện tích trồng hoa cúc chiếm 2/3 tổng diện tích trồng
hoa. Năm 2008 diện tích trồng hoa ở Nhật Bản là 16.800 ha, giá trị sản lượng đạt
2.599 triệu USD (Takahiro Ando, 2009)[14]. Tuy vậy Nhật Bản vẫn phải nhập
một lượng lớn hoa cúc từ Hà Lan và một số nước khác trên thế giới như Trung
Quốc, Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Cô-lôm-bi-a...
Ở Malaixia, cúc chiếm 23% tổng sản lượng hoa. Ngoài lan ra, 3 loại hoa quan
trọng nhất là hồng, cúc và cẩm chướng chiếm 91,1% tổng sản lượng hoa ôn đới (Lim
Heng Jong, 1998) [16].
Một số nước khác như Thái Lan, cúc đã được trồng quanh năm với sản lượng
cành cắt hàng năm là 50.841.500 cành và đạt năng suất 101.700/Rai (1ha=
6,25Rai) (Oradee Sahavacharin, 1998)[17]. Ở Trung Quốc, cúc là 1 trong 10 loài
hoa cắt quan trọng sau hồng và cẩm chướng chiếm khoảng 20% tổng số hoa cắt trên
thị trường bán buôn ở Bắc Kinh và Côn Minh. Vùng sản xuất hoa cúc chính là
Quảng Đơng, Thượng Hải, Bắc Kinh bao gồm các giống ra hoa mùa Hè, Thu,
Đông sớm và Xuân muộn với loại cúc đơn, màu được ưa chuộng nhất là vàng, trắng,
đỏ (Nguyễn Thị Kim Lý, 2001) [9].
Hàng năm, kim ngạch xuất nhập khẩu hoa cúc trên thế giới ước đạt tới 1,5 tỷ
USD.
6
Bảng 1.1. Giá trị xuất nhập khẩu hoa cúc hàng năm của một số nước trên thế giới
TT
Tên nước
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1
Trung Quốc
300
200
2
Nhật Bản
150
200
3
Hà Lan
250
100
4
Pháp
70
110
5
Đức
80
50
6
Nga
-
120
7
Mỹ
50
70
8
Xin-Ga-Po
15
-
9
I-xra-en
12
-
(Đv: triệu USD)
(Nguồn: Đặng Văn Đông, 2003)[4]
Số liệu trên cho thấy một số nước vừa xuất khẩu đồng thời nhập khẩu hoa
cúc. Sở dĩ có điều này là do đặc điểm của giống phản ứng chặt chẽ với điều kiện
ngoại cảnh và điều kiện khí hậu thời tiết của các nước khác nhau nên chủng loại
hoa cúc trồng cung cấp cho thị trường khác nhau. Vì vậy mà có những giống hoa
cúc nếu trồng trái vụ chi phí điều khiển điều kiện ngoại cảnh làm cho giá thành sẽ
cao hơn so với nhập khẩu hoa cúc từ nước khác về. Đây là một điều kiện thuận lợi cho
phát triển sản xuất hoa cúc ở Việt Nam khi trong điều kiện khí hậu Việt Nam cây hoa
cúc sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng ổn định.
1.2.2. Tình hình sản xuất hoa cúc ở Việt Nam
Hiện nay trồng hoa là một nghề sản xuất và kinh doanh được đặc biệt quan tâm.
Chính vì vậy mà diện tích trồng hoa và cây cảnh ngày càng phát triển. Năm 2001, nước
ta có 4.500 ha trồng hoa-cây cảnh, năm 2002 là 8.512 ha, năm 2003 là 9.430 ha, năm
2004 là 11.340 ha và đến năm 2009 đạt 15.200 ha trồng hoa-cây cảnh. So với năm 1994,
diện tích hoa, cây cảnh năm 2009 đã tăng 4,3 lần, giá trị sản lượng tăng 8,2 lần và mức
tăng giá trị thu nhập/ha là 182%. Tốc độ tăng trưởng này là rất cao so với các ngành
nông nghiệp khác (Đặng Văn Đông, 2010)[6].
7
Hoa cúc được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 15, đến đầu thế kỷ 19 đã hình thành
một số vùng chuyên nhỏ cung cấp cho nhân dân. Một phần để chơi, một phần phục vụ
việc cúng lễ và dùng làm dược liệu. Hiện nay cây hoa cúc có mặt ở khắp nơi từ vùng núi
cao đến đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị. Nếu xét về cơ cấu chủng loại tất cả các
loại hoa thì trước những năm 1997 diện tích hoa hồng nhiều nhất chiếm 31% nhưng từ
1998 trở lại đây diện tích hoa cúc đã vượt lên chiếm 42%, trong khi đó hoa hồng chỉ còn
29,4%. Riêng ở Hà Nội tổng giá trị sản lượng hoa cúc năm 1999 đạt 41,3 tỷ đồng, xuất
khẩu sang Trung Quốc 3,6 tỷ đồng, tốc độ tăng hàng năm khoảng 10% (Nguyễn Xuân
Linh và cộng sự, 2000) [8].
Hiện nay trong thực tế sản xuất có rất nhiều các giống cúc nhập nội được trồng
phổ biến hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Kết quả điều tra về cơ cấu diện tích trồng
các giống cúc trồng ở miền bắc Việt Nam của Đặng Văn Đông(2005)[5] cho thấy trong
51 giống cúc được trồng có 24 giống trồng với diện tích khá lớn, chiếm 88% tổng diện
tích trồng. Đó là Vàng Đài Loan (13,7%), CN98 (10,3%), CN97 (98,0%), CN93 (7,7%),
CN01 (96,0%), Tím sen (6%). 27 giống cịn lại cơ cấu diện tích ít (<1%). Theo Đặng
Văn Đơng (2005)[5], năm 2003 cả nước có 9.430 ha gồm hoa và cây cảnh các loại, sản
lượng 482,6 tỷ đồng, trong đó hoa cúc là 1.484 ha cho giá trị sản lượng cao nhất 129,49
tỷ đồng và được phân bố nhiều tỉnh trong nước.
8
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất hoa cúc ở một số tỉnh trong cả nước
năm 2003
Diện tích (ha)
Giá trị sản lượng (Tr.đ)
Địa phương
Tổng số
Hoa cúc
Tổng số
Hoa cúc
Cả nước
9.430
1.484
482.606
129.490
Hà Nội
1.642
387
81.729
30.188
Hải Phòng
814
97
12.210
1.400
Vĩnh Phúc
1.029
115
38.144
4.200
Hưng n
658
90
26.320
3.600
Nam Định
546
27
8.585
420
Lào Cai
52
15
12.764
1142
TP.Hồ Chí Minh
527
160
24.194
6.810
Lâm Đồng (Đà Lạt)
1.467
360
193.500
84.000
Bình Thuận
325
100
6.640
3.100
Nguồn: Đặng Văn Đông, 2005[8]
Theo số liệu thống kê của www.rauhoaquavietnam thì chủng loại hoa xuất khẩu
của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2009 khá đa dạng.
9
Chương 2
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÂY HOA CÚC
2.1. Nhiệt độ
2.1.1. Vai trò của nhiệt độ đến sinh trưởng và phát triển của cây hoa cúc
Nhiệt độ là yếu tố quyết định đến sinh trưởng, phát triển của cây hoa: từ sự nẩy
mầm của hạt, sự tăng trưởng của cây, sự ra hoa, kết quả và chất lượng hoa. Nhiệt độ có
thể ảnh hưởng chung hoặc ảnh hưởng riêng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây hoa.
Thông thường tăng trưởng của cây tăng hoặc giảm dần theo sự thay đổi nhiệt độ.
Đồng thời nhiệt độ có thể có ảnh hưởng riêng đến sự sinh trưởng của cây thơng qua sự
xn hố, hay cảm ứng về sự nở hoa bởi nhiệt độ lạnh.
- Hoa cúc có nguồn gốc từ khí hậu ơn đới vì vậy là loại cây ưa khí hậu mát mẻ.
Nhiệt độ thích hợp cho cúc phát triển là 15 – 23 ºC. Nó có thể chịu được nhiệt độ trong
ngưỡng cho phép từ 10 – 35ºC, trên 35ºC và dưới 10ºC cúc sinh trưởng phát triển kém,
kìm hãm sự phát triển của hoa, ảnh hưởng đến màu sắc và độ bền của hoa.
Lưu ý: Bố trí thời vụ cho hợp lý. Nếu nụ đã được phân hóa gặp điều kiện nhiệt độ
thấp, quá trình phát dục sẽ bị chậm lại dẫn đến hoa nở muộn. Thời gian nở hoa sớm hay
muộn phụ thuộc vào nhiệt độ và đặc điểm của giống.
- Để rễ cúc sinh trưởng phát triển tốt, nên giâm hoặc nhân giống cúc vào mùa xuân
hoặc mùa thu. Điều kiện thời tiết mùa hè rất khó cho việc giâm cành cúc.
- Đặc biệt vào thời kỳ cây con cây cúc cần nhiệt độ cao hơn các thời kỳ khác. Thời
kỳ ra hoa nếu đảm bảo được nhiệt độ thích hợp tì hoa cúc sẽ nở to, đẹp và bền hoa.
2.1.2. Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến sự ra hoa
Theo nghiên cứu nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình sinh sống của cúc theo 2 mặt
chính:
- Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ phát dục, phát triển của nụ, thúc đẩy quá
trình ra hoa; Nhiệt độ ảnh hưởng đến chất lượng và màu sắc hoa.
Nhiệt độ tác động chủ yếu đến cây qua con đường quang hợp, quang hợp của cây
tăng theo chiều tăng của nhiệt độ. Nhiệt độ của môi trường tăng 10ºC thể cường độ quang
hợp tăng dần (Nguyễn Xuân Linh, 2002). Tuy nhiên mỗi loại cây hoa đều có nhiệt độ tối
thích và nhiệt độ tối thấp hoặc tối cao ở nhiệt độ tối ưu, cây hoa có thể sinh trưởng tốt và
có chất lượng cao ở khoảng nhiệt độ tối thấp và tối cao, cây hoa vẫn sinh trưởng, nhưng
thời gian sinh trưởng sẽ dài hơn và phẩm chất sẽ kém hơn. Ví dụ, khoảng nhiệt độ tối ưu
10
vào ban đêm cho cây hoa cúc là 16- 18 ºC, nhưng cây này vẫn có thể sinh trưởng ở nhiệt
độ ban đêm từ 4 – 27 ºC (Whealy, 1987 và Wilkins, 1990).
Ở khoảng nhiệt độ tối thấp, cây sẽ giảm dần giá trị kinh tế, ở khoảng nhiệt độ tối
cao, sự hình thành hoa và sự phát triển bị đình trệ và chất lượng bị giảm. Tóm lại, cây
hoa cúc có khoảng nhiệt độ tối ưu rất hẹp và có khoảng nhiệt độ có thể chịu đựng được
rất rộng. Đối với một số loài hoa khác, người ta làm giảm nhiệt độ xuống vài độ so với
nhiệt độ tối thích trong vịng khoảng 1 đến vài tuần trước khi thu hoạch để làm tăng chất
lượng hoa và kéo dài thời gian thu hoạch.
Nhiệt độ trung bình hàng ngày ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây hoa.
Nếu nhiệt độ trung bình hàng ngày tăng lên (trong khoảng nhiệt độ có thể chịu đựng được
của lồi cây đó), hầu hết cây trồng sẽ sinh trưởng và ra hoa nhanh hơn. Tuy nhiên, sự
sinh trưởng nhanh hơn khơng có nghĩa là làm tăng chất lượng hoa. Nếu nhiệt độ tăng lên
sẽ làm chất lượng của hoa kém đi và tăng sự mẫn cảm với bệnh.
Quan hệ giữa cường độ chiếu sáng và nhiệt độ thường theo tương quan thuận,
cường độ ánh sáng yếu thường đi cùng với nhiệt độ thấp làm cho cây sinh trưởng yếu
hoặc ngừng sinh trưởng, hiện tượng này thường xảy ra với các loài hoa trồng trong vụ
đông ở miền bắc Việt Nam. Nhưng trong mùa Hè, nhiệt độ lại quá cao, cần phải dùng các
biện pháp che nắng để làm nhiệt độ, đặc biệt là các cây hoa trồng trong nhà kính. Đối với
một số lồi hoa, nhiệt độ trung bình hàng ngày thấp có thể gây ra các phản ứng sinh lý
như làm chậm sự ra hoa ở cây hoa cúc
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ tới sự ra hoa của các giống cúc tại châu
Âu, Karlson và cộng sự [22], [23] chia cúc làm 3 nhóm:
- Nhóm giống khơng bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ: trong phạm vi từ 10- 27ºC, nhiệt độ
khơng ảnh hưởng gì đến sự phân hoá và phát dục của hoa. Nhưng nhiệt độ cao hơn hoặc
thấp hơn nhiệt độ trên sẽ ức chế sự ra hoa.
- Nhóm giống bị nhiệt độ thấp ức chế ra hoa: bình thường chúng bắt đầu phân hố
mầm hoa từ 16ºC trở lên, nhiệt độ thấp hơn 16ºC sẽ ức chế sự phân hóa hoa.
- Nhóm giống bị nhiệt độ cao ức chế ra hoa: thời điểm bắt đầu phân hố hoa của
nhóm này ở nhiệt độ cao (>20ºC) nhưng nếu nhiệt độ quá cao (trên 35ºC) kéo dài thì sự
phát dục của nụ bị ngừng trệ.
11
2.1.3. Các phương pháp kiểm soát nhiệt độ
Nhiệt độ đất rất quan trọng trong việc nảy mầm và việc ra rễ cho hạt giống, cành
giâm của một số lồi. Nhìn chung, nhiệt độ tối ưu trong khoảng từ 22 – 24º C. Nếu sử
dụng tưới phun trong thời gian nhân giống, làm giảm nhiệt độ mơi trường, thì việc bổ
sưng thêm nhiệt cho môi trường là cần thiết. Các ống dẫn nhiệt có thể được đặt dưới
luống, hoặc sử dụng 1 hệ thống sưởi ấm được bọc bang nhựa để giữ nhiệt đặt dưới hoặc
đáy luống. Cũng có thể sử dụng ống polyetylen trực tiếp từ máy sưởi đẩy không khí ở
dưới luống, nhưng cần chứ ý khơng làm cành giâm hoặc cây con q khơ do hiện tượng
thốt hơi nước ở cành giâm.
Ở nước ngồi đã có nghiên cứu được tiến hành việc sưởi ấm đất trong quá trình sản
xuất. Việc sưởi ấm vùng rễ có thể giúp người trồng hoa giảm các chi phí về nhiên liệu
bằng việc sưởi ấm ngay xung quanh vùng rễ cây mà không phải sưởi ấm tồn bộ thể tích
khơng khí của nhà kính. Hơi nóng được tập trung vào vùng rễ bằng việc sử dụng các hệ
thống sưởi ấm luống như BiothermTM hoặc thay thế bằng các ống sưởi ấm đặt dưới
luống và giữ nhiệt dưới luống bằng lớp plastic. Khí ấm bốc lên, sưởi ấm các phần trên
mặt đất của cây trồng.
Việc sưởi ấm vùng rễ đã chứng minh hiệu quả đối với một số loài như cây hoa anh
thảo và có thể làm tăng sinh trưởng phát triển của cây (Stephens và Widmer 1976). Việc
làm nóng vùng rễ có hiệu quả nhất trong vòng 6 tuần đầu sau khi cho cây vào chậu. Mặt
hạn chế của phương pháp này là có thể làm cây bị thui nụ hoa và chế độ dinh dưỡng, chế
độ nước bị thay đổi.
12
2.2. Quang chu kỳ
Hình 2.1. Quang chu kỳ hoa cúc
2.2.1. Phản ứng quang chu kỳ của cây hoa cúc
Quang chu kỳ ảnh hưởng đến sự ra hoa của cúc. Thời gian chiếu sáng càng kéo dài,
dẫn đến cây sinh trưởng phát triển mạnh, tập chung phát triển thân lá, hoa nở muộn
nhưng chất lượng hoa tăng.
- Hầu hết các giống hoa cúc trong thời kỳ sinh trưởng cần ánh sáng ngày dài trên
13h, nhưng đặc biệt vào giai đoạn hỗ trợ cần ánh sáng ngày ngắn hơn 10 – 11 giờ.
- Theo nghiên cứu, hoa cúc là cây ngày ngắn, ưa sáng và đêm ưa lạnh, khí hậu mát
mẻ.
Cúc là loại cây ngày ngắn, ưa sáng. Tuy nhiên ở mỗi thời kỳ sinh trưởng phát triển
cây có yêu cầu ánh sáng khác nhau:
Ở giai đoạn đầu giai đoạn cây con, cây sinh trưởng phát triển còn yếu, rễ non.
Cây chủ yếu sử dụng các chất dinh dưỡng dự trữ vì vậy u cầu ít ánh sáng.
Thời kỳ phân cành, cây cần nhiều ánh sáng để quang hợp tăng sự tổng hợp chất
hữu cơ cần thiết cho hoạt động sống của cây.
- Hiện nay có nhiều giống cúc mới nhập nội có thể ra hoa trong điều kiện ánh sáng
ngày dài như: CN93, CN98,...
13
Việc chiếu sáng cho hoa cúc vào ban đêm bằng hệ thống đèn điện chiếu sáng vào
giai đoạn cây con (từ lúc trồng đến 30 ngày sau trồng) có tác dụng làm tăng chiều cao
cây, tăng tỷ lệ nở hoa, hoa to, độ bền dài và nở đúng thời điểm mong muốn.
Thời gian chiếu sáng bổ sung dài hay ngắn phụ thuộc vào đặc tính của từng giống,
từng mùa. Thời gian chiếu sáng bổ sung khoảng từ 20 đến 30 ngày vào ban đêm. Có thể
chiếu sáng theo chu kỳ 10 phút sáng và 20 phút tối (Từ 8h30 tối - 2h45 sáng).
- Khoảng cách giữa các dây là 2,4m
- Khoảng cách giữa các bóng trên dây là 2,5m
- Khoảng cách từ mặt đất đến đèn: 2,7m
- Bóng đèn được sử dụng là bóng huỳnh quang 20w
- Bóng đèn được điều khiển bởi bộ hẹn giờ
- Tùy thuộc vào tiêu chuẩn chiều cao của cành hoa, người sản xuất có thể ngắt điện
khi cây cao từ 30 – 45cm
- Để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, chất lượng của cây con có vai trị quan trọng,
nếu cây con chất lượng kém, rễ phát triển không đồng đều, thời gian chiếu sáng phải tăng
lên, dẫn đến cây phân nhánh nhiều trong quá trình ra hoa làm giảm chất lượng cành hoa.
2.2.2. Ảnh hưởng của quang chu kỳ đến sự ra hoa ở cây hoa cúc
Cúc thường ra hoa vào mùa thu bởi thời gian ban ngày ngắn hơn ban đêm. Dựa vào
đặc điểm này, ánh sáng nhân tạo đã được sử dụng để cung cấp thêm thời gian chiếu sáng
vào ban đêm nhằm ức chế q trình ra hoa thơng qua đó điều khiển được thời gian ra
hoa. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng tới cây hoa Cúc, các tác giả Yulian và cộng
sự [24] đưa ra kết luận Cúc là cây ngày ngắn, ưu sáng và đêm ưu lạnh. Thời kì đầu cây
non mới ra rễ, cây cần ít ánh sáng, trong q trình sinh trưởng, ánh sáng quá mạnh cũng
sẽ làm cho cây chậm lớn và chất lượng hoa giảm.
Quang chu kì ảnh hưởng đến quá trình ra hoa Cúc: khi thời gian chiếu sáng bằng
hoặc ngắn hơn độ dài chiếu sáng tới hạn (11 giờ/ngày-đêm) thì hình thành mầm hoa và
nụ, khi thời gian chiếu sáng dài hơn độ dài chiếu sáng tới hạn thì khơng thể hình thành
mầm hoa.
Quang chu kì cũng ảnh hưởng đến chất lượng hoa Cúc: giai đoạn sinh trưởng cây
cần ánh sáng ngày dài trên 13 giờ, thời kì phân hóa mầm hoa cây cần ánh sáng ngày ngắn
từ 10 – 11 giờ/ngày-đêm thì chất lượng hoa Cúc tốt nhất [3].
14
Do đó, phải bổ sung nguồn sáng trong khoảng 30 ngày sau khi cây giống được
trồng, theo tập quán truyền thống của nông dân, khi xuống giống được 3 ngày, nhà vườn
sẽ thắp điện mỗi đêm khoảng 5 - 6 giờ liên tục trong 25 - 30 ngày để tránh Cúc “đóng
nụ” sớm khi cây chưa đạt độ cao cần thiết.
2.3. Ẩm độ
2.3.1. Ảnh hưởng của ẩm độ đến sự ra hoa ở cây hoa cúc
Hoa cúc là cây tiêu hao nhiều nước, nhưng không chịu được ngập úng và cũng chịu
hạn kém. Độ ẩm thích hợp cho cây sinh trưởng phát triển tốt 60 – 70%, độ ẩm không khí
55 – 65%. Nếu độ ẩm khơng khí q cao, hoa dễ bị nhiễm sâu bệnh, hoa rễ bị nhàu nát,
cây con dễ đổ và khó cho việc thu hoạch.
Trong đất cần có một độ ẩm thích hợp để cây trồng hút được dễ dàng. Đất ngập úng
hay thiếu nước đều ảnh hưởng không tốt cho sự sinh trưởng của cây trồng. Cây trồng bị
ngập nước dẫn đến các tế bào rễ không hô hấp được nên không cung cấp đủ oxy cho hoạt
động của các tế bào rễ cùng với việc tích lũy các chất độc hại, do đó sẽ làm chết đi các
lông hút ở rễ, không thể hình thành được lơng hút mới, vì vậy cây khơng thể hút nước
nên lâu ngày sẽ dẫn đến héo và chết cây.
Ẩm độ cũng có ảnh hưởng đáng kể đến sự hấp thu dinh dưỡng của cây. Hàm lượng
nước hữu dụng trong vùng rễ thấp làm giảm sự hữu dụng các chất dinh dưỡng nên làm
cản trở các tiến trình có liên quan đến sự hấp thu dinh dưỡng. Các tiến trình đó là (1) sự
khuếch tán, (2) dịng chảy khối lượng, và (3) sự tiếp xúc của rễ.
Theo qui luật thông thường, sự hấp thu dinh dưỡng tăng khi hàm lượng nước trong
đất tăng. Khi các tế khổng đất hồn tồn đầy nước sẽ là 1 bất lợi vì hậu quả là rễ sẽ thiếu
O2, làm hạn chế sự hô hấp và hấp thu ion của rễ.
Người ta cũng lưu ý rằng cần bón phân đầy đủ để sử dụng nước đạt cao nhất.
Sự thiếu nước xảy ra khi mà nước hữu dụng (cây có thể hút được) trong vùng rễ
khơng đủ để thoả mãn nhu cầu thốt hơi của cây trồng. Sự thiếu hụt nước với các mức độ
khác nhau chính là nguyên do làm cho năng suất cây trồng biến động hàng năm. Các tiến
trình sinh lý trong cây khác nhau bị tác động của sự thiếu nước khác nhau.
Ví dụ, sự vươn dài của lá mẫn cảm với sự thiếu nước hơn là các tiến trình khác và
sự phát triển là sẽ bị ngừng trước khi toàn bộ nước hữu dụng trong đất được tiêu thụ. Rễ
cây sinh trưởng tốt nhất khi đất có đủ ẩm, cây cũng có thể ra rễ ngay cả khi đất tương đối
15
khô. Khi sự thiếu nước làm giới hạn sự sinh trưởng của rễ, sự hấp thu dinh dưỡng và
nước sẽ bị giới hạn.
Cách bón phân trong đất cũng là 1 yếu tố quan trọng cần chú ý trong các trường hợp
mà phần trên của vùng rễ bị khô nhanh và khơ kéo dài. Bón phân sâu vào vùng rễ nơi ẩm
sẽ có hiệu quả hơn. Trong các vùng khơ hạn và bán khô hạn nơi mà sự rửa trôi không
đáng kể, sự phân bố đều phân bón trong vùng rễ được cải thiện bằng cách bón thúc trên
mặt đất với liều lượng phân bón cao.
Ẩm độ đất cũng ảnh hưởng gián tiếp đến sự sinh trưởng của cây trồng do ảnh hưởng
đến dân số vi sinh vật trong đất. Ở ẩm độ quá thấp hay quá cao thì sự hoạt động của các
vi sinh vật tham gia trong các quá trình chuyển hố chất dinh dưỡng hữu dụng cho cây bị
hạn chế.
2.3.2. Các phương pháp kiểm sốt ẩm độ
Hình 2.2. Hình ảnh các thiết bị kiểm sốt ẩm độ
Ngun lý làm mát của tấm Cooling Pad
Máy làm mát hoạt động dựa trên nguyên lý bay hơi nước tự nhiên kết hợp q trình
hút khơng khí nóng bên ngồi di chuyển qua tấm làm mát Cooling Pad giúp hạ nhiệt
khơng khí. Nhiệt độ bên trong phòng sẽ giảm từ 5 - 10 độ C so với mơi trường bên ngồi.
Hệ thống cấp nước tuần hoàn sẽ bơm nước đi qua tấm làm mát Cooling Pad tạo ra
một màng nước mỏng. Khi khơng khí khơ và nóng được quạt hút qua tấm làm mát
16
Cooling Pad, nước sẽ được hấp thụ nhiệt và bay hơi, tạo ra luồng khí mới với nhiệt độ
thấp hơn và độ ẩm cao hơn.
Khơng khí bên trong được tạo ẩm và làm mát đồng thời các khí thải và bụi trong
khơng khí ngồi trời được làm sạch, cải thiện chất lượng.
2.4. Dinh dưỡng
2.4.1. Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng đến sự ra hoa ở cây hoa cúc
Cũng như các cây trồng khác phân bón là một trong những yếu tố quan trọng nhất.
Nguyên tố dinh dưỡng đã lượng N, P, K và trung vi lượng Ca, Mg, Mn,... có vai trị quan
trọng đối với sinh trưởng, phát triển, năng suất phẩm chất hoa.
- Đạm (N): Có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cúc và ảnh hưởng đến
thời kỳ phát triển cúc. Cây hoa cúc thiếu đạm cây cằn cỗi, lá chuyển vàng úa, hoa nhỏ,
không bền. Chú ý cung cấp dinh dưỡng đầy đủ và cân đối giai đoạn cúc phân cành và
thời kỳ phân hóa mầm hoa. Giúp cho cúc sinh trưởng phát triển khỏe, hạn chế sâu bệnh
hại. Lượng đạm nguyên chất dùng cho 1ha là 140 – 160kg.
- Lân (P2O5 ): khi bón và bổ sung đầy đủ lân cho cúc, giúp thân cức, hao bền, màu
sắc đẹp ra hoa nhanh chóng, giúp cho việc hấp thụ dinh dưỡng khác được thuận lợi.
Thiếu lân rễ phát triển kém, hoa chóng tàn, màu hoa nhạt, hoa ra muộn. Lượng lân
nguyên chất sử dụng cho 1 ha là 120 – 140 kg.
-Kali (K2O): Giúp cây chịu hạn, chịu rét, chống sâu bệnh. Thiếu K hoa cũng bị ảnh
hưởng, không tưới tắn, mau tàn. Lượng K nguyên chất cho 1ha yêu cầu 100 -120 kg.
- Dinh dưỡng trung và vi lương: tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng, hạn chế sâu
bệnh hại, tăng phẩm chất cho hoa.
2.4.2. Các phương pháp bón phân cho cây hoa cúc
Nếu bón phân theo phương thức canh tác thơng thường:
Nhu cầu phân bón cho cây hoa cúc trong 1vụ/1000 m2 như sau:
- Phân hữu cơ: 200–300kg (có thể sử dụng phân trùn quế hoặc bounceback,
Dynamic…). Hoặc có thể sử dụng phân chuồng hoại mục: 10 – 12 m3.
- Trichoderma: 1kg
- Magie Sulphate: 5kg
- Vôi: 70 - 100 kg, tùy theo độ pH của đất
- Phân hóa học (theo lượng nguyên chất): 250kg N – 160kg P2O5 – 200kg K2O
Có thể sử dụng phân đơn (ure, supper lân, kali) hoặc phân hỗn hợp (các loại NPK,
17
+ Bón lót: Tồn bộ phân chuồng, vơi, lân vi sinh, Magie Sulphat, ½ P2O5 . Lưu ý:
khơng bón vơi chung với các loại phân bón như trên)
+ Bón thúc:
Lần 1: 8kg N – 2kg P2O5 – 2kg K2O. Bón thúc sau trồng từ 10 – 15 ngày.
Lần 2: 8kg N – 2kg P2O5 – 4kg K2O. Bón thúc sau trồng từ 30 – 35 ngày.
Lần 3: 5kg N – 2kg P2O5 – 7kg K2O. Bón thúc sau trồng từ 50 – 55 ngày.
Lần 4: 4kg N – 2kg P2O5 – 7kg K2O. Bón thúc sau trồng từ 70 – 75 ngày.
Lưu ý: Khơng bón phân lúc sáng sớm vì cây cịn ướt dễ gây cháy lá, khơng bón vào
buổi trưa nắng. Nên bón vào lúc 7 giờ đến 9 giờ sáng, những ngày đầy đủ ánh sáng. Sau
khi bón song cần tưới nước đẫm để cây có thể hấp thu phân bón. Rải phân bón bằng tay
nhưng khơng để phân rơi trên lá, trên ngọn vì phân sẽ làm cây bị cháy lá và cháy ngọn,
nếu tưới nước không kịp thời sẽ bị cháy lá
Có thể bổ sung một số phân vi lượng, bón phân vi lượng tùy thuộc vào tính chất,
thành phần của đất và các biểu hiện thiếu vi lượng của cây trồng như sau:
- MgSO4: 10kg/1000 m2
- FeS O4: 1 – 2kg/1000m2.
- ZnS O4: 1 - 2kg/1000m2.
- MnS O4: 1 - 2kg/1000 m2
- Na2MoO4: 0.5 - 1gr/1000 m2
Ngồi ra trong q trình canh tác có thê bổ sung thêm một số loại phân bón qua lá,
tùy thuộc vào tình hình sinh trưởng của cây. (Có thể sử dụng rong biển, Protifer, bud
booster, super humic, caltrac, bortrac…)
Nếu bón phân thơng qua hệ thống tưới
Áp dụng cơng thức sau:
Đối với cây từ 2 đến 6 tuần tuổi:
Hỗn hợp A & B được tưới riêng biệt (cách nhau 6 - 7 ngày)
- Hỗn hợp A:
Ca(NO3)2: 24gr/l
500L/1000m2
KNO3: 20gr/l
18
- Hỗn hợp B:
MAP: 16gr/l
500L/1000m2
MgSO4: 16gr/l
Đối với cây trên 6 tuần tuổi (7 ngày tưới/lần): 250L/1000 m2
- Hỗn hợp A:
Ca(NO3)2: 24gr/l
250L/1000m2
KNO3: 10gr/l
- Hỗn hợp B:
MKP: 20gr/l
250L/1000 m2
MgSO4: 16gr/l
* Phương pháp tưới:
- Phân được pha đúng nồng độ liều lượng và được khuấy trộn đều cho đến khi toàn
bộ lượng phân được hòa tan.
- Tưới phân vào sáng sớm (Nếu tưới trễ, nắng nóng sẽ làm cháy lá hoặc tạo ẩm độ
cao vào chiều - tối)
2.5. Chất điều tiết sinh trưởng
Ảnh hưởng của chất điều tiết sinh trưởng đến sự ra hoa ở cây hoa cúc
Các chất điều tiết sinh trưởng có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh q trình
sinh trưởng, phát triển và các hoạt động sinh lý của cây trồng. Căn cứ vào hoạt tính sinh
lý của các chất điều tiết sinh trưởng, các nhà khoa học đã phân thành 2 nhóm chất là các
chất kích thích sinh trưởng và các chất ức chế sinh trưởng. Các chất kích thích sinh
trưởng như GA3, IAA, IBA... có tác dụng kéo dài chiều cao cây, kéo dài chiều dài cành
hoa, tăng số cành nhánh, tăng kích thước hoa. Các chất ức chế sinh trưởng như CCC, B9,
MH... có tác dụng giảm chiều cao cây nhưng làm tăng đường kính thân. Vì vậy, chất điều
tiết sinh trưởng thực vật ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp
nói chung và trong sản xuất hoa nói riêng. Hiện nay đã có nhiều kết quả của các nhà khoa
học nghiên cứu về chất điều tiết sinh trưởng đối với cây hoa cúc để nâng cao năng suất,
chất lượng hoa.
Khi nghiên cứu tác dụng của Axit Gibberellic (GA3) và Malein hydrazyt
(MH) sau khi trồng 30 và 60 ngày đến sự phát triển hoa và năng suất của hoa cúc được
trồng trong điều kiện nhà lưới, S.R. Dalal và cs (2009) [72] đã cho thấy GA3 ở nồng độ
19
200 ppm làm tăng chiều cao cây tối đa, thúc đẩy nhanh sự ra hoa, tăng đường kính của
hoa, chiều dài của cuống hoa và năng suất giống hoa cúc thí nghiệm. Phun MH ở nồng độ
750 ppm làm tăng số nhánh trên cây và đường kính bơng hoa. Ksenija Karlovie và cs
(2004) [54] đã nghiên cứu các nồng độ khác nhau của Daminozide (B9) và Chlormequat
(CCC) là những chất ức chế sinh trưởng đến sự sinh trưởng của cây hoa cúc
‘Revert’. Kết quả cho thấy Daminozide ở nồng độ 2.000 ppm có tác dụng làm giảm
chiều cao cây hoa tốt nhất, số lượng chồi hoa cũng giảm đi và hiệu quả cao hơn so với
việc sử dụng chất Chlormequat.
Prohexadione Calcium (Pro-Ca) là chất có tác dụng ức chế quá trình sinh tổng hợp
gibberellin làm giảm chiều dài tế bào của đốt thân, chiều cao cây, chậm quá trình sinh
trưởng của cây và được sử dụng cho cây trồng chậu, trồng thảm... Yoon Ha Kim và cs
(2010) [76] đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của Prohexadione Calcium (Pro-Ca) và
Daminozide (B9) đến sự sinh trưởng, phát triển của giống Cúc (MorifoliumR. cv
Monalisa White) 3 tuần tuổi, phun 3 lần (mỗi lần cách nhau 7 ngày). Kết quả cho thấy ở
nồng độ 400 ppm Pro-Ca làm giảm chiều cao cây 30,7%, tăng đường kính thân cây, khối
lượng cây và số lượng hoa không bị ảnh hưởng. Hiệu quả sử dụng của Pro-Ca cao hơn
B9 và ít độc hại hơn với sức khỏe con người.
20
Chương 3
ĐIỀU TIẾT SỰ NỞ HOA CỦA CÂY HOA CÚC
3.1. Nghiên cứu thời vụ trồng các giống hoa cúc
Nguyễn Thị Kim Lý (2001)[22] qua nghiên cứu và đánh giá một số giống địa
phương và nhập nội cho thấy các loại cúc này đều có thể trồng được vào các thời vụ khác
nhau như vụ Hè-Thu, Thu-Đông và Đông-Xuân, nên chúng ta có thể sản xuất hoa cúc
quanh năm. Tuy nhiên, cần xác định đúng thời điểm trồng cho các giống hoa thích hợp để
hoa có thể nở đúng vào dịp cần dùng giá trị hoa cao và lượng tiêu thụ hoa lớn hơn. Ở Việt
Nam, lễ hội thường tập trung vào dịp sau Tết nguyên đán nên các thời vụ cúc trồng từ
tháng 11 trở đi (nhất là các giống cúc chùm Hà Lan) được trồng nhiều nhất vì giá hoa cúc
ở thời điểm này thường cao hơn so với các thời điểm khác trong năm từ 200-300
đồng/bông (Nguyễn Thị Kim Lý và cs, 1998 [20]); (Nguyễn Thị Kim Lý và cs, 1999
[21]). Vì vậy, khi nghiên cứu thời vụ trồng một số giống hoa cúc vào các dịp lễ tết,
Nguyễn Thị Kim Lý (2001)[22] đã có kết quả như sau:
- Để cúc ra hoa vào dịp tết Nguyên đán ta có thể trồng các giống CN97, Vàng Đài
Loan, Đỏ Ấn Độ, Cúc Gấm. Trong đó, hiệu quả kinh tế cao nhất là Vàng Đài Loan. Nếu
giống này trồng vào 10/10, hiệu quả sẽ gấp 3,17 lần so với đối chứng, trồng vào 20/9
3.2. Điều chính sự ra hoa của cây cúc đúng dịp tết nguyên đán
Thời gian ra hoa tự nhiên của hoa Cúc là kết quả của phản ứng với điều kiện ngoại
cảnh của tính di truyền. Các loại giống khác nhau trong cũng hoàn cảnh như nhau thì có
thời gian ra hoa khác nhau. Các vùng có vị trí địa lý và địa hình khác nhau tuy cùng một
giống nhưng thời gian ra hoa cũng khác nhau. Vì vậy để cây cúc có thể ra hoa đúng dịp
tết chúng ta phải điều khiển kết hợp các yếu tố như nhiệt độ, ánh sáng, chế độ nước tưới,
lượng phân bón và sử dụng chất điều hịa sinh trưởng.
3.2.1. Điều chính thời gian ra hoa bằng ánh sáng
3.2.1.1. Giai đoạn chiếu sáng bổ sung.
Hiện nay các nhà sản xuất thông qua khống chế quang chu kỳ kết hợp với khống
chế nhiệt độ có thế làm cho Cúc quanh năm có hoa. Biện pháp kéo dài thời kỳ sinh
trường dinh dưỡng làm chậm sự nở hoa bằng chiếu sáng bổ sung:
Thời gian bắt đầu chiếu sáng bổ sung mỗi ngày: Mục đích của chiếu sàng bổ sung
là giảm thời gian tối của mỗi ngày chứ không phải là kéo dài thời gian chiếu sáng liên
tục. Vì vậy nếu chiếu sáng thực hiện vào lúc nửa đêm để chia cắt thời gian tối liên tục
21
thành hai giai đoạn tối, đồng thời cũng là để tăng số giờ chiếu sáng thì hiệu quả hơn
nhiều. Nguyên tắc xác định thời gian chiếu sáng bổ sung là làm cho thời gian tối liên tục
trong đêm mỗi đoạn ngắn hơn 7 giờ. Nói chung được thực hiện vào khoảng 11h đêm đến
4 giờ sáng hôm sau. Như vậy mỗi nửa kỳ tối đều không vượt quá 7 giờ (Đặng Văn
Đông,2003 [4]).
Số giờ chiếu sáng bổ sung mỗi ngày. Trên nguyên tắc đảm bảo hai đoạn tối không
vượt quá 7 - 8 giờ, thời gian cụ thể số giờ cụ thể phải căn cứ vào nhiệt độ thời tiết từng
nơi và phải tính đến đặc điểm giống. Giống ra hoa sớm, trong điều kiện ngày tương đôi
dài, cây đã bắt đầu phân hố mầm hoa thì số giờ chiếu sáng bổ sung phải dài. Giống ra
hoa muộn thì ngược lại. Trung hình thời gian chiếu sáng thường biến động từ 2 ~ 5 giờ
(Đặng Văn Đông,2003 [4]).
Cường độ chiếu sáng khi chiếu sáng bổ sung: Khi chiếu sáng bổ sung thì tất cả tán
cây đều phải hấp thụ được đủ cường độ chiếu sáng mới có hiệu quả. Các giống khác nhau
có độ mẫn cảm với cường độ chiếu sáng khác nhau Cường độ chiếu sáng tự nhiên của
mỗi vùng cũng khác nhau rất. lớn. Vì vậy yêu cầu cường độ chiếu sáng tối thiếu ở từng
địa phương cũng không giống nhau, thông thưởng từ 30 - 100 lux. Đại đa số các giống
cần 170 lux, một số giống khơng mẫn cảm thì cần cường độ chiếu sáng mạnh hơn. Cường
độ ánh sáng không đủ cũng giống như thời gian chiếu sáng bổ sung không đủ để sinh ra
hiện tượng đầu lá liễu và không đủ điều kiện ra hoa, Trong sản xuất nguời ta cần phải sử
dụng ảnh sáng đủ mạnh để xử lý. (Đặng Văn Đông,2003 [4]).
Sự phối hợp nguồn sáng: Khi chiếu sáng bổ sung cần xác định cự ly chiếu sáng để
bố trí bóng đèn công suất to nhỏ khác nhau, thông thường dùng đèn ảnh sáng trắng (đèn
bóng trịn. dây tóc). Nếu sử dụng đến cơng suất nhỏ thì đỡ tốn điện nhưng phải dùng
nhiều bóng. Trong sản xuất điện tích lớn dùng nhiều bóng đèn nên ảnh sáng các bóng
trùng lên nhau làm tăng cường độ chiếu sáng, tăng diện tích chiếu sáng hữu hiệu của mỗi
bóng làm cho mỗi bóng 100 W có thể có hiệu quả tới 16m2 (mật độ 4 x 4 m2 /lbóng).
Bóng đèn được mắc trên dây giữa luống và thường treo ở độ cao cách đỉnh ngọn từ 05 m.
Treo thấp quá thì ảnh sáng và nhiệt bởi các cây khơng đầu Trên mỗi bóng đèn thường che
một. tấm phản quang để tập trung cường độ ảnh sáng xuống cây. Có thể dùng quang độ
kế để đo cường độ nhiều sáng. Ngồi bóng đèn trắng thì các nguồn sáng khác cũng có
hiệu quả. Dùng đồng hồ (hoặc …Role ngắt) đo thời gian để khống chế thời gian chiếu
sáng mỗi ngày cho chính xác (Đặng Văn Đơng,2003 [4]).
22